Tôi ngồi đấy, bất lực, lòng biết rằng hiện tại thầy của mình sẽ đến bất cứ lúc nào; và nếu mụ Morwena thành công, thì thầy sẽ là người đầu tiên trong hai chúng tôi phải chết. Nhưng tình hình chưa đến nỗi vô vọng lắm, vì một lý do riêng tư kỳ quái nào đó mà Quỷ Vương đã rời bỏ chúng tôi. Thầy tôi sẽ không dễ bó tay chịu trói như thế. Ít ra thầy còn có cơ hội chiến đấu. Nhưng làm sao tôi có thể giúp thầy đây?
Tôi vùng vẫy, cố thoát ra khỏi sợi thừng dày đang trói mình vào cây cột. Thừng buộc chặt thít, dù tôi có uốn éo vặn vẹo cỡ nào cũng chẳng nới ra nổi. Tôi nghe thấy một âm thanh thoáng từ xa vọng lại. Là một trong hai tên đang mai phục chăng? Hay là Thầy Trừ Tà?
Ngay sau đấy thì không còn nghi ngờ gì nữa. Thầy Trừ Tà đang đi xuống cầu tàu về phía tôi, tay mang túi và trượng, tiếng bước chân vang dội. Tôi nghĩ là thầy trò tôi nhìn ra nhau cùng một lúc, vì ngay khi tôi đưa mắt nhìn thầy thì thầy đứng lại ngay. Thầy quan sát tôi một đỗi lâu trước khi tiếp tục di chuyển từ tốn hơn. Tôi biết thầy đã nhận ra đây là một cái bẫy. Bằng không tại sao tôi lại bị trói lộ liễu đến thế cơ chứ? Vậy là thầy có thể, hoặc rút lui thoát thân, hoặc tiến đến với hy vọng sẽ đối phó được với bất cứ trò gì giăng sẵn. Tôi biết thầy sẽ không bỏ mặc tôi – vậy nên chẳng còn lựa chọn nào khác.
Bước thêm chừng hai mươi sải thì thầy dừng ngay bên dưới một cây cột sừng sững chống đỡ cho mái nhà kho. Thầy nhìn chăm chú vào xác hai con ngựa. Ánh đèn soi rõ mặt thầy, và nhờ ánh sáng ấy mà tôi có thể thấy, mặc dù trông già nua và có phần hốc hác, đôi mắt thầy tôi vẫn long lên dữ tợn, các giác quan của thầy rõ là còn nhạy bén sắc sảo, đang dò xét những hốc lõm tối om trong nhà kho đánh giá hiểm nguy.
Thầy bước tiếp đến chỗ tôi. Lẽ ra tôi đã hất đầu về phía mặt nước để cảnh báo mối đe dọa từ mụ Morwena cho thầy. Nhưng làm thế biết đâu sẽ khiến thầy mất cảnh giác với những nguy hiểm khác từ vùng tối phía bên phải mình.
Thốt nhiên, chưa tới hai mươi bước nữa, thầy lại dừng chân. Lần này thầy đặt túi xuống và giơ trượng lên phòng thủ, hai tay cầm trượng giương theo một góc bốn mươi lăm độ. Tôi nghe thấy âm thanh không lẫn vào đâu được khi thầy bấm lưỡi dao bật ra, rồi mọi chuyện xảy đến vô cùng chóng vánh.
Hai tên côn đồ từ trong vùng tối bên tay trái tôi phóng ra, mấy con dao dài loé lên dưới ánh đèn lồng. Quay lưng lại với mặt nước, Thầy Trừ Tà xoay sang tiếp chiến. Trong tích tắc, đối phương có vẻ ngần ngừ. Có lẽ vì chúng trông thấy lưỡi dao nguy hiểm nơi đầu trượng. Hoặc là vẻ quyết tâm trong mắt thầy. Nhưng rồi, khi chúng lao đến, tay huơ dao, sẵn sàng chém dọc xuống thầy, thì thầy tấn công. Dùng phần chuôi dày cui của thanh trượng, thầy thọc một cú thích đáng vào thái dương một tên. Gã ngã xuống êm ru, dao vuột khỏi tay, cùng lúc ấy, Thầy Trừ Tà đâm tới kẻ tấn công thứ hai. Khi lưỡi dao chọc xuyên qua vai phải gã, gã cũng đánh rơi dao, sụm gối xuống rồi kêu đau the thé.
Thầy Trừ Tà nhắm trượng về phía kẻ thù đã gục ngã. Trong khoảnh khắc, có vẻ như thầy sắp sửa đâm xuống, nhưng rồi thầy lắc đầu và trầm giọng nói gì đấy. Gã kia loạng choạng đứng lên, lảo đảo đi vào vùng tối, tay bấu lấy vai. Đến khi ấy, Thầy Trừ Tà mới liếc ra sau nhìn tôi. Cuối cùng tôi cũng có thể tuyệt vọng mà hất đầu ra dấu về phía mặt kênh.
Tôi nào ra hiệu sớm hơn một giây. Mụ Morwena trồi lên bằng sức mạnh của một con cá hồi vượt qua thác đổ, hai cánh tay vươn tới chực xé nát mặt thầy, con mắt trái của mụ vẫn nhắm.
Thầy tôi đối đầu với mụ bằng tốc độ tương tự. Thầy xoay ngoắt lại, vung trượng thành đường vòng cung từ trái sang phải. Trượng chỉ hụt cổ mụ ta trong gang tấc, và với tiếng rít giận dữ, mụ ta rơi tõm xuống nước không được duyên dáng cho lắm, khiến nước văng tung tóe.
Thầy Trừ Tà đứng sững nhìn mặt nước. Thế rồi thầy với tay phải kéo mũ trùm sụp tới trước để che mắt. Hẳn thầy đã trông thấy con mắt bị ghim kín và nhận ra mình đang đối đầu với thứ gì. Nếu không nhìn thẳng vào mắt nhau thì mụ Morwena sẽ không thể sử dụng huyết nhãn với thầy. Nói cách khác là thầy tôi sẽ chiến đấu trong tình trạng "chẳng nhìn thấy gì."
Thầy bất động đứng chờ, trong khi tôi hồi hộp quan sát gợn nước lăn tăn cuối cùng tản đi, khiến mặt nước phẳng lì như gương. Thình lình mụ Morwena lại trồi lên, lần tấn công này còn đột ngột hơn lần trước. Mụ đáp xuống ngay mép cầu tàu, hai bàn chân kết màng đập "bạch" rõ to vào mấy tấm ván gỗ. Con mắt máu giờ đã mở ra, đốm lửa đỏ rực hung ác trong mắt chiếu thẳng vào Thầy Trừ Tà. Thế mà chẳng cần nhìn lên, thầy tôi đâm trượng ngay xuống hai chân mụ khiến mụ phù thủy phải thụt lùi.
Ngay lập tức Morwena tấn công thầy bằng tay trái, những móng vuốt cào qua vai thầy, may là thầy né kịp. Khi mụ ta di chuyển theo hướng ngược lại, Thầy Trừ Tà nhanh chóng thảy trượng từ tay phải sang tay trái, đâm mụ thật nhanh và mạnh. Đấy chính là chiêu mà thầy đã bắt tôi luyện tập với thân cây khô trong vườn nhà thầy – chiêu thức đã cứu mạng tôi trong mùa hè rồi khi tôi vận dụng nó chống lại Grimalkin thành công.
Thầy ra chiêu hoàn hảo nên đầu mũi giáo xiên qua sườn Morwena. Mụ ta thét lên đau đớn nhưng nhanh chóng nhảy sang bên, lộn mình nhảy xuống nước. Thầy Trừ Tà chờ một đỗi lâu nhưng mụ ta không tấn công tiếp.
Chỉ tới khi đấy thầy mới vội vã đến bên tôi, cúi người và giật chiếc khăn quàng trên mồm tôi xuống.
"Alice đang bị trói trong khoang thuyền!" Tôi hổn hển. "Ông Gilbert chết rồi ạ. Còn kẻ đã tấn công thầy từ dưới nước là mụ Morwena! Con gái của Quỷ Vương ạ! Mà có thể còn có nhiều thủy phù thủy khác đang kéo đến đây!"
"Bình tĩnh lại đi anh bạn," Thầy Trừ Tà bảo. "Ta sẽ cởi trói cho con trong tích tắc..."
Nói đoạn, thầy dùng mũi dao trên trượng cắt dây trói. Trong khi tôi chầm chậm đứng lên, xoa xoa hai cổ tay để điều hòa mạch máu, thầy tôi chỉ vào con dao lăn lóc trên vệ cầu tàu của một trong hai tên đã tấn công thầy.
"Đi giải thoát cho con bé, ta sẽ đứng gác," thầy bảo.
Chúng tôi bước lên sà lan, trượng giương sẵn sàng, Thầy Trừ Tà đứng bên tôi, dáng vẻ kiên quyết, trong khi tôi giở cánh cửa lên. Từ bên dưới, Alice nhìn tôi trân trối. Cô bị trói, bị nhét giẻ vào mồm và bọn chúng để cô nằm cạnh xác của người chở sà lan.
"Quỷ Vương đã đến đây. Hắn khoác lốt của ông Gilbert," tôi bảo với thầy mình.
"Thôi, giờ thì chúng ta không thể làm gì cho người đàn ông đáng thương này," Thầy Trừ Tà buồn bã lắc đầu. "Chúng ta phải để ông ấy lại thuyền cho người ta tìm thấy mà chôn cất. Nhưng hãy cắt dây trói cho con bé đi nào. Chúng ta phải rời khỏi đây càng nhanh càng tốt. Mụ phù thủy không bị thương nặng lắm. Chắc chắn mụ ta đang chuẩn bị để tấn công nữa đấy."
Tôi cảm thấy Alice đang run rẩy khi tôi cắt dây trói và giúp cô ra khỏi khoang chứa hàng. Cô không nói lời nào, hai mắt mở to hoảng sợ. Dường như việc ở gần Quỷ Vương đã làm Alice kinh khiếp còn hơn chuyện đó ảnh hưởng đến tôi.
Khi cả ba đứng trên cầu tàu, Thầy Trừ Tà chỉ lên hướng bắc, rồi dẫn đường rời khỏi nhà kho, thầy bước nhanh đến mức tôi chật vật lắm mới theo kịp.
"Không phải chúng ta quay về Chipenden sao thầy?" Tôi hỏi.
"Không đâu anh bạn. Sẽ không đủ thời gian nếu Morwena đuổi theo. Trước hết chúng ta về nhà Bill Arkwright tội nghiệp cái đã. Đấy là nơi trú ẩn gần nhất. Nhưng chúng ta cách xa bờ kênh này sớm chừng nào tốt chừng nấy," thầy đưa mắt nhìn mặt nước, tỏ ra dè chừng.
"Cháu biết đường ngắn hơn để đến cối xay," Alice xung phong. "Cháu từng sống gần đấy với Lizzie Xương Xẩu. Chúng ta cần băng qua con kênh rồi đi mãi về phía tây."
"Thế thì bé con ngươi dẫn đường đi," Thầy Trừ Tà bảo.
Vậy là chúng tôi vượt qua cây cầu đầu tiên, rời khỏi lối xe kéo và trực chỉ lên hướng bắc, đi qua những con phố nhỏ hẹp lát sỏi tối om om. Thành phố Caster, với tòa lâu đài cùng bao hầm ngục, không phải là nơi dành cho những kẻ theo nghề chúng tôi. May sao, có rất ít người đang ở ngoài đường. Cuối cùng, thật nhẹ nhõm làm sao, chúng tôi bỏ lại thành phố sau lưng và đi theo Alice băng qua vùng đồng quê, suốt lộ trình chỉ dùng đến ánh sáng từ những vì sao cùng vầng trăng khuyết mờ ảo. Dần dà, men theo rìa đầm lầy Tu Viện, chúng tôi đến được khu vườn quanh cối xay và con mương nước muối.
"Lần cuối thêm muối là khi nào vậy?" Thầy Trừ Tà hỏi. Kể từ lúc chúng tôi rời con kênh ở Caster, đây là những lời đầu tiên được thốt ra.
"Con mới bỏ hôm qua thôi ạ."
Khi chúng tôi bước vào vườn liễu, một tiếng gầm gừ vang lên và Vuốt phóng đến. Tôi đưa tay vỗ về đầu nó và nó lẽo đẽo theo tôi.
"Con chó này đã cứu mạng con đấy thầy," tôi kể. Thầy Trừ Tà lẫn Alice chẳng bình luận gì, và khi chúng tôi đến cửa trước, Vuốt tách ra, đi sang lối bên hông nhà dẫn về phía bánh xe nước. Dẫu sao có nó ở bên ngoài cũng đỡ hơn. Như thế thì nó sẽ lên tiếng cảnh báo nếu có mụ phù thủy nào tiến vào vườn.
Chẳng mấy chốc chúng tôi đã ở trong gian bếp của cối xay, và không phí chút thời gian nào, tôi chất củi đầy bếp lò rồi nhóm lửa lên. Thầy Trừ Tà và Alice ngồi quan sát tôi làm việc. Thầy tôi trầm ngâm suy nghĩ. Alice trông vẫn còn hoảng sợ.
"Con chuẩn bị chút điểm tâm sớm cho mọi người nhé?" Tôi hỏi.
Thầy tôi quả quyết lắc đầu. "Tốt hơn là không, anh bạn à. Chúng ta có thể đối mặt với thế lực bóng tối bất cứ lúc nào nên chúng ta phải nhịn đói. Nhưng chắc con bé này sẽ cần chút gì đấy."
Alice lắc đầu còn cương quyết hơn cả Thầy Trừ Tà. "Cháu không đói," cô nói dứt khoát.
"Chà, nếu vậy thì, chúng ta cần cố gắng hiểu chuyện gì đang xảy ra. Ngay từ đầu ta đã phát hiện có mùi dối trá," Thầy Trừ Tà khẳng định. "Vừa trở lại Chipenden, ta đã đọc được tin nhắn của Alice lẫn bức thư trước của con. Nhưng khi ta định khởi hành đến cối xay thì tiếng chuông ngoài ngã tư đường vang lên. Là tay thợ rèn trong làng – kẻ nào đó đã nhét thư dưới cửa nhà anh ta với tên ta trên ấy. Thư được đánh dấu khẩn. Là nét chữ viết tay của con, anh bạn ạ, nhưng ngoằn ngoèo run rẩy hơn bình thường, như thể con đã viết trong lúc vội. Thư bảo con đang gặp rắc rối nghiêm trọng và cần giúp đỡ. Giúp gì thì thư không nói cụ thể; chỉ đề địa chỉ căn nhà kho ở Caster thôi.
"Ừ, ta biết là con không thể phân thân ở hai nơi cùng lúc, nhưng vì Caster nằm trên đường đến cối xay, nên ta ghé qua đó trước. Ta đã chuẩn bị tinh thần cho rắc rối và dĩ nhiên là đã gặp phải. Nhưng có một chuyện vẫn làm ta băn khoăn. Làm sao con bé kia lại biết con đang gặp nguy hiểm? Làm sao con chuyển lời đến Alice được vậy?"
Thầy Trừ Tà nhìn tôi trừng trừng làm tôi biết mình không thể không nói thật với thầy. Thế là tôi hít một hơi sâu. "Con đã dùng gương ạ," tôi cúi đầu, không dám nhìn thẳng vào mắt thầy.
"Con nói gì thế, hử?" Thầy Trừ Tà hỏi, giọng thầy âm trầm đáng sợ. "Ta có nghe đúng không đây? Gương à? Gương ư...?"
"Đấy là cách duy nhất con có thể liên lạc với thầy mà!" Tôi thốt lên. "Con đang cùng đường. Ông Arkwright đã chết, bị mụ Morwena giết hại, và con biết tiếp theo mụ ta sẽ tìm đến con. Con cần thầy. Con không sao một mình đối mặt với mụ ấy được..."
Thầy cắt ngang lời tôi. "Ta biết lẽ ra mình không bao giờ nên để một đứa nhà Deane ở chung với chúng ta mà!" Thầy giận dữ trừng mắt nhìn Alice. "Con bé đã khiến con gặp phải tình huống tồi tệ đấy. Sử dụng một công cụ của bóng tối làm con sơ hở. Con vừa dùng đến gương, Quỷ Vương sẽ biết ngay là con đang ở đâu; bất cứ chuyện gì con thông tin thì hắn đều biết tất."
"Con không biết chuyện này ạ," tôi xấu hổ thừa nhận.
"Không à? Thế giờ chắc con biết rồi đấy. Còn cô đấy, con bé kia," thầy đứng lên nhìn trừng trừng vào Alice, "cô im lặng hơn mọi hôm nhỉ. Không có gì để bào chữa sao?"
Để đáp lại, Alice chỉ đưa tay lên che mặt và bắt đầu nức nở.
"Ở gần Quỷ Vương khiến Alice sợ lắm rồi ạ," tôi nói. "Con chưa bao giờ thấy cô ấy run nhiều đến thế."
"À há, anh bạn này, con biết vấn đề của con bé là gì mà, phải không?"
Tôi lắc đầu. Tôi không hiểu ý thầy.
"Quỷ Vương là thế lực bóng tối hiện hữu bằng da bằng thịt. Chính là Ác Quỷ, kẻ trị vì và sở hữu linh hồn của những ai thuộc về bóng tối. Con bé này đã được huấn luyện làm phù thủy và bản thân nó đã gần, rất gần, trở thành một sinh vật của bóng tối. Vì thế, nó cảm nhận được quyền năng của Quỷ Vương và biết hắn ta có thể dễ dàng đánh cắp linh hồn nó như thế nào. Nó rất yếu ớt và nó biết điều đó. Đấy là điều khiến nó hãi sợ."
"Nhưng mà..." tôi mở miệng.
"Để dành hơi sức đi anh bạn! Đêm đã quá dài và ta mệt rồi, không muốn nghe gì nữa. Sau những gì con kể thì ta chẳng muốn nhìn mặt cả hai nữa, nên ta sẽ lên lầu cố ngủ cho lại sức. Ta khuyên hai đứa cũng nên làm thế đi. Con chó sẽ báo động cho chúng ta nếu có thứ gì đến gần."
Khi thầy đã lên gác, tôi quay sang Alice. "Thôi nào, thầy nói phải đấy. Chúng ta chợp mắt chút thôi."
Alice không đáp lại và tôi nhận ra cô đã thiếp đi từ lúc nào. Thế là tôi yên vị trên ghế và chỉ trong chốc lát, tôi đã chìm vào giấc ngủ.
Vài giờ đồng hồ sau, tôi choàng tỉnh. Ánh sáng ban ngày đang ùa vào trong theo lối cửa sổ, và khi nhìn qua bên kia, tôi thấy Alice cũng đã thức giấc. Tuy nhiên, việc cô đang làm khiến tôi choáng váng. Alice đang cầm viết của tôi trên tay ghi lia lịa vào sổ ghi chép cũng của tôi nốt – vừa ghi vừa lẩm ba lẩm bẩm.