Mùa khô năm hai ngàn đến với vùng đồi núi Nam Lào một cách lạ thường. Mới giữa tháng ba dương lịch mà hầm hập khô rang. Sông cạn, suối khô, cây cỏ xơ xác, đồi núi tỏa hơi như lò hấp. Con đường đất đỏ như dải lụa vươn qua những đỉnh đồi thấp. Từ cuối đường chiếc Ford Ranges xanh đen, mang biển số quân sự, chạy lên đồi. Ghế bên là người đàn ông tuổi ngoài năm mươi, đeo quân hàm đại tá. Chiếc xe lên đỉnh đồi chạy trên một bình nguyên bằng phẳng bốn bề cỏ gai khô xào xạc:
- Vậy là sắp tới vùng chiến địa năm xưa rồi.
- Lần này ba thấy có hy vọng gì không?
- Ba không biết...
- Hơn ba chục năm, sông núi cũng đổi thay.
- Ân tình biết thế nào cho đủ! Cứ nghĩ nếu không gặp bà ấy thì làm gì còn ba ngày nay...
- Quá khứ sống trong tâm tưởng chúng ta mãi mãi nhưng sẽ không bao giờ trở lại. Biết đâu bà đã hy sinh như hàng triệu người khác.
- Dù vậy ba cũng muốn tìm đến mảnh đất đã đón nhận bà ấy.
- Con cũng mong điều đó lắm.
Đại tá gật đầu:
- Con trẻ mà hiểu được thế ba rất mừng.
- Ba từng dạy con đạo lý ở đời làm ơn há để mong người trả nghĩa!
- Đúng vậy...
Đại tá trầm tư phóng tầm nhìn ra con đường mờ mịt bụi. Xa xa trên đồng cỏ khô xuất hiện nhiều đám lửa khói. Người dân đang dọn dẹp mặt đất, chuẩn bị cho lớp cỏ mới non tơ sẽ xuất hiện khi mùa mưa đến. Người con trai tôn trọng suy tư của ba nên im lặng, chăm chú cho xe xuôi dốc. Phía trước cách ngọn đồi thấp đã nhìn thấy quốc lộ 9, đoạn nối cửa khẩu Lao Bảo của Việt Nam với thị xã Sê Pôn của Lào. Con đường sau chiến tranh được mở rộng, nâng cấp trải nhựa, chạy ngược dòng sông Sê Pôn tới cửa khẩu Lao Bảo.
- Thị xã Sê Pôn đó là địa danh ba không bao giờ quên.
- Đất nước mình nơi đâu chẳng hùng vĩ tự hào, đáng nhớ hở ba?
- Con chưa rõ chuyện đâu...
Chiếc Ford Range từ đường nhánh lao ra trục chính. Xe bon nhanh trên đường phẳng đi vào con phố sầm uất của thị xã Sê Pôn mới được xây dựng. Đại tá trầm tư ngắm nhìn, trong óc vang lên lời độc thoại:
“Ba mươi năm, ba người đàn bà... Một người chỉ xuất hiện trong cuộc đời hai khoảnh khắc rồi qua đi không để lại dấu vết, nhưng mỗi khi chợt nhớ lại thấy cảm giác bỏng rát của vết thương nơi cổ. Hai người vợ đã là hai thế giới, xưa và nay. Có phải sự níu kéo của quá khứ đã làm mình không an phận với hiện tại? Một hiện tại mà tất cả đàn ông ước ao: Thành đạt, vợ đẹp, con khôn, cuộc sống đầy đủ tiện nghi giữa thủ đô phồn hoa...”.
Khi tiến vào cửa khẩu xếp hàng làm thủ tục hải quan, người sĩ quan cửa khẩu Lào nhận ra đại tá:
- Ôi! Đại tá lại sang Việt Nam à?
- Ờ, tôi và con trai...
- Hộ chiếu, thưa đại tá!
Chan Hua rút hai quyển hộ chiếu của mình và con trai trong túi ngực đưa qua cửa xe.
- Đại tá có thể đi được rồi.
Chan Hua giơ tay vẫy chào. Người sĩ quan Lào ấn nút điện cho cần barie nâng lên. Chiếc Ford Range tăng tốc đi vào Lao Bảo, đỗ lại trước một tiệm cà phê. Đại tá và con trai xuống xe ngồi vào chiếc bàn trống trên hiên nhà được che nắng bởi mái bạt di động. Trong tiệm có vài tốp khách, chủ yếu là thanh niên. Bà chủ cửa hàng đứng trong quầy tươi cười, cô nhân viên tới hỏi khách:
- Thưa chú và anh dùng chi ạ?
- Này cô gái, bà chủ cô bán hàng ở đây đã lâu chưa?
- Dạ, cô cháu mới mở cửa hàng.
- Bà là người nơi khác tới lập nghiệp?
- Cô cháu sống từ nhỏ ở đây mà.
Chan Hua đứng dậy bước tới quầy.
- Cho tôi nói chuyện với bà vài phút được không?
- Quý khách muốn hỏi chi...
- Tôi muốn tìm một người, một cô y tá có đôi mắt to tròn, tóc dài chấm khoeo, tên là Nga.
- Tôi không rành ai như vậy, mà cổ còn trẻ không?
- Y tá Nga có thể lớn hơn tôi một hai tuổi. Đầu năm 1971 trong Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, chị ấy phục vụ ở T34.
- Vậy thì tôi không giúp chi được. Hồi đó tôi và các con bị dồn vào ấp chiến lược dưới Khe Sanh.
Đại tá vẻ thất vọng. Đám thanh niên trẻ ngồi gần đó hóng chuyện cười rộ lên. Một thanh niên mặc áo ca rô cợt nhả:
- Thủ trưởng đi tìm người tình xưa phải không? E cái cô Nga mắt to tròn, tóc dài tới khoeo, từ năm bảy mốt tới giờ chắc tóc trụi lụi, mặt nhăn nhúm, mắt sụp mi ti hí rồi à.
- Các chú biết chi chuyện ân tình của người lớn mà góp chuyện. Ân tình trong chiến tranh trả bằng máu, bằng mạng sống đó.
Đám thanh niên cụt hứng im lặng. Mấy ông già ngừng chơi cờ nhìn đại tá thăm dò. Cô nhân viên bưng hai ly cà phê đá ra bàn. Anh con trai gọi ba bằng tiếng Lào.
Chan Hua trở lại bàn ngồi. Một ông tầm tuổi 60 rời bàn cờ mang theo ly cà phê tan gần hết đá của mình tới trước mặt, giọng chân tình:
- T34 giải thể từ lâu lắm rồi, đồng chí ạ.
- Mời bác ngồi xuống đây.
Đại tá kéo ghế. Ông già ngồi xuống:
- Người Việt Nam nào tầm tuổi tôi chẳng có một thời chinh chiến, không bên này thì bên kia. Tôi từng tham chiến cả hai bên. Bị bắt vào lính Sài Gòn đi vây ráp Việt cộng, rồi đào ngũ chạy sang phía cách mạng. Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, tôi trong đơn vị hậu cần lo bảo vệ đường ống xăng dầu, từng bị thương, từng được cứu chữa ở Trạm T34.
- Vậy là bác có biết y tá Nga truyền máu?
- Tôi không biết. Có thể khi tôi tới, y tá Nga đã chuyển làm nhiệm vụ nơi khác. Tôi nằm T34 hơn tháng trời nhưng không gặp cổ. Không thấy ai mắt to tròn, tóc dài tới khoeo.
- Chị ấy thường búi mái tóc thành hai cuộn hai bên như thế này này.
Chan Hua giơ hai nắm đấm đặt lên trên hai tai. Ông già lắc đầu:
- Không có ai vậy cả. Đồng chí có thông tin chi nữa không? Chẳng hạn như quê quán, chồng con hay bạn bè?
Chan Hua lắc đầu. Hai ông bạn già đánh cờ cũng bỏ bàn cờ mang ly nước của mình tới bàn đại tá. Người con trai lễ phép đứng dậy kéo ghế mời hai ông lớn tuổi. Ba người đàn ông già ngồi quanh đại tá vẻ chân tình, thông cảm. Ông có mái tóc bạc trắng nhưng gương mặt thì trẻ nhất trong ba ông lên tiếng:
- Đồng chí nên vào cơ sở quân y nào đó mà hỏi. Thời gian đã ba mươi năm, chỉ cơ quan lưu giữ hồ sơ, may chăng mới lần ra tung tích.
Ông bạn chơi cờ có vết sẹo thủng má, mồm méo tham gia, giọng hơi ngọng:
- Chú Thu nói đúng đó. T34 là một trạm trung chuyển lớn trong chiến tranh, hàng ngàn thương binh qua trạm. Hẳn người ta còn lưu giữ tài liệu về nó.
- Cũng không biết thế nào. Đâu xa như bác Bần, khu phố 2 phường mình, người bị thương sờ sờ nằm đó vợ con nuôi mà hồ sơ thì mất.
- Cám ơn các bác gợi ý. Đúng là tôi chưa nghĩ tới việc nhờ cơ quan hữu trách.
Cha con đại tá tìm đường vào T34 lúc sáng sớm, sương ướt đẫm cành lá. Ngồi trên xe Chan Hua mở bản đồ vùng biên giới Đường 9 ra xem. Tiếng chim rừng lảnh lót hót chào nắng sớm. Nền đường còn khá tốt, nhiều đoạn trải cấp phối dày cỏ không mọc được còn nhìn rõ nền đá. Đôi chỗ còn cả đống cấp phối chưa trải đổ bên đường. Xe đi qua khu rừng non mới trồng tiến vào rừng già. Dấu tích của bom đạn còn lại là số cây cụt ngọn chết khô, đứng giữa những cây hồi sinh, đâm cành nảy lộc xanh um. Một cây gạo nở hoa đỏ rực cả khoảng rừng. Đàn chim cu núi gù gù trên cành. Xa xa bên sườn núi trước mặt có một buôn làng mới định cư bên vạt nương và những thửa ruộng bậc thang. Đại tá chỉ phía trước:
- Hết đoạn dốc này, lội qua suối là Trạm T34 đó.
- Rừng núi hoang vu, còn có ai ở đó đâu mà ba tìm vào?
- Ba rành nhưng muốn tìm những dấu tích.
- Ba ơi, có phải ngày xưa ba đã thổ lộ tình yêu với cô y tá tóc dài mắt to tròn đó không?
- Thật ra ba chưa từng nói được với cô ấy một lời.
- Con hiểu ba muốn nhắc tới tình yêu nước.
- Đó là cái tâm người cộng sản.
- Ba lại nâng quan điểm rồi.
Chan Da co chân nhảy trên độ cao chừng hai mét xuống đất. Anh lấy tấm bản đồ, địa bàn trên ghế, mở cốp xe lấy ba lô dã chiến đựng các vật dụng linh tinh... Chan Da đeo ba lô trên vai, bập con dao rừng vào thân gỗ rồi lùi lại lấy đà nhảy vót lên như động tác vượt tường. Chan Hua nhìn sự nhanh nhẹn như chú báo của con trai, mỉm cười hài lòng. Hai cha con đứng trên thân cây một lát rồi Chan Da đe ba lô, cầm dao nhảy xuống, quay lại đỡ ba.
Hai cha con ngồi nghỉ trên tảng đá phẳng trước cửa hang khá lớn. Hang đá chính là bản doanh của T34 năm xưa. Cây cối hồi sinh xanh um xóa đi những vết bom lở lói, tạo nên thảm cây cỏ và dây leo nở hoa tím hoa vàng. Không còn một cây to nào tồn tại được trước cửa hang, chỉ còn vài gốc cây cổ thụ chết khô vươn thân gỗ bị chẻ tướp đen xịt lên trời mà đám dây leo chưa vươn tới được. Ven suối nhỏ hai quả bom nổ chồng sát nhau tạo thành cái ao hình số 8. Trên vách đá cao còn dấu tích của những quả rốc két và tên lửa nổ tạo ra những vết lõm lỗ chỗ.
Chan Da ngồi trên tảng đá phẳng lấy lương khô ra ăn. Ngược lại đại tá lại tỏ ra không mấy mệt mỏi gương mặt thể hiện một sự xúc động bồi hồi.
Chan Hua đứng dậy, lững thững trèo bậc đá do công binh đục lên cửa hang. Những hình ảnh của quá khứ hiện ra trong óc ông:
Bãi bằng cửa hang ngày xưa ngổn ngang hố bom, đất đá lộn nhào, không một ngọn cỏ, đôi chỗ lửa cháy âm ỉ bốc lên làn khói trắng.
Đại tá bước tới sờ tay lên vách đá rêu phong lần tìm. Ông tìm được nét chữ liền bẻ cành cây vạch rêu tô cho rõ nét. Chữ T34 dần dần hiện ra dưới bàn tay ông. Đại tá bồi hồi nhìn dòng chữ, lặng người đi một lúc, bước vào hang.
Vòm hang rộng, ngay sau cửa là phòng phẫu thuật ngày xưa với hai giường đại phẫu và tiểu phẫu trong lều bạt, có xe đạp điện chiếu sáng, xung quanh những hốc đá công binh lát gỗ tạo thành những chiếc giường to nhỏ tùy theo địa hình cho phép, làm giường điều trị thương binh hậu phẫu chờ chuyển ra tuyến sau. Ngày nay vẫn còn dấu tích hai chiếc bàn mổ với chân gỗ chôn xuống nền hang, tất cả đã nâu xỉn, bụi và phân dơi dày vài phân. Những giường nằm xung quanh cái đổ nghiêng, cái sụp xuống thành đống, một vài cái vẫn vững vàng mặc thời gian đã ba chục năm. Chan Hua đứng lặng giữa phòng phẫu bùi ngùi rưng rưng nước mắt. Lát sau ông bước lại chiếc giường một trong một khe đá nhỏ nơi ông đã nằm sau ca phẫu chờ chuyển ra tuyến sau. Chiếc giường là tấm gỗ dày cả tấc kê trên hai khúc gỗ tròn lọt giữa khe đá, vẫn khá vững vàng mặc thời gian và thời tiết ẩm ướt. Có lẽ lớp phân dơi dày phủ trên làm tăng sức bền của gỗ. Chan Hua hình dung lại cảnh mình nằm trên giường, cổ băng kín tới cằm, miệng há ra thở, mở to mắt nhìn y tá Nga, đôi mắt to tròn hiền hòa và mái tóc dài thướt tha tới tận khoeo đứng bên giường, khe khẽ hát một bài ca về Huế cho anh nghe... Đại tá xúc động vội quay ra cửa hang. Tới cửa hang ông đứng lại định hình rồi xăm xăm lần theo vách đá chừng dăm chục thước đi tới một hốc đá nhỏ bằng ba gian nhà. Chan Hua vào trong hốc đá đứng lặng. Nơi đây ngày xưa được coi như nhà xác. Tử sĩ chưa kịp chôn được bó bạt xếp nằm trên sạp gỗ. Phía trong hang có một giá gỗ xếp những chiếc ba lô di vật của họ. Chan Hua hình dung thấy mình nằm cứng đơ trên sạp, đầu quay vào vách đá. “Mình đã từ đây trở về cuộc sống... Xin tổ tiên hãy cho con tìm được chị Nga. Nếu không có chị thì con đã vĩnh biệt thế giới từ nơi này. Sẽ chẳng còn gì hết. Sẽ chỉ là nắm xương tàn đâu đó trong rừng hay trong nghĩa trang...”. Đại tá thấy mình sắp rơi nước mắt vội quay ra, trở lại con trai ngồi.
Chan Da nhìn cha im lặng. Chan Hua xúc động cũng im lặng...