Tôi thấy lời bàn của ông Arkwright về những kẻ đã chết thật lạ. Tại sao ông ấy lại để họ quấy nhiễu sự tĩnh lặng trong ngôi nhà của mình cơ chứ? Chẳng phải nhiệm vụ của ông ấy là ban cho họ sự thanh thản bằng cách đưa họ về miền ánh sáng hay sao? Đấy hẳn nhiên là việc mà Thầy Trừ Tà sẽ làm. Nhưng thầy tôi đã giải thích rằng ông Arkwright có thể xử lý nhiều chuyện theo cách khác và nghĩa vụ của tôi là phải thích nghi với cách làm của ông ta.
Tôi nhìn quanh, mãi đến giờ tôi mới có thể quan sát căn phòng cặn kẽ. Căn phòng không được thú vị cho lắm – không phải một phòng khách đúng nghĩa. Các cửa sổ đều bị đóng ván kín mít, chả trách sao trong này lại âm âm u u. Chắc chắn nơi đây từng được dùng làm nhà kho khi khu nhà còn là một cối xay nước. Bên trong không có lò sưởi, ngoài chiếc bàn ra thì những đồ đạc duy nhất là hai chiếc ghế có lưng tựa, đặt ở hai góc phòng đối diện nhau. Tuy nhiên, lại có nhiều sọt chứa rượu xếp chồng lên nhau dựng sát tường cùng một dãy dài những chai rượu rỗng. Bụi bặm lẫn mạng nhện giăng đầy vách lẫn trần nhà, và mặc dù cửa chính mở thẳng vào phòng, nhưng rõ ràng là ông Arkwright chỉ dùng phòng này làm lối đi sang những nơi khác trong nhà mà thôi.
Tôi dịch túi đồ xa khỏi cửa trước khi khóa cửa lại. Tiếp đến, tôi cầm ngọn nến trên bàn lên đi sang phòng bếp. Cửa sổ bên trên chậu rửa chén không bị đóng ván nhưng ngoài trời vẫn còn mù sương và ánh nắng đang bắt đầu lịm tắt. Đặt trên mép cửa sổ là một trong những con dao to nhất mà tôi từng thấy. Rõ ràng dao này không dùng vào việc chuẩn bị thức ăn rồi! Tuy vậy, căn bếp trông ngăn nắp hơn là tôi tưởng, không một chút bụi, đĩa, tách và nồi niêu xếp ngay ngắn trong tủ chén sát tường cùng một bàn ăn nhỏ cùng ba chiếc ghế gỗ. Tôi tìm thấy trong chạn chén đầy nhóc những phô mai, thịt nguội, thịt muối và nửa ổ bánh mì.
Thay vì lò sưởi thì trong này có một bếp lò to tướng, rộng nhiều hơn là cao, với hai cửa và ống khói bằng sắt uốn éo phía trên lò để dẫn lên trần nhà. Cánh cửa bên trái để mở, làm lộ ra một chảo rán bên trong; cửa bên phải chất đầy củi và rơm, đã sẵn sàng được đun lên. Rõ ràng đây là cách duy nhất để sưởi ấm và nấu nướng trong một tòa nhà bằng gỗ như thế này.
Không chần chừ gì nữa, tôi dùng hộp đánh lửa nhóm lò. Căn bếp nhanh chóng tràn ngập hơi ấm rồi sau đấy tôi bắt đầu rán ba lát thịt muối thật dày. Bánh mì đã khô queo, ăn hết ngon nhưng đem nướng lại thì còn tốt chán. Dù không có chút bơ nào, thức ăn vẫn được đánh chén ngon lành và chẳng mấy chốc tôi cảm thấy khá hơn nhiều.
Tôi bắt đầu buồn ngủ nên quyết định đi lên lầu tìm phòng, hy vọng xác định được phòng nào dành cho mình. Tôi mang nến theo và hóa ra đấy là một quyết định sáng suốt. Cầu thang chẳng thể nào tối tăm hơn. Trên tầng một có bốn cánh cửa. Cánh cửa đầu tiên dẫn vào một căn phòng ngổn ngang những thùng rỗng, tấm trải nệm bẩn và đủ thứ rác rưởi linh tinh bốc mùi mốc meo thối rữa gây khó chịu. Các bức vách có những mảng ố vì bị ẩm, còn mấy đống khăn trải nệm lại mốc xanh mốc đỏ cả lên. Hai cánh cửa tiếp theo dẫn vào hai phòng ngủ đơn. Trong phòng đầu tiên, mấy tấm trải nệm nhàu nát cho thấy đã từng có người ngủ trên giường; phòng thứ hai đặt một chiếc giường trơ tấm nệm. Căn phòng này dành cho tôi chăng? Nếu là thế, tôi muốn quay về Chipenden lắm lắm. Trong căn phòng trống trải tẻ nhạt này, chẳng còn thứ đồ đạc nào khác và không gian xung quanh tôi thì vừa lạnh vừa ẩm.
Căn phòng thứ tư có một chiếc giường đôi rộng rãi. Ngay chân giường là một đống chăn chất bừa bộn, vả lại tấm trải nệm cũng nhàu nhĩ. Phòng này mang đến cảm giác có gì đấy không ổn khiến tóc gáy tôi bắt đầu dựng lên. Tôi rùng mình, giơ ngọn nến lên cao hơn và tiến lại gần. Chiếc giường trông ẩm ướt, rồi khi tôi chạm nhẹ mấy ngón tay vào đấy, tôi thấy giường ướt sũng. Ướt đến mức như có ai đổ chừng nửa tá thùng nước đầy lên trên ấy. Tôi ngước nhìn trần nhà nhưng chẳng thấy có lỗ hổng nào lẫn dấu vết của những vệt bẩn do bị rò rỉ. Vậy làm sao chiếc giường lại ướt đến thế? Tôi nhanh chóng lùi ra ngoài, đóng cửa lại thật chặt sau lưng mình.
Càng nghĩ tôi càng không thích tầng nhà này. Bên trên còn có một tầng nữa nhưng ông Arkwright đã dặn tôi phải tránh xa, nên tôi quyết định nghe theo lời khuyên của ông mà ngủ trên sàn bếp vậy. Ít ra nơi ấy khô ráo và sức nóng từ bếp lò sẽ giúp tôi được ấm cho đến sáng.
Ngay sau lúc nửa đêm, có thứ gì đó đánh thức tôi dậy. Căn bếp hầu như tối thui, chỉ có chút ánh sáng yếu ớt phát ra từ bếp lò.
Điều gì đã phá rối tôi thế? Có phải ông Arkwright quay về rồi chăng? Nhưng tóc tai sau gáy tôi lại dựng lên và tôi rùng mình. Là con trai thứ bảy của người con thứ bảy, tôi nhìn ra và nghe thấy những thứ mà người khác không thể. Arkwright đã bảo những người chết không thanh thản đang hiện diện trong ngôi nhà này. Nếu là thế, chắc hẳn tôi sẽ sớm biết ngay thôi.
Tức thì từ đâu đó bên dưới vang lên tiếng rì rầm trầm đục rung rung truyền thẳng qua những bức tường của cối xay. Gì thế nhỉ? Âm thanh này dường như mỗi lúc một lớn dần.
Tôi tò mò lắm nhưng quyết định không đứng lên. Ông Arkwright đã bảo tôi không được làm gì. Chẳng phải chuyện của tôi. Nhưng dù thế, tiếng động này nghe thật đáng sợ và làm người ta bất an. Tôi không thể ngủ lại, mặc cho có cố đến mức nào. Dần dà tôi nhận ra âm thanh này là gì. Là tiếng bánh xe nước. Bánh xe nước đang quay! Hay ít ra nghe có vẻ như thế.
Thế rồi một tiếng thét chói tai vang lên và âm thanh rì rầm ngừng phắt, nhanh như khi nó bắt đầu. Một tiếng thét khủng khiếp và chất chứa nỗi đau đớn cùng cực đến mức tôi phải bịt hai tai lại. Tất nhiên làm thế cũng đâu giúp ích gì. Âm thanh ấy ở trong đầu tôi – là dấu vết còn lưu lại của chuyện gì đấy đã xảy ra trong cối xay này từ bao nhiêu năm trước. Tôi đang nghe thấy ai đó trong cơn đau kinh khiếp.
Cuối cùng tiếng thét cũng lịm dần và vạn vật thanh bình yên tĩnh trở lại. Những gì tôi vừa mới nghe thấy cũng đủ để đuổi hết mọi người ra khỏi nhà. Tôi là cậu bé học việc của thầy trừ tà nên những chuyện như thế là một phần trong công việc, nhưng tôi vẫn thấy sợ – toàn thân tôi đang run lẩy bẩy. Ông Arkwright từng bảo trong nhà chẳng có thứ gì làm hại được tôi, tuy nhiên, có chuyện kỳ lạ đang diễn ra tại đây. Chuyện gì đấy khủng khiếp hơn chỉ là trò ma ám thông thường.
Dù thế, từ từ rồi tôi cũng bình tâm hơn, và chẳng bao lâu sau tôi lại ngủ thiếp đi.
Tôi ngủ say, rất say. Mặt trời mọc lâu lắc rồi tôi mới thức dậy và thấy có ai đó khác đang ở trong bếp với mình.
"À há cậu bé!" Một giọng nói trầm trầm vang lên. "Cậu sẽ dễ dàng bị tấn công bất ngờ đấy. Ở khu vực này không nên ngủ quá say như vậy. Chẳng có nơi nào là an toàn cả!"
Tôi nhanh nhẹn ngồi dậy, rồi loạng choạng luống cuống đứng lên. Đối diện tôi là một thầy trừ tà, tay trái cầm trượng, tay phải xách túi. Mà chiếc túi mới thật là to! Túi này có thể dễ dàng chứa cả thầy tôi lẫn tôi trong ấy. Rồi tôi để ý đến đầu trượng. Trượng của thầy tôi và tôi đều có lưỡi dao bấm, còn thanh trượng này thì lưỡi dao ló hẳn ra ngoài, một lưỡi dao nguy hiểm dài ít nhất ba tấc, với sáu ngạnh móc ngược chia làm đôi, mỗi bên lưỡi dao có ba ngạnh.
"Ông Arkwright ạ?" Tôi hỏi. "Cháu là Tom Ward..."
"Phải, tôi là Bill Arkwright, và tôi cũng đoán được cậu là ai rồi. Rất mừng được gặp cậu, cậu Ward. Thầy cậu khen cậu nhiều lắm đấy."
Tôi chăm chú nhìn ông, cố gắng xua đi cơn ngái ngủ. Ông không cao bằng thầy tôi nhưng lại trông sung sức hơn theo kiểu dẻo dai, ẩn chứa bao sức lực. Gương mặt ông hốc hác, cặp mắt to có màu xanh lục và đầu tóc thì hói, chẳng có lấy một cọng tóc – đầu ông cạo nhẵn thín như đầu thầy tu. Trên má trái của ông là một vết sẹo sống động, trông như từ một vết thương mới dính phải gần đây.
Tôi cũng thấy môi ông tim tím. Thầy Trừ Tà không uống rượu, nhưng có một lần, khi bệnh nặng, sốt đến mê sảng, thầy tôi đã uống sạch một chai vang đỏ. Sau đấy môi thầy có màu tim tím y như thế.
Ông Arkwright tựa trượng vào bức tường gần cánh cửa bên trong rồi đặt túi xuống. Có tiếng thủy tinh va loảng xoảng khi chiếc túi chạm phải sàn bếp. Ông chìa tay cho tôi. Tôi bắt lấy. "Thầy Gregory cũng đề cao ông lắm đấy ạ," tôi bảo, rồi cho tay vào túi lấy ra đồng tiền vàng. "Thầy gửi cái này để phụ ông lo cho cháu..."
Arkwright nhận đồng tiền từ tay tôi, đưa lên miệng cắn thật mạnh. Ông săm soi đồng tiền khá kỹ, đoạn mỉm cười và gật đầu cảm ơn. Ông vừa kiểm tra xem đây là đồng tiền thật được đúc từ vàng ròng chứ không phải là thứ giả mạo. Việc này làm tôi khó chịu. Ông nghĩ là thầy tôi lại đi lừa ông chăng? Hay là ông nghi ngờ chính tôi vậy?
"Cậu Ward này, chúng ta hãy tin tưởng nhau trong một thời gian nhé," Arkwright bảo, "và hãy xem chúng ta sẽ hòa thuận với nhau ra sao. Hãy để chúng ta có đủ thời gian mà đánh giá lẫn nhau."
"Thầy cháu bảo ông có rất nhiều điều để dạy bảo cháu về khu vực phía bắc Caster," tôi nói tiếp, cố gắng không thể hiện ra sự khó chịu với chuyện đồng tiền vàng vừa rồi. "Về những thứ từ dưới nước chui lên ấy..."
"Ừ, tôi sẽ dạy cậu những thứ ấy, nhưng chủ yếu tôi sẽ giúp cậu cứng cáp hơn. Cậu có khỏe không, cậu Ward?"
"Khá khỏe so với tuổi của cháu ạ," tôi ngập ngừng.
"Cậu chắc mẩm lắm nhỉ?" Ông Arkwright đưa mắt nhìn lên nhìn xuống tôi. "Tôi thì cho là cậu cần thêm chút cơ bắp để có thể tồn tại trong nghề này! Có giỏi môn vật tay không?"
"Trước nay chưa bao giờ thử ạ..."
"Chà, thế thì giờ cậu thử được rồi đấy. Kết quả sẽ cho tôi biết mình cần làm gì. Lại ngồi xuống đây nào!" Ông ta vừa ra lệnh vừa dẫn đường đi đến chỗ cái bàn.
Tôi là con út trong gia đình, kém anh kế ba tuổi, và tôi đã không có cơ hội chơi những trò chơi gia đình ấy, nhưng tôi nhớ anh Jack và anh James từng vật tay trên bàn bếp khi còn ở trong nông trại. Hồi ấy anh Jack luôn thắng vì anh lớn tuổi nhất, cao hơn và khỏe hơn. Hẳn tôi sẽ chịu bất lợi tương tự khi đấu với ông Arkwright thôi.
Tôi yên vị đối diện ông và cả hai cùng đặt tay trái quặt vào nhau. Khi tựa cùi chỏ lên mặt bàn thì cánh tay tôi ngắn hơn cánh tay ông ấy. Tôi cố gắng hết sức nhưng Arkwright đã dùng một lực thật mạnh, tăng tiến từ từ, và mặc cho tôi đã cố hết mình để cưỡng lại, ông ấy vẫn bẻ tay tôi ngược ra sau cho đến khi tay nằm sát xuống mặt bàn.
"Cậu làm hết sức rồi à?" Ông Arkwright hỏi. "Nếu chúng ta trợ giúp cậu chút đỉnh thì sao nhỉ?"
Nói đoạn, ông đi đến bên cái túi của mình rồi quay lại, tay mang theo cuốn sổ ghi chép. "Này, kê thứ này dưới cùi chỏ cậu đi..."
Nhờ cuốn sổ nâng cùi chỏ khỏi mặt bàn, cánh tay tôi giờ cao gần bằng cánh tay ông Arkwright. Thế là khi vừa cảm nhận được lực ép từ tay ông tăng dần, tôi vận hết sức bình sinh để trụ lại theo cách bất ngờ nhất có thể. Thật hài lòng làm sao là tôi có thể ép cánh tay ông Arkwright hơi bật lại một chút, và tôi nhìn thấy sự ngạc nhiên trong mắt ông. Nhưng sau đó ông Arkwright mạnh mẽ phản đòn khiến cho tay tôi áp xuống mặt bàn chỉ trong vài giây. Cảu nhảu càu nhàu, ông Arkwright buông tay tôi ra rồi đứng lên trong khi tôi xoa xoa mấy bắp thịt đau nhức.
"Thế này khá hơn rồi," ông bảo, "nhưng cậu phải luyện cho những bắp thịt ấy cứng cáp hơn nếu muốn sống sót. Đói chưa cậu Ward?"
Tôi gật đầu.
"Được rồi, tôi sẽ làm bữa sáng và sau khi ăn xong chúng ta nên bắt đầu tìm hiểu nhau thì hơn."
Ông Arkwright mở túi, để lộ hai vỏ chai rượu rỗng – cùng với các nhu yếu phẩm khác: phô mai, trứng, thịt nguội, thịt heo và hai con cá lớn. "Hai con này mới bắt sáng nay đấy!" Ông reo lên. "Không gì tươi bằng đâu. Bây giờ chúng ta sẽ chia nhau một con, còn con kia dành cho bữa điểm tâm ngày mai. Cậu có khi nào nấu món cá chưa?"
Tôi lắc đầu.
"Chắc là đâu cần nhỉ, có thứ xa xỉ là ông kẹ kia làm mọi việc nhà cho cậu mà," ông Arkwright lắc lắc đầu tỏ vẻ không hài lòng. "Chà, ở đây chúng ta phải tự làm lấy mọi chuyện. Tốt hơn là cậu nên quan sát trong khi tôi nấu con cá này, vì sẽ đến lượt cậu nấu con cá kia vào ngày mai đấy. Cậu không nề hà nếu phải chia sẻ việc nấu nướng phải không nào?"
"Dĩ nhiên là không ạ," tôi đáp. Tôi chỉ hy vọng mình có khả năng xoay sở được thôi. Thầy Trừ Tà không ưa thích mấy tài nấu nướng của tôi.
"Thế thì ổn rồi. Dùng xong bữa điểm tâm, tôi sẽ dẫn cậu đi nhìn quanh cối xay. Để xem cậu có gan dạ như thầy cậu khen không nhé."