Mang một đôi ủng lội nước cao đến đùi, bà Deana Beck dẫn chúng tôi đi dọc bờ hồ, mỗi tay cầm theo một ngọn đèn lồng. Trăng chưa lên cao nên chỉ có ánh sao le lói, nhưng bà Deana không thắp đèn. Bóng tối sẽ che chắn cho chúng tôi khỏi bất cứ kẻ nào có thể đang nằm phục sẵn phía trước hay theo dõi chúng tôi từ ngoài đảo. Tôi bước đi bên cạnh Thầy Trừ Tà, mang theo trượng của mình và túi của thầy; Alice đi cách sau vài bước. Con Vuốt tiếp tục chạy lon ton quanh chúng tôi, bộ lông đen khiến nó trông gần như là vô hình. Khi Vuốt tiến đến gần, chỉ có tiếng bước chân khe khẽ của nó là làm nó bại lộ.
Sau một đỗi, chúng tôi đến được chỗ thuyền của bà Deana; bà lội ra kéo thuyền khỏi đám sậy và lôi nó đến bục cập thuyền. Vuốt nhảy lên trước, làm thuyền hơi chòng chành, nhưng bà Deana đã nắm chặt mép cầu tàu để giữ yên thuyền cho chúng tôi leo lên, Thầy Trừ Tà lên trước, Alice sau cùng. Đích đến trước mặt chúng tôi trông tối om đầy đe dọa, cây cối trùng trùng hệt như tấm lưng gù của một con quái vật khổng lồ đang khom mình chờ đợi con mồi mò đến.
Bà Deana chèo về phía hòn đảo với từng sải chèo rộng chậm rãi, hầu như không tạo ra tiếng động nào khi mái chèo khua xuống nước. Bốn bề tĩnh lặng và chẳng mấy chốc trăng bắt đầu nhô lên, soi rõ những ngọn núi xa xa và thắp sáng mặt hồ thành một màu bàng bạc. Dù vậy, rừng cây vẫn đen ngòm một cách đáng ngại. Quang cảnh của Hòn Belle làm tôi bất an, một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng tôi.
Chuyến đi đến đảo chỉ mất vài phút, và trong chốc lát, sau khi cập thuyền lên bãi đá cạn, chúng tôi xuống thuyền và đứng bên mép nước, nơi một số cây thủy tùng già nua, vặn vẹo che khuất cả ánh trăng.
"Cảm ơn vì đã giúp đỡ, bà Deana," Thầy Trừ Tà bảo với bà lão đưa đò, giọng thầy chỉ như là tiếng thì thào. "Nếu trong vòng một giờ nữa chúng tôi không quay lại, xin bà cứ về nhà và quay lại đây đón chúng tôi ngay trước lúc bình minh."
Bà Deana gật đầu, cầm một trong hai ngọn đèn đưa cho Thầy Trừ Tà. Vì hai tay tôi đã bận mang trượng cùng túi đồ của Thầy Trừ Tà, nên bà đưa ngọn đèn còn lại cho Alice. Con Vuốt tức thì phóng tới trước và nhanh chóng mất dạng vào bóng đêm. Để bà Deana lại thuyền, chúng tôi đi theo con chó vào rừng cây tối mịt. Từ bờ này sang bờ kia hòn đảo chưa tới ba trăm thước bề ngang và dài ba phần tư dặm: dưới ánh sáng ban ngày thì chúng tôi đã có thể lùng sục khắp từ đầu này sang đầu kia. Tuy nhiên, trong bóng tối thì hoàn toàn không có khả năng, thế nên chúng tôi đi thẳng đến công trình phí của, nơi mà vị ẩn sĩ nghĩ chúng tôi sẽ tìm thấy ông Bill Arkwright.
Hòn đảo này rậm rạp cây cối; chủ yếu là cây thông cây tùng, nhưng không lâu sau, chúng tôi đến một quãng rừng toàn cây thay lá, những cành cây khẳng khiu trơ trụi, và rồi, giữa đám cây ấy, là công trình phí của.
Trông nó chẳng giống như tôi từng tưởng tượng ra chút nào. Dưới ánh trăng, tôi nhìn ra hai tòa nhà biệt lập thay vì chỉ một, có lẽ cách nhau không quá mười lăm sải chân; hai ngọn tháp đôi vuông vức, bè bè xấu xí xây từ đá xám bám đầy địa y, mỗi ngọn tháp cao không quá sáu mét. Chúng gợi cho tôi nhớ đến các thạch mộ – những lăng tẩm cất giữ xương cốt của người chết. Mỗi tòa tháp có mái bằng nhưng không có lỗ châu mai nào, chỉ có vài họa tiết trang trí. Trong khi đấy, mấy bức tường thấp hơn xây từ những phiến đá nhẵn, từ cách mặt đất khoảng bốn mét cho đến mái mỗi ngọn tháp chi chít tượng đầu thú: đầu lâu, dơi, chim và đủ loại sinh vật, có lẽ là được sao chép từ vài trang sách ngụ ngôn các loài quỷ dữ nào đấy.
Công trình thứ nhất không có cửa mà chỉ có một khe hở vừa cao lại vừa hẹp trên mỗi bức tường làm cửa sổ. Vậy thì làm sao đi vào đây? Mà nếu không vào bên trong được, thì mục đích của tòa nhà này là gì? Thậm chí nó còn không đẹp đẽ mấy để mà nhìn ngắm cả. Ông Arkwright khó có thể đang ở bên trong tòa tháp bị phong kín ấy, vậy mà con Vuốt đã chạy vòng quanh tòa nhà đó, vừa ngửi ngửi vừa sủa ăng ẳng, và khi chúng tôi di chuyển sang tòa nhà kế bên, nó vẫn ở nguyên tại tòa nhà cũ.
Rồi tôi nhận ra nếu gọi công trình này là tòa nhà "đôi" thì không hoàn toàn chính xác. Mặc dù công trình thứ hai cũng có những khe hở làm cửa sổ và riêng một bộ sưu tập các hình đầu thú, điểm khác biệt là tòa nhà này có một cánh cửa gỗ chắc chắn. Cửa khóa bằng ổ khóa, nhưng ông Andrew, người anh làm thợ khóa của Thầy Trừ Tà, đã cho hai thầy trò chúng tôi những chiếc chìa khóa có thể dễ dàng vượt qua trở ngại như thế này. Vậy nên Thầy Trừ Tà mở được cửa chỉ trong vài giây. Trước khi cẩn thận bước vào trong, chúng tôi thắp sáng cả hai ngọn đèn, mũi dao trên trượng đã sẵn sàng. Bước dọc theo ba bức vách, chừng ba mươi bậc thang bằng đá dẫn chúng tôi xuống dưới, về phía một hồ nước.
Đến được đáy rồi, Thầy Trừ Tà bước tránh khỏi hồ nước và đi sang góc kia tòa nhà. Tôi bước đến chỗ thầy và nhìn xuống thứ thầy vừa tìm thấy. Một chiếc ủng.
"Của Bill phỏng?" Thầy hỏi.
"Vâng ạ," tôi gật đầu đáp.
"Vậy giờ anh ta ở đâu nhỉ?" Thầy Trừ Tà hỏi, như là bày tỏ ý nghĩ thành tiếng chứ không hẳn là hỏi ý tôi. Thầy quay lại chỗ hồ nước, đi đến mép hồ, giơ cao đèn lồng và chõ mắt nhìn xuống.
Tôi nhìn theo hướng thầy quan sát. Nước hồ trong văn vắt nhưng lại sâu, làm tôi có thể trông thấy hai thứ: một cầu thang hẹp và nằm sâu dưới mặt nước; và, tại chân cầu thang ấy, là thứ gì đấy giống như miệng của một đường hầm đen ngòm.
"Ta có gì đây nào?" Thầy Trừ Tà lẩm bẩm. "Này con, hãy nhìn vào hướng của đường hầm kia. Con nghĩ nó dẫn đến đâu?"
Chẳng có gì phải nghi ngờ nhiều. "Sang tòa nhà còn lại ạ," tôi đáp.
"Quả là thế thật. Và ta thắc mắc tòa nhà ấy có chứa gì đây? Có nhà tù nào lại hiệu quả hơn một tòa nhà không cửa ra vào chứ! Đi theo ta, anh bạn..."
Tôi làm theo thầy, Alice theo tôi sát gót. Ra đến bên ngoài, thầy tôi băng qua tòa nhà bên kia, đoạn dừng lại dưới cửa sổ gần nhất mà chỉ tay lên đấy. "Con đứng lên vai ta để xem liệu con có thể leo vào và xem xét bên trong được không nhé. Dùng đèn lồng và cố dùng thân mình che lấy nó để tránh lôi kéo sự chú ý không cần thiết. Chúng ta chẳng muốn có kẻ nào từ đất liền nhìn thấy đâu."
Thầy khom người bên dưới cửa sổ để tôi bước lên vai thầy, ngọn đèn nằm giữa thân tôi và bức tường, tay phải tôi tì vào vách đá để đứng vững. Trong khi Thầy Trừ Tà gồng đứng thẳng, tôi chật vật giữ thăng bằng, sau rồi cũng có thể leo lên cửa sổ và dùng những tượng đầu thú làm nơi đặt tay đặt chân. Cầm theo đèn làm mọi chuyện thêm phần khó khăn, nhưng cuối cùng tôi cũng đứng đối diện với cửa sổ thành công. Tôi rướn người áp vào tường, tựa cằm lên đèn, ghé mắt nhìn qua khe hở. Tất cả những gì tôi có thể trông thấy bên trong là một hồ nước, có vẻ giống hệt hồ nước bên tòa nhà kia; phía bức vách xa xa là một khe nứt rộng dẫn xuống mặt đất. Nền đất chắc là ẩm ướt và đã xê dịch.
Tôi leo xuống và chúng tôi chuyển sang bức tường kế tiếp. "Không biết là hai đầu gối cùng cái lưng già nua tội nghiệp của ta có chịu được thêm không nữa," Thầy Trừ Tà càu nhàu. "Nhanh nhanh lên nhé anh bạn!"
Tôi làm theo lời thầy bảo. Dẫu vậy, chỉ đến khi nhìn qua khe cửa sổ thứ tư, tôi mới trông thấy ai đấy đang bị trói bằng thừng, ngồi sụm một đống nơi bức vách bên kia hồ nước. Tuy không nhìn rõ mặt nhưng tôi đoan chắc rằng người này trông từa tựa ông Arkwright.
"Có ai đó đang bị trói ạ," tôi phấn khởi thì thào. "Con tin chắc là ông ấy rồi."
"Được rồi anh bạn," Thầy Trừ Tà bảo. "Giờ thì kiểm tra mái nhà đi. Có thể có lối vào từ trên mái đấy. Cũng đáng nên thử lắm..."
Tôi leo lên vài mét nữa rồi với tay tóm lấy gờ mái nhà để đu lên. Qua kiểm tra cho thấy mái nhà là đá chắc nụi. Không có lối leo vào. Thế là, sau khi liếc nhanh qua rừng cây về phía mặt hồ óng ánh sắc bạc, tôi khom người trở xuống rìa mái, và cùng với sự giúp sức của Thầy Trừ Tà, tôi nhanh chóng xuống tới mặt đất.
Chúng tôi quay trở lại tòa nhà kia, lại bước xuống mấy bậc cấp và ủ rũ nhìn mặt hồ nước. Chỉ có một cách duy nhất đưa ông Arkwright trở ra là đi xuyên qua đường hầm dưới nước.
"Ông Arkwright có dạy bơi cho con," tôi bảo với thầy mình, giọng cố gắng đầy vẻ tự tin hơn là những gì tôi đang cảm thấy. "Giờ đã đến lúc thực hành..."
"Ừ, nếu con biết bơi thì khá hơn ta rồi đấy anh bạn. Nhưng mà con bơi giỏi đến đâu?"
"Khoảng chừng gấp năm lần chiều ngang con kênh..."
Thầy Trừ Tà nghi ngại lắc đầu.
"Nguy hiểm quá Tom à," Alice bảo. "Việc này đâu cần mỗi bơi thôi đâu. Cậu phải lặn xuyên qua đường hầm tối đen kia cơ. Tớ không thể bơi, không là tớ đi cùng cậu rồi. Hai đứa chúng ta hợp lại thì sẽ có nhiều cơ hội hơn."
"Con bé nói phải đấy, anh bạn. Có lẽ bà Deana sẽ lặn được hay biết ai đấy bơi đủ khá để qua tới bên kia."
"Nhưng liệu chúng ta có tin được họ?" Tôi hỏi. "Không. Con làm được mà. Ít nhất con phải thử chứ."
Thầy Trừ Tà không cố cản tôi, chỉ im lặng nhìn, lắc lắc đầu khi tôi cởi ủng và tất, rồi cả áo choàng lẫn sơ mi. Cuối cùng, tôi quấn sợi xích bạc quanh eo và sẵn sàng lội xuống nước.
"Đây này," thầy tôi đưa tôi con dao trong túi xách. "Giắt vào thắt lưng của con ấy. Con sẽ cần để cởi trói cho Bill. Và đem cái này cho anh ta nữa," thầy đưa tôi một chai nước.
"Tớ có thứ này giúp ích đây..." Alice nói.
Đoạn cô lôi ra một bịch da cất trong túi váy rồi tháo dây cột, để lộ ra trong đấy một lô thảo dược. Trước đây Alice đã từng dùng thảo chữa bệnh rất thành công, một lần là giúp tay tôi lành lặn khi bị phỏng. Nhưng tôi chưa bao giờ trông thấy đủ chủng loại thảo dược đa dạng như thế. Dường như trong lúc tôi hoàn toàn không hay biết, Alice đã thu thập các loại nguyên liệu và phát triển khả năng chữa bệnh của mình.
Alice chìa một chiếc lá cho tôi. "Đặt ít thứ này dưới lưỡi ông ấy. Như thế sẽ làm ông ấy tỉnh lại – đấy là nếu như ông ấy chưa toi đời thôi nhé."
Thầy Trừ Tà nhìn trừng trừng Alice một chập, đoạn gật đầu, thế là tôi nhét chiếc lá vào túi quần và cột dao cùng chai nước vào thắt lưng.
"Nhớ cẩn thận đấy anh bạn," thầy tôi dặn dò. "Việc này nguy hiểm lắm. Nếu có gì nghi ngại, thì đừng làm nốt chi nhé. Chẳng ai nghĩ xấu cho con đâu."
Tôi gật đầu cảm ơn thầy rồi bước xuống mấy bậc cấp. Nước trong hồ lạnh cóng làm tôi nín thở, nhưng khi nước dâng đến ngực thì tôi thấy đỡ hơn. Mỉm cười yếu ớt nhìn Alice, tôi bơi khỏi mấy bậc cấp, hít một hơi sâu và thử lặn xuống đường hầm dưới nước.
Tôi chẳng lặn được bao xa. Nước cản lại và đẩy tôi ngược lên bề mặt. Là do tôi đạp chân không đúng cách hay đơn giản là tôi không đủ khỏe. Tôi hít vào một hơi nữa rồi thử lại. Loáng sau, tôi đã phun phì phì trên mặt nước, cảm thấy mình hơi khờ khạo. Tôi sẽ không đưa ông Arkwright ra ngoài được. Rốt cuộc chúng tôi vẫn phải nhờ đến bà Deana thôi.
Tôi bơi trở vào bên hồ, chân chạm vào bậc cấp. Thình lình tôi nhớ ra một điều ông Arkwright từng bảo:
Khi một thợ lặn muốn lặn sâu, cách dễ nhất là anh ta ôm một hòn đá lớn để sức nặng kéo anh ta xuống nhanh hơn...
"Alice, chạy lên bờ và đem cho tớ hai tảng đá nặng nhất mà cậu vác được nào!" Tôi bảo với Alice.
Cô cùng Thầy Trừ Tà nhìn tôi với gương mặt ngơ ngác.
"Mỗi tay một tảng đá sẽ giúp tớ chìm hẳn xuống đáy và có thể lặn vào đường hầm."
Chưa đầy năm phút sau, Alice quay lại với hai hòn đá nặng trịch. Ôm đá vào ngực, tôi bước xuống bậc cấp cho đến khi nước ngập ngang eo, rồi sau khi hít một hơi sâu, tôi nhảy ùm tới trước.
Nước ngập lên trên đầu tôi và tôi nhanh chóng chìm xuống đáy hồ mờ mịt. Đường hầm ở ngay trước mặt nên tôi thả hai hòn đá ra và đạp chân ếch tiến vào đấy, hai vai tôi cạ vào vách đường hầm. Đạp thêm hai sải nữa thì xung quanh tối đen như mực. Tôi bắt đầu phát hoảng. Lỡ chúng tôi đã lầm và lối đi này không dẫn sang tòa nhà bên cạnh thì sao đây?
Tôi thử huơ tay như ông Arkwright đã dạy, nhưng đường hầm quá hẹp làm tôi làm trầy hết cùi chỏ. Lúc bấy giờ, do chỉ muốn thở được thôi nên tôi đạp chân mải miết, trong lòng bắt đầu cảm thấy cấp bách. Tôi cố bình tĩnh lại. Khi còn ở trên mặt nước thì tôi có thể nín thở lâu hơn thế này nhiều. Vậy thì sự khác biệt là gì chứ? Miễn là không hoảng loạn, nhất định tôi sẽ ổn thôi.
Đạp thêm hai đạp nữa, và mừng quá, tôi đã ra khỏi đường hầm mà trồi lên, áp lực nước xung quanh dường như trở nên nhẹ hơn. Tôi cảm giác như có thứ gì thật to bên phải mình, nhưng giây tiếp theo thì đầu tôi ngoi lên mặt nước và tôi thở ra, hít vào hai ngụm khí dễ chịu. Tôi dùng hai tay hai chân đạp nước tại chỗ, giữ cho mình nổi. Trong tháp khá tối, nhưng khi nhìn lên tôi trông thấy bốn cửa sổ hẹp. Ba cửa mờ mờ, cửa thứ tư được ánh trăng soi vào. Hy vọng là mắt tôi sẽ sớm thích nghi và sẽ có đủ ánh sáng để tôi nhìn thấy mình đang làm gì.
Tôi bơi vài sải rồi vấp ngón chân vào mấy bậc cấp. Loáng sau tôi đã bước lên bờ, đứng trên nền lát đá, nước trên người nhỏ tong tong, tôi đứng im như tượng chờ cho đến khi thị lực về đêm của mình cải thiện. Từ từ cảnh vật bên trong tháp trở nên sắc nét hơn. Tôi nhìn thấy thứ trông như một đống giẻ rách không rõ hình thù đang dựa vào tường. Hẳn là ông Arkwright rồi. Tôi thận trọng tiến ba bước về hướng ấy. Thế rồi tôi nghĩ mình nghe thấy một giọng thì thào từ đâu đó bên trên. Ngạc nhiên quá nên tôi nhìn lên phía cửa sổ.
"Tom!" Có ai đấy gọi.
Là giọng của Alice. Tôi biết ắt là cô đã đứng trên vai Thầy Trừ Tà và leo lên những tượng đầu thú để với đến cửa sổ. "Cậu ổn chứ?" Alice hỏi.
"Ổn mà Alice. Tới giờ mọi chuyện đều tốt. Tớ nghĩ mình đã tìm ra ông Arkwright rồi."
"Có thứ này cho cậu," Alice nói lớn."Một cây nến. Cố mà bắt lấy này. Sẵn sàng chưa?"
Ngay sau đấy cây nến rơi xuống. Tôi nhanh nhẹn bước tới hai bước, chộp lấy nến nhưng bắt hụt. Cây nến rơi xuống sàn, nhưng dù trong này tối mù tôi vẫn không mất nhiều thời gian để tìm ra. Tôi nhặt nến lên rồi lại nhìn lên cửa sổ.
"Tiếp theo là hộp đánh lửa của cậu," Alice gọi với xuống. "Đừng làm rơi nhé Tom. Tớ không muốn làm vỡ nó đâu."
Tôi cũng đâu muốn hộp đánh lửa bị vỡ. Đấy là vật có ý nghĩa quan trọng với tôi, vì nó là món quà chia tay của bố khi tôi lần đầu tiên xa nhà làm chân học việc cho Thầy Trừ Tà. Hộp đánh lửa là vật gia truyền.
Tôi cảm nhận thay vì trông thấy hộp đánh lửa rơi về phía mình, rồi bằng cách nào đó mà tôi chụp được nó, thế là chỉ trong một phút tôi đã đánh lửa rồi châm nến lên. Tôi nhét hộp đánh lửa thật sâu vào túi rồi tiến đến chỗ ông Arkwright. Giờ thì tôi đã nhìn rõ mặt ông, nhưng ông ấy có sao không nhỉ? Có còn thở không đấy?
"Là ông ấy," tôi gọi lớn cho Alice và Thầy Trừ Tà biết. "Trông không được khỏe cho lắm nhưng tớ sẽ cố mang ông ấy qua đường hầm."
"Tốt," Alice gào lên đáp lại. "Làm tốt lắm. Bọn tớ sẽ gặp cậu ở tháp bên kia."
Tôi nghe thấy tiếng bước chân của Alice và Thầy Trừ Tà rời đi, nhưng đúng lúc ấy có một điều khiến tôi phải liếc lại xuống nước. Nước rất trong nên tôi có thể nhìn thấu đáy như lúc trước. Giờ thì tôi nhận ra thứ mình đã nhác thấy khi trồi lên khỏi hồ. Là một đường hầm thứ hai. Nhưng nó dẫn tới đâu? Ra ngoài hồ kia chăng? Ý nghĩ ấy thật kinh hoàng. Là một lối khác để vào trong tháp. Một thủy phù thủy sẽ đến được chỗ tôi mà không phải qua mặt Thầy Trừ Tà hay Alice.
Rồi lại còn có thứ gì khác nữa. Trong lúc tôi sững sờ, mặt hồ bỗng nhiên sáng rực lên và bắt đầu tụ thành hình. Kẻ nào đó đang dùng gương liên lạc với tôi. Có lẽ là Alice chăng? Có phải cô đã chuồn khỏi tầm quan sát của Thầy Trừ Tà chỉ để thực hiện chuyện này? Tất nhiên, không nhất thiết phải là tấm gương. Bề mặt một vũng sình, ao hay hồ nước đều có thể đạt được hiệu quả tương tự. Nhưng rồi tôi nhìn ra đấy chẳng phải là Alice và nỗi lo sợ siết chặt lấy tim tôi.
Là mụ phù thủy sát thủ...
Ngoại trừ chiếc khăn quàng hờ hững quấn quanh cổ, Grimalkin ăn mặc giống hệt như lần cuối chúng tôi chạm trán – cũng một chiếc áo chẽn màu đen bó chặt ngang eo, váy xẻ đôi buộc khít vào hai đùi. Thân hình uyển chuyển của mụ quấn đầy dây da và giắt theo đủ loại bao gươm, mỗi bao chứa một thứ vũ khí chết người.
Hai mắt tôi nhìn chằm chặp vào một vật cụ thể: cái kéo mà Grimalkin dùng để tra tấn những kẻ thù chiến bại dưới tay mụ; là thứ dụng cụ sắc lẻm có thể cắt ngọt qua xương qua thịt. Lần trước tôi đã gạt mụ ta, làm mụ ta bị thương trong lúc tôi vờ như đang đầu hàng. Tôi đã thảy trượng từ tay này sang tay kia, giống như Thầy Trừ Tà đã dạy. Nhưng lần chạm trán tới đây, mụ ta sẽ không bị lừa dễ dàng như vậy nữa. Mụ ta đã biết tôi có khả năng làm gì.
Tôi nhìn sợi dây chuyền làm từ xương người quanh cổ Grimalkin – xương của những kẻ đã bị mụ truy lùng, đánh bại và tra tấn. Mụ sống để chiến đấu; trường tồn nhờ máu đổ. Người ta bảo mụ có quy tắc danh dự và thích cuộc chiến phải khó khăn; rằng mụ không bao giờ cố thắng nhờ thủ đoạn. Nhưng tôi đã gạt mụ. Trong lúc lo sợ cho mạng sống của mình, tôi đã xử sự theo cách mụ chỉ có thể khinh miệt mà thôi.
Ngạc nhiên chưa kìa, mụ ta mỉm cười với tôi và rướn tới trước. Miệng mụ hé mở và mặt nước trở nên mờ đục. Mụ ta đang dùng một tấm gương và sắp sửa viết gì lên đấy. Viết gì nhỉ? Một lời đe dọa chăng? Một lời cảnh cáo những gì mụ định làm với tôi vào lần tới chúng tôi gặp mặt?
Hãy mau chóng thoát ra ngoài! Kẻ thù của chúng ta sẽ sớm đi vào đường hầm từ hồ đấy!
Tôi nhìn trân trối vào mẩu tin, không tin nổi. Tại sao Grimalkin cảnh báo cho tôi làm gì? Chẳng phải mụ sẽ rất hân hoan khi nhìn thấy tôi bị phù thủy bắt đi hay giết hại sao? Mà mụ ấy bảo "kẻ thù của chúng ta" là sao nhỉ? Thủy phù thủy chăng? Là trò bịp à? Hay trò trả đũa vụ tôi lừa đảo ấy?
Hình ảnh mờ đi rồi biến mất. Tôi hoang mang lắm, nhưng dù Grimalkin có đang nói thật hay không, tôi vẫn phải giải cứu cho ông Arkwright.
Tôi không còn thời gian mà phí phạm nữa, thế là sau khi đặt ngọn nến trên sàn đá gần đấy, tôi quỳ cạnh hình thù đang sụp xuống một đống kia. Bên tay phải ông ấy là một lọ lưng nước. Vì bị trói thế này, hẳn phải có kẻ nào đấy đến đây duy trì mạng sống của ông Arkwright cho mụ Morwena. Tôi ghé sát vào và nghe thấy nhịp nhở nông nhưng gấp gáp. Tôi gọi tên ông. Ông Arkwright rên lên nhưng không mở mắt. Vậy là, rút dao ra khỏi thắt lưng, tôi bắt đầu cắt dây trói: dây trói chân trước, rồi đến dây trói tay.
Xong xuôi, tôi thử chà xát mặt và hai tay ông Arkwright để cố làm ông tỉnh lại; nhưng hai mắt ông vẫn nhắm nghiền. Tiếp đến, tôi giơ chai nước giữ trên môi ông và đổ một ít vào mồm. Ông Arkwright sặc lên một chút nhưng cũng cố nuốt một hai ngụm. Rồi tôi bẻ một mảnh lá Alice đã đưa cho mình nhét dưới lưỡi ông. Cuối cùng, tôi đặt ông nằm duỗi nghiêng một bên, cố làm ông thấy thoải mái. Chỉ đến khi ấy tôi mới trông thấy những dấu vết trên cổ ông Arkwright. Những vết lở to tướng vàng khè đã đóng vảy, cả ba vết cả thảy, một trong ba vết vẫn còn đang chảy mủ. Trước nay tôi chưa từng thấy thứ gì tương tự. Và rồi tôi nhớ đến những gì ông Arkwright từng kể về tôm ác quỷ. Tôi tự hỏi liệu có phải một con tôm ác quỷ đã hút máu trên cổ ông hay không. Lũ phù thủy có thể sẽ sử dụng một con tôm ác quỷ trong tế lễ của chúng.
Giờ đây tôi chẳng thể làm gì hơn, thế nên sau khi cột lại chai nước vào thắt lưng, tôi ngồi xuống cạnh ông Arkwright, tay ôm đầu, cố suy nghĩ thông suốt. Tôi nhận ra đây chỉ mới là bước khởi đầu cho mọi rắc rối của mình. Tôi không có tảng đá to nào để giúp mình chìm nhanh xuống miệng đường hầm. Tôi có khả năng tự bơi xuống không đây? Rõ ràng lúc nãy tôi đã không làm được. Ông Arkwright là tay bơi rất cừ, và nếu còn khỏe, chắc chắn ông đã có thể kéo tôi qua theo ông. Nhưng hiện tại ông trông còn tệ hơn tôi tưởng. Tệ hơn nhiều. Làm cách nào tôi mang ông đến nơi an toàn được chứ?
Khi đấy, tầm mắt tôi bị thu hút đến khe nứt rộng nơi bức tường đầu kia; là khe nứt lúc trước từ trên cao tôi đã để ý thấy. Ngọn tháp được xây từ những khối đá cả trên lẫn dưới mặt đất. Nếu một trong những phiến đá ấy nứt thì tôi có thể làm nó rời ra, có lẽ chừng đó sẽ đủ để đưa hai chúng tôi đến miệng đường hầm. Liệu tôi có kéo được một phiến đá ra khỏi tường không nhỉ? Cũng đáng nên thử lắm. Thế là, cầm nến lên, tôi đi đến xem cận cảnh mấy phiến đá.
Vết nứt dọc rộng hơn là thoạt nhìn: ít nhất có đến ba phiến đá bị chẻ ra. Tôi đặt nến bên cạnh, bắt đầu với phiến đá trông khả quan nhất, cách mặt đất chừng nửa mét. Nhờ lắc tới lắc lui, tôi nới lỏng được phiến đá và mau chóng lôi ra nửa lớn hơn. Khi đang làm thế, tôi nhận thấy ông Arkwright bắt đầu cục cựa. Ông chậm chạp ngồi dậy chớp chớp mắt trước ánh nến, cau mày lôi thứ gì đó ra khỏi mồm. Là miếng lá tôi đã nhét dưới lưỡi ông.
"Alice đưa cho cháu thứ ấy. Nó đã làm ông hồi tỉnh..."
"Vậy ra cậu đã bơi qua đường hầm và tìm được đến chỗ tôi đấy à?" Ông Arkwright hỏi.
Tôi gật đầu.
"Thế thì cả hai chúng ta phải biết ơn là tôi đã quẳng cậu xuống kênh đấy nhé!" Ông khẽ cười toe, sức lực của ông đang dần dà hồi phục.
"Ông thấy sao rồi ạ?" Tôi hỏi.
"Tệ kinh khủng, nhưng không còn thời gian để phí phạm nữa rồi. Ai mà biết tiếp theo đây thứ gì sẽ đi qua mấy đường hầm kia chứ. Chúng ta cần bơi trở về. Thường thì tôi sẽ để cậu đi trước, nhưng do tôi đang yếu như sên nên tốt hơn là tôi nên thử bơi qua đường hầm khi còn có thể. Hãy đếm đến mười, sau đó bơi qua theo tôi nhé..."
Nói đoạn, ông Arkwright run rẩy bước đến mép nước, hít một hơi sâu rồi lặn thẳng xuống, chẳng làm nước bắn lên chút nào, trọng lượng cơ thể giúp ông hướng thẳng đến miệng đường hầm.
Ghé mắt nhìn sát mặt nước, qua những xao động do ông Arkwright chìm xuống gây ra, tôi dõi theo ông đạp chân một cú thật mạnh, đẩy mình vào trong đường hầm. Thêm một giây nữa rồi ông biến mất tăm. Ngay cả trong tình trạng yếu sức thì ông Arkwright vẫn là một tay bơi khỏe hơn tôi nhiều.
Tôi nhặt dao lên giắt vào thắt lưng, buộc sợi xích bạc quanh eo. Tôi sẽ chờ thêm chừng mươi mười giây để ông Arkwright bơi qua rồi theo gót. Tôi nghĩ đến hộp đánh lửa trong túi quần mình. Nước sẽ làm hỏng nó mất, nhưng tôi không thể để nó lại đây. Tôi tiếp tục nhìn xuống cho đến khi những gợn sóng từ từ tan đi và mặt hồ trở nên phẳng lặng như gương, phản chiếu lại gương mặt của chính tôi. Tôi chuẩn bị lao xuống nước, tay ôm chặt một tảng đá lớn. Nhưng rồi tôi hoảng hồn thụt lùi. Có thứ gì đấy đang trồi lên từ đường hầm kia – đường hầm dẫn ra ngoài hồ nước.