Thầy Trừ Tà vừa mới quyết định chúng tôi nên tiếp tục đi lên hướng bắc về phía Kendal thì có tiếng động vọng đến. Là tiếng vó ngựa đều đều và tiếng nước rẽ xào xạc. Và rồi, từ trong màn sương mù lù lù hiện ra hai chú ngựa thồ to đùng, con này đóng cương nối đuôi con kia. Hai chú ngựa do một người đàn ông mặc áo tunic bằng da dẫn đi trên lối kéo xe và kéo theo sau một chiếc sà lan dài hẹp.
Khi chiếc sà lan trôi qua dưới cầu, tôi trông thấy người đàn ông liếc nhìn về phía chúng tôi. Đoạn ông ta cho hai con ngựa từ từ dừng lại, buộc chúng vào lối kéo xe rồi thong thả bước lên cây cầu gỗ từng sải một vững chãi, hai vai lắc lư một cách tự tin. Ông này không cao nhưng đậm người, hai bàn tay to lớn, và bất chấp trời lạnh, dưới lớp áo chẽn bằng da, hai nút áo sơ mi được cởi ra, để lộ mảng lông nâu.
Đa số người ta sẽ băng sang bên kia đường để tránh đi ngang qua một kẻ trừ tà, nhưng người đàn ông này lại tươi cười, và ngạc nhiên làm sao, ông ta đi thẳng đến chỗ thầy tôi mà chìa tay ra. "Tôi đoán chắc đây là thầy Gregory." Người lạ mặt mày sáng rỡ. "Tôi là Matthew Gilbert. Bill Arkwright bảo tôi đến đây đón thằng bé..."
Hai người bắt tay, thầy tôi cũng cười đáp lễ. "Ta cũng rất mừng khi được gặp anh, anh Gilbert ạ," thầy tôi đáp, "nhưng anh Arkwright không khỏe để tự mình đến hay sao thế?"
"Không, không phải thế đâu ạ, mặc dù ông ấy không được khỏe," ông Gilbert giải thích. "Chỉ là người ta vừa tìm thấy một thi thể dưới nước – bị hút sạch máu như những thi thể khác. Là thi thể thứ ba trong hai tháng nay rồi nên Bill phải lên phương bắc để điều tra. Dạo gần đây thế lực bóng tối dường như tác oai tác quái thường xuyên hơn nên ông ấy bận rộn dữ lắm."
Thầy Trừ Tà trầm ngâm gật gù nhưng không bàn luận gì. Thay vào đó thầy đặt tay lên vai tôi. "Thôi, đây là Tom Ward. Ta cứ tưởng anh bạn này phải cuốc bộ chứ – chắc hẳn cậu ta mừng lắm khi được chở đi..."
Ông Gilbert mỉm cười, đoạn bắt lấy tay tôi. "Rất vui được gặp cậu, cậu Tom. Nhưng giờ thì tôi để cậu thoải mái từ biệt đây. Thế tôi sẽ gặp cậu dưới kia nhé," ông vừa nói vừa hất đầu về phía sà lan rồi bước xuống.
"À anh bạn, đừng quên viết thư đấy. Con có thể gửi thư cho bọn ta sau tuần đầu tiên để chúng ta biết con hòa nhập thế nào," Thầy Trừ Tà đưa tôi vài ba đồng tiền bạc. "Còn đây là chút ít cho Bill Arkwright phụ nuôi dưỡng con." Rồi thầy đặt một đồng tiền vàng vào tay tôi. "Ta không nghĩ con sẽ gặp rắc rối gì đâu. Cứ làm việc hăng hái cho Arkwright như con đã làm việc cho ta thì mọi chuyện sẽ êm xuôi thôi. Con sẽ có một người thầy khác cùng cách làm việc của riêng anh ta trong một thời gian và nhiệm vụ của con là phải thích ứng với người ấy – chứ không phải ngược lại. Hãy cập nhật tập vở và ghi chép mọi điều Arkwright dạy con – cho dù đấy không hẳn giống với những gì ta từng dạy. Có thêm góc nhìn nhận khác bao giờ cũng hay cả, và cho đến lúc này thì Arkwright là chuyên gia về mọi thứ dưới nước đấy. Nên con hãy lắng nghe cẩn thận và luôn cảnh giác đề phòng. Hiện thời toàn Hạt là một nơi nguy khốn. Tất cả chúng ta đều cần tỉnh táo khôn ngoan!"
Dứt lời, Thầy Trừ Tà gật đầu chào tôi rồi quay bước. Chỉ đến khi thầy rời khỏi cầu thì Alice mới tiến đến. Cô quàng tay ôm tôi thật chặt.
"Ôi Tom! Tom! Tớ sẽ nhớ cậu đấy," Alice nói.
"Tớ cũng sẽ nhớ cậu," tôi đáp, một cục nghẹn trào dâng trong họng.
Alice lùi ra và giữ tôi trong khoảng cách một sải tay. "Làm ơn bảo trọng nhé. Nếu có chuyện gì xảy đến cho cậu thì tớ không chịu nổi mất..."
"Sẽ không sao đâu," tôi cố làm Alice yên lòng. "Với lại tớ biết tự chăm sóc mình mà. Đến bây giờ cậu phải rõ rồi chứ."
"Nghe này," cô thoáng nhìn qua vai, "nếu cậu gặp rắc rối hay cần kể gấp cho tớ nghe chuyện gì, hãy dùng đến gương nhé."
Những lời Alice nói khiến tôi sửng sốt đến độ phải lùi lại một bước. Phù thủy sử dụng gương để liên lạc thông tin với nhau và tôi từng trông thấy Alice dùng gương một lần. Thầy Trừ Tà sẽ hoảng kinh lên mất nếu nghe thấy những gì cô vừa nói. Những cách thức như vậy thuộc về thế lực bóng tối và thầy sẽ không bao giờ cho phép chúng tôi liên lạc với nhau theo cách này.
"Không lý do gì phải nhìn tớ như thế đâu Tom," Alice nài nỉ. "Cậu chỉ cần đặt cả hai bàn tay lên gương và tập trung hết sức nghĩ về tớ. Nếu lần đầu không được, cứ việc cố gắng thử lại."
"Không, Alice à, tớ sẽ chẳng làm bất cứ chuyện gì như thế," tôi tức giận bảo với Alice. "Đấy là cách hành xử của thế lực bóng tối và tớ có mặt ở đây để chống lại nó, chứ không phải một phần của nó..."
"Không đơn giản thế đâu Tom. Đôi khi ta cần chống lại thế lực bóng tối bằng bóng tối. Hãy nhớ điều này, dù cho Lão Greogory có nói gì. Và hãy cẩn thận. Đây không phải là nơi an toàn để sống trong Hạt. Tớ từng đến đấy cùng Lizzie Xương Xẩu và sống bên mép đầm lầy, không xa cối xay của Arkwright cho lắm. Nên làm ơn đi, cẩn thận nhé!"
Tôi gật đầu, và rồi, ngẫu hứng nổi lên, tôi rướn tới hôn lên má trái Alice. Cô thụt lùi và tôi thấy nước mắt ngấn đầy hai mắt cô. Việc chia tay với cả hai chúng tôi thật khó khăn. Đoạn Alice quay đi, bỏ chạy khỏi cầu. Phút chốc sau cô biến mất vào màn sương.
Tôi buồn bã bước xuống lối xe kéo. Matthew Gilbert đang đứng chờ tôi và chỉ vào chiếc ghế gỗ phía trước sà lan. Tôi ngồi xuống, đưa mắt nhìn quanh. Sau lưng tôi là hai cánh cửa sập to tướng bằng gỗ, ổ khóa treo hờ trên đấy. Đây là một chiếc sà lan chuyên chở và chắc chắn có loại hàng hóa nào đó đang được chất dưới kia.
Chập sau chúng tôi đã tiến về phía bắc. Tôi cứ liếc nhìn lại cây cầu mãi, hy vọng trong tuyệt vọng rằng Alice sẽ hiện ra để tôi có thể trông thấy cô lần cuối. Alice chẳng xuất hiện, khiến tôi ôm nỗi đau trong lòng khi phải bỏ cô lại như vậy.
Chúng tôi liên tục đi ngang qua sà lan di chuyển theo hướng đối diện. Mỗi lúc như thế, ông Gilbert lại vui vẻ vẫy tay chào người chở sà lan bên kia. Các loại thuyền mang kích cỡ khác nhau nhưng đều dài, hẹp và có một hay nhiều cánh cửa sập. Nhưng trong khi có nhiều thuyền được chăm sóc cẩn thận, sơn phết sặc sỡ nhiều màu, thì những chiếc khác lại đen thui u ám, vương vãi trên boong mấy mẻ than cho thấy dưới thuyền kia đang chứa thứ gì.
Khoảng một giờ chiều, ông Gilbert cho ngựa dừng lại, dỡ cương ra rồi cột chúng vào ven vạt cỏ xô xảm nào đấy bên cạnh dòng kênh. Trong khi lũ ngựa gặm cỏ, ông Gilbert nhanh nhẹn đốt lửa sửa soạn bữa trưa cho cả hai. Tôi hỏi xem mình có giúp gì được không nhưng ông ấy chỉ lắc đầu.
"Khách thì không phải nhúng tay vào đâu," ông Gilbert đáp. "Nếu là tôi, tôi sẽ nghỉ ngơi khi có thể. Bill Arkwright bắt thợ học việc làm việc kinh lắm. Nhưng đừng hiểu sai ý tôi nhé, ông ấy là một người tốt – rất thạo việc – ông ấy đã cống hiến rất nhiều cho Hạt này. Và ông ấy cũng rất kiên trì nữa. Một khi đã phát hiện ra con mồi rồi thì ông ấy sẽ không bao giờ buông tha đâu."
Ông Gilbert gọt khoai tây, cà rốt rồi luộc chúng trong nồi. Chúng tôi ngồi ở cuối sà lan, chân đung đưa trên mặt nước, bốc thức ăn từ hai chiếc đĩa gỗ. Thức ăn không được nấu đủ lâu nên cả cà rốt lẫn khoai tây vẫn còn sượng. Nhưng tôi đói đến nỗi có thể chén luôn cả hai chú ngựa thồ ấy chứ, nên tôi nhai sạch và nuốt tất. Chúng tôi im lặng dùng bữa, nhưng sau một đỗi, vì phép lịch sự, tôi thử làm cho người lái thuyền trò chuyện.
"Bác quen ông Arkwright lâu chưa ạ?" Tôi hỏi.
"Khoảng mười năm hoặc hơn," ông Gilbert đáp. "Bill từng sống tại cối xay cùng bố mẹ nhưng họ đã qua đời nhiều năm trước. Từ khi trở thành thầy trừ tà trong vùng thì ông ấy trở thành khách hàng thân thiết của tôi. Mỗi tháng mua một lượng lớn muối. Tôi có chất đầy năm thùng lớn cho ông ấy đây. Tôi cũng mang nhu yếu phẩm khác đến cho Arkwright nữa: nến này, thức ăn này – đủ thứ. Nhất là rượu vang. Bill thích rượu lắm. Không phải rượu cây cơm cháy hay bồ công anh thông thường đâu. Ông ấy thích vang đỏ hơn. Rượu này thường được tàu chở đến mũi Sunderland rồi chuyển vào đất liền đến Kendal, tôi chất hàng lên sà lan mỗi tháng một lần. Bill trả tôi hậu hĩ lắm."
Tôi thấy ấn tượng với lượng muối. Thầy trừ tà dùng muối kết hợp với bột sắt phủ bên trong các hố khi chèn ông kẹ. Muối cũng có thể được dùng như vũ khí chống lại các sinh vật từ bóng tối. Nhưng chúng tôi sử dụng một lượng muối tương đối nhỏ và chỉ mua những bịch be bé từ cửa hàng tạp hóa trong làng. Tại sao Arkwright lại cần đến những năm thùng muối mỗi tháng nhỉ?
"Vậy đấy là hàng bác chở bây giờ sao – muối và rượu vang à?" Tôi hỏi.
"Lúc này dưới khoang còn rỗng," ông vừa đáp vừa lắc đầu. "Tôi vừa mới giao một mẻ mái ngói đá cho tay thợ xây ở Caster và sẽ quay lại mỏ đá lấy thêm ít nữa. Làm nghề này bọn tôi chuyên chở đủ loại hết. Tôi sẽ vận chuyển bất cứ thứ gì ngoài than ra – than choáng quá nhiều chỗ, lại rẻ mạt đến nỗi chẳng đáng khóa cửa sập ngăn ngừa trộm cắp. Với lại thứ muội than đen đen ấy bám khắp nơi, nên tôi chừa ra cho mấy tay chuyên tải than vậy."
"Thế cối xay của ông Arkwright – ở ngay trên dòng kênh ạ?"
"Cũng gần như thế," ông Gilbert đáp. "Từ trên sà lan cậu sẽ không nhìn ra đâu – nơi ấy bị cây cối bụi rậm che phủ – nhưng đứng trên bờ kênh cậu có thể ném hòn đá nhỏ đến tận mép vườn mà không cần phải vận lắm sức. Một nơi lẻ loi cô độc, nhưng chắc chắn cậu sẽ quen ngay thôi mà."
Chúng tôi lại chìm vào im lặng, nhưng rồi tôi nghĩ đến điều từng làm mình chú ý trong chuyến hành trình.
"Có rất nhiều cầu bắc qua dòng kênh này. Sao phải cần nhiều đến thế ạ?"
"Tôi sẽ không phản đối nhận xét này đâu," ông Gilbert gật gù. "Khi người ta đào con kênh này, dòng kênh đã chia rất nhiều nông trang thành hai nửa. Người ta không chỉ bồi thường cho nông dân vì đã chiếm đất mà còn phải cung cấp cho họ lối đi vào đồng ruộng nằm hai bên con kênh nữa. Thêm một lý do khác. Ngựa thồ và sà lan di chuyển theo bên trái. Vậy nên khi cần đổi hướng, ngựa của cậu phải đổi qua bờ bên kia. Mà thôi, tốt nhất chúng ta nên lên đường tiếp nào. Đến được cối xay trước lúc trời tối thì hay hơn."
Ông Gilbert móc ngựa vào sà lan, và chẳng bao lâu sau chúng tôi lại từ từ tiến lên phía bắc. Lúc bình minh trời mù sương, nhưng thay vì bị sức nóng từ mặt trời làm tan đi, chúng lại kết dày hơn, khiến tầm nhìn chỉ còn giới hạn trong mấy bước chân. Tôi có thể trông thấy phần đuôi của con ngựa gần nhất, nhưng con đồng hành với nó lẫn ông Gilbert đều bị khuất mất. Ngay cả tiếng vó ngựa lộc cộc nhịp nhàng cũng biến thành nghèn nghẹt. Chúng tôi thường xuyên băng qua bên dưới một cây cầu, nhưng ngoài việc đó thì chẳng còn gì để xem, tôi thấy chán vì chỉ ngồi ì ra đấy.
Chừng một giờ đồng hồ trước khi trời tối, ông Gilbert cho ngựa dừng lại và đi đến nơi tôi đang ngồi. "Ta đến rồi!" ông vui vẻ reo lên, chỉ tay vào màn sương. "Nhà của Bill Arkwright ở ngay đằng trước kia..."
Thu dọn túi đồ cùng thanh trượng, tôi lồm cồm leo lên đường kéo xe. Trên bờ kênh là một cây cột lớn, ông Gilbert cột chú ngựa dẫn đường vào đấy. Phần trên cây cột trông giống như dàn giáo treo cổ và có treo một cái chuông to tướng.
"Tôi rung chuông khi mang hàng đến," ông Gilbert hất đầu về phía cây cột. "Năm tiếng chuông dõng dạc để báo cho Bill biết là tôi cùng các món hàng chứ không phải ai đấy đang cần đến thầy trừ tà – trong trường hợp này, theo thông lệ là rung ba tiếng. Bill sẽ ra tận đây để nhận lấy những gì tôi mang đến. Nếu nhiều quá thì thỉnh thoảng tôi phụ giúp ông ấy mang đến ven vườn. Bill không thích bất cứ ai vào gần hơn thế đâu!"
Tôi hiểu chứ. Việc này thì ông ta giống như thầy tôi thôi. Người cần đến sự giúp đỡ rung chuông ngoài ngã tư đường và thường là tôi được sai ra tìm hiểu họ muốn gì.
Tất cả những gì tôi trông thấy từ cây cột trở đi là một màn sương xám xịt, nhưng tôi có thể nghe ra tiếng suối chảy òng ọc đâu đó bên dưới. Đến khu vực này thì con kênh được nâng cao lên so với những cánh đồng bao quanh. Từ lối kéo xe, một bờ cỏ dốc đứng xuôi xuống rồi chìm khuất trong màn sương.
"Từ đây đến mép vườn nhà ông ấy chỉ chừng chín mươi bước chân," ông Gilbert bảo. "Ngay dưới chân bờ kênh là một con suối. Cứ men theo đấy mà đi. Con suối đổ thẳng xuống bên dưới nhà và từng dùng để quay những bánh xe nước khi nơi này còn là cối xay nước. Dù sao cũng chúc cậu may mắn nhé. Chắc chắn tôi sẽ gặp lại cậu vào lần tới khi tôi ghé qua đem muối đến – hay là mấy thùng rượu," ông nói thêm, nháy mắt với tôi.
Nói đoạn, ông Gilbert tháo ngựa ra, bước đi vào màn sương. Một lần nữa tiếng vó ngựa nghèn nghẹt vang lên và chiếc sà lan trôi lên phía bắc. Tôi vẫn đứng đấy cho đến khi không nghe thấy tiếng vó ngựa nữa. Thế rồi, ngoài tiếng nước róc rách dưới chân mình, bốn bề xung quanh tôi lặng ngắt. Tôi rùng mình. Chưa khi nào tôi cảm thấy cô đơn đến thế.
Tôi dò dẫm đi xuống bờ kênh dốc rồi thấy mình đứng trên mép dòng suối chảy xiết. Dòng nước đổ về phía tôi trước khi rần rật chảy vào đường hầm tối đen dưới dòng kênh, chắc chắn sẽ ló ra ở bên phía bên kia. Tầm nhìn đã được cải thiện chút ít nhưng vẫn không nhiều hơn mười hai bước chân ra mọi hướng. Tôi bắt đầu lội ngược dòng suối, lần theo lối đi sình lầy hướng về ngôi nhà, lòng mong ngóng ngôi nhà sẽ từ trong màn sương hiện ra bất cứ lúc nào.
Nhưng tôi chỉ nhìn thấy toàn cây là cây – những hàng liễu rủ – ở hai bên bờ kênh, cành cây phết xuống mặt nước. Ngay lập tức mấy cành cây ấy cản trở đường đi của tôi, làm tôi phải liên tục cúi mình né tránh. Cuối cùng, tôi đến được ven ngoài khu vườn nhà Arkwright, một hàng dày thực vật chừng như không xuyên qua nổi gồm những thân cây trụi lá, bụi rậm và cây non. Tuy nhiên, trước hết còn có một rào cản khác phải vượt qua.
Khu vườn được bao bọc bằng hàng rào sắt hoen gỉ: những cọc rào cao ba mét, đầu nhọn hoắc, nối với nhau bằng ba hàng thanh sắt ngang. Làm sao tôi có thể vào trong vườn đây? Leo qua hàng rào sẽ khó khăn lắm, tôi lại không muốn liều lĩnh để rồi bị cọc xiên qua người khi trèo lên đến đỉnh. Thế là tôi men theo bờ rào cong cong về bên trái, hy vọng tìm ra một lối vào khác. Đến lúc này tôi bắt đầu thấy bực ông Matthew Gilbert. Ông ấy bảo tôi men theo dòng suối nhưng lại chẳng buồn giải thích tôi sẽ tìm thấy gì hay là có cách nào vào được đến trong nhà.
Tôi men theo hàng rào chừng vài phút thì dưới chân bắt đầu trở nên vô cùng lầy lội. Có bao nhiêu là bụi cỏ mọc trong đầm lầy cùng các vũng nước, và để tìm thấy nền đất tương đối cứng chắc hơn, tôi buộc phải bước đi khi vai phải gần như cạ vào hàng rào. Rốt cuộc tôi cũng đến được một khoảng hở hẹp.
Tôi len người chui vào trong vườn, gặp ngay một mương đầy nước. Dòng nước âm u tối tăm, không thể đoán biết là mương này sâu bao nhiêu. Mà để băng qua bên kia cũng mất ít nhất chín bước – dù có chạy lấy đà cũng không thể nhảy qua. Tôi nhìn trái nhìn phải nhưng chẳng còn cách nào khác. Thế là tôi dùng trượng dò thử, và thật ngạc nhiên làm sao, mực nước không cao quá đầu gối tôi. Con mương trông như một đường hào phòng vệ nhưng rõ ràng là quá cạn. Vậy thì mương này dùng để làm gì?
Thắc mắc vô cùng, tôi lội qua mương, ngay lập tức đáy quần tôi ướt sũng. Đám cây bụi đang chờ tôi bên kia bờ nhưng lại có một lối mòn hẹp dẫn xuyên qua chúng, và sau một đỗi lối mòn hướng ra một quãng đất rộng mọc toàn cỏ thô, ở đấy có vài cây liễu gai to lớn nhất tôi từng thấy. Những cây liễu trồi lên khỏi đám sương mù như những tên khổng lồ, với những ngón tay ốm nhách, dài xọc, ướt át quét vào quần áo của tôi và vướng vào tóc tôi.
Cuối cùng, tôi nghe có tiếng suối chảy róc rách trước khi lần đầu tiên nhác thấy ngôi nhà cối xay nước của ông Arkwright. Nơi này rộng hơn nhà Thầy Trừ Tà tại Chipenden nhưng chỉ có kích cỡ ngôi nhà là ấn tượng. Nhà được xây bằng gỗ, đã hư nát cả và tọa lạc xiên xẹo trên nền đất, mái và tường nhà giao nhau ở một góc kỳ quặc; mái nhà xanh lè những nhớt, trong khi cỏ dại và mầm cây con đâm ra lún phún trên máng xối. Nhiều nơi của ngôi nhà trông rệu rã và đổ nát, như thể toàn bộ khối kiến trúc đang kéo dài thời gian, chờ đến cái chết không tránh khỏi của mình trong cơn giông đầu tiên của mùa đông.
Trước nhà, dòng suối ào ào đổ vào bánh xe nước bằng gỗ to đùng cứ mãi im lìm bất động, bất chấp lực chảy cuồn cuộn; dòng nước này lại ồ ạt chảy vào đường hầm tối om bên dưới tòa nhà. Quan sát bánh xe nước kỹ hơn, tôi trông thấy bánh xe đã mục ruỗng và gãy đổ, chắc hẳn không xoay vần được gì cả năm trời rồi.
Cánh cửa đầu tiên tôi đi đến bị đóng ván chắn lại, cả những cửa sổ cạnh đấy cũng thế. Do đó tôi bước về phía dòng suối cho đến khi đến được hàng hiên hẹp bao lấy một cánh cửa to lớn, vững chãi. Trông như là cửa chính nên tôi gõ lên đấy ba lần. Có lẽ lúc này ông Arkwright đã về nhà rồi chăng? Khi không ai ra mở cửa, tôi lại gõ lần nữa, lần này mạnh tay hơn. Sau cùng, tôi thử vặn nắm cửa. Cửa bị khóa.
Tôi nên làm gì bây giờ? Ngồi trên bậc tam cấp trong tiết trời lạnh lẽo ẩm ướt này chăng? Thời tiết ban ngày đã đủ tệ rồi, trong khi chẳng bao lâu nữa trời sẽ tối. Chẳng có gì bảo đảm ông Arkwright sẽ quay về trước đấy. Việc điều tra vụ xác chết trong nước có thể mất đến vài ngày.
Có một cách giải quyết vấn đề rắc rối của tôi. Tôi có chiếc chìa khoá đặc biệt do ông Andrew, người anh hành nghề thợ khóa của Thầy Trừ Tà, làm cho. Mặc dù chìa này có thể mở đa số các cửa, và tôi nghĩ cánh cửa trước mặt mình đây cũng không khó khăn gì mấy, nhưng tôi lại do dự không muốn dùng đến nó. Chỉ là có vẻ không phải lắm khi đi vào nhà ai đó mà không có sự cho phép của họ, thế là tôi quyết định chờ thêm chập nữa, xem ông Arkwright cuối cùng có xuất hiện không. Chẳng bao lâu sau, cái lạnh và hơi ẩm bắt đầu ngấm vào xương tủy, và tôi đổi ý. Ngả nào thì tôi cũng sẽ sống sáu tháng tại đây và ông Arkwright đang chờ tôi đến cơ mà.
Chiếc chìa khóa xoay chuyển nhẹ nhàng trong ổ nhưng cánh cửa kẽo kẹt rên rỉ trên bản lề khi nó từ từ mở ra. Bên trong cối xay tối mù mù, không khí ẩm ướt, mốc meo, nồng nặc mùi rượu cũ. Tôi chỉ bước một bước vào trong, đợi cho hai mắt mình làm quen, rồi nhìn quanh. Đầu kia căn phòng có chiếc bàn lớn, chính giữa bàn là một cây nến đặt trên chân nến nhỏ bằng đồng. Tôi đặt trượng xuống rồi dùng túi đồ chặn cửa, để cho chút ánh sáng lọt vào trong phòng. Lấy từ trong túi ra hộp đánh lửa, tôi nhanh chóng thắp nến lên. Xong xuôi, tôi trông thấy một mảnh giấy đặt trên bàn, dùng chân nến đè lên. Liếc qua một loáng, tôi biết đây là tin nhắn cho mình nên cầm lên rồi bắt đầu đọc.
Cậu Ward thân mến,
Có vẻ như cậu đã sử dụng đến sáng kiến của mình, bằng không thì cậu sẽ phải qua đêm ngoài kia trong bóng tối, một trải nghiệm không được vui sướng gì. Tại đây, cậu sẽ thấy mọi chuyện rất khác với khi còn ở Chipenden.
Mặc dù tôi theo cùng một nghiệp như thầy Gregory, song chúng tôi lại làm việc theo cách khác nhau. Nhà của thầy cậu là một nơi trú náu, được thanh sạch ngay từ bên trong, nhưng ở đây, những kẻ đã chết không thanh thản lại đi lại khắp nơi và mong ước của tôi là họ phải làm như vậy. Họ sẽ không làm hại cậu đâu, nên hãy để họ yên. Đừng ra tay gì cả.
Trong chạn có thức ăn và có cả củi đốt lò cạnh cửa chính, nên cậu cứ ăn cho no rồi ngủ ngon nhé. Tốt nhất là ngủ trong bếp và chờ tôi trở về. Đừng lang thang xuống nơi thấp nhất trong nhà và cũng đừng thử đi vào căn phòng được khóa trên tầng cao nhất.
Vui lòng tôn trọng những gì tôi muốn, vì lợi ích của cả tôi lẫn cậu.
Bill Arkwright