Món cá khá ngon lành và ông Arkwright dường như rất thích nói chuyện trong khi ăn.
"Điều trước tiên cần ghi nhớ về khu vực mà tôi đang bảo vệ đây," ông bảo, "là nơi này trùng trùng sông nước. Nước thì ẩm ướt và có thể mang đến rắc rối..."
Tôi tưởng ông đang cố pha trò nên mỉm cười, nhưng ông Arkwright trừng mắt nhìn tôi nghiêm khắc. "Chuyện này không có gì buồn cười đâu cậu Ward. Thực chất là chẳng buồn cười chút nào. Dùng từ ‘ẩm ướt’ theo ý tôi nghĩa là nước làm mọi vật ướt sũng, ngấm xuống lòng đất, vào cơ thể và cả tận trong tâm hồn. Nước ngấm vào rồi lan tỏa ra toàn bộ khu vực này, và đấy là chìa khóa dẫn đến mọi khó khăn mà chúng ta phải đối mặt. Nước chính là môi trường cho đám cư dân của thế lực bóng tối lớn mạnh. Chúng ta sống trên đất liền chứ không phải trong nước. Vậy nên rất khó đối phó với những sinh vật như thế."
Tôi gật đầu. "Vậy ‘ngấm vào và lan tỏa’ có cùng nghĩa với ‘ướt sũng’ không ạ?"
"Có đấy cậu Ward. Nước tràn đi khắp nơi và ngấm vào mọi thứ. Quanh vùng này có rất nhiều sông ngòi. Trước hết phải kể đến vịnh Morecambe, trông như một khoảnh đất lớn của Hạt bị biển ngoạm mất. Những con kênh nguy hiểm như những dòng sông sâu thăm thẳm cắt ngang qua vùng cát lún trong vịnh. Người ta băng qua vịnh khi thủy triều cho phép, nhưng nước triều dâng rất nhanh và đôi khi có cả sương mù dày đặc tràn xuống. Hàng năm, nước từ biển đổ vào đã cướp đi nhiều cỗ xe, ngựa kéo lẫn hành khách nơi ấy. Họ biến mất mà không để lại chút dấu vết nào.
Rồi còn những ao hồ trên phương bắc. Có những ngày trông tĩnh lặng khiến ta bị đánh lừa, nhưng thực ra chúng rất sâu. Và có những thứ nguy hiểm từ dưới hồ trồi lên."
"Thầy Gregory bảo với cháu ông đã chèn kẹ xé xác Coniston. Rằng ông kẹ ấy đã giết hại hơn ba mươi người trước khi ông ra tay, khiến cho hai bên bờ hồ được an toàn."
Ông Arkwright phấn khởi hẳn lên khi tôi nói thế. "Đúng thế, cậu Ward ạ. Thoạt tiên, tên kẹ ấy là một điều bí ẩn làm cư dân trong vùng hoang mang," ông giảng giải. "Nó tóm lấy những ngư dân hoạt động một mình rồi lôi họ xuống nước. Người ta cứ nghĩ người mất tích chết đuối, nhưng nếu là thế, tại sao xác họ lại không dạt vào bờ? Rốt cuộc, khi có quá nhiều nạn nhân thì tôi được mời đến. Không phải một việc dễ dàng gì. Tôi nghi ngờ đấy là do kẹ xé xác, nhưng hang ổ của nó ở đâu mới được? Với lại, một khi đã bị hút sạch máu, thì chuyện gì đã xảy ra cho những xác chết? Cậu Ward này, cậu cần phải có lòng kiên nhẫn lẫn tính kiên trì trong công việc này, và cuối cùng tôi cũng lần ra được kẹ xé xác ấy.
Hang ổ của nó là một cái động ngay dưới bờ hồ. Nó lôi nạn nhân lên bãi đá cạn mà đánh chén cho thỏa thuê. Thế là tôi từ trên bờ đào thẳng vào trong động. Thật là một cảnh tượng ác mộng kinh hoàng. Ổ của nó đầy những xương và xác người – da thịt thối rữa lúc nhúc giòi bọ, cùng với những xác chết mới hơn cạn sạch máu. Tôi sẽ không bao giờ quên được mùi hôi thối ấy. Tôi đã chờ tên kẹ xé xác ba ngày ba đêm cho đến khi nó quay về cùng một nạn nhân mới. Không kịp cứu mạng người ngư dân nữa nhưng tôi đã kết liễu kẹ xé xác ấy bằng muối và bột sắt."
"Khi ông Gilbert đến gặp thầy trò cháu trên dòng kênh, ông ấy có bảo ông đã đi lên phía bắc để xử lý một tử thi được tìm thấy dưới nước và đã bị cạn sạch máu như hai tử thi trước đấy. Đấy có phải nạn nhân của kẹ xé xác không ạ? Còn có tên kẹ khác đang tự do hoành hành ngoài kia chăng?"
Ông Arkwright nhìn chăm chắm qua cửa sổ như thể đang chìm sâu trong suy nghĩ và phải một đỗi lâu sau ông mới trả lời. "Không, là một thủy phù thủy. Dạo gần đây số lượng bọn chúng đang gia tăng. Nhưng khi ta đến nơi thì mụ ấy đã đi xa lắm rồi. Chắc chắn mụ ta sẽ ra tay trở lại, mà chúng ta chỉ có thể hy vọng mụ ta bắt lấy nạn nhân tiếp theo ở gần nhà chúng ta hơn một chút để tôi có thời gian truy diệt mụ. Tuy nhiên, chúng ta nào chỉ cần đề phòng kẹ xé xác và thủy phù thủy không đâu. Còn phải chú ý đến cả tôm ác quỷ nữa... Có từng nghe đến tôm ác quỷ bao giờ chưa?" Ông hỏi tôi.
Tôi lắc đầu.
"Đây là loại sinh vật hiếm gặp, thường sống trong những khe đá chìm hẳn hoặc gần với vùng nước. Thay vì một cái lưỡi linh hoạt, loài này có một ống xương rỗng thè ra khỏi miệng. Ống xương đó sắc lẻm, đầu ống nhọn hoắt, nên sinh vật này có thể hút máu nạn nhân của nó."
"Nghe kinh quá," tôi nói.
"Ồ, kinh lắm chứ," Arkwright đáp. "Nhưng cái thứ sinh vật tởm lợm ấy đôi khi cũng là nạn nhân. Thỉnh thoảng nó được sử dụng trong những nghi lễ của đám thủy phù thủy. Sau khi tôm ác quỷ hút máu một nạn nhân do đám phù thủy chọn lấy, nó chậm rãi hút cạn máu nạn nhân trong vài ngày cho đến khi anh ta trút hơi thở cuối cùng, thì bọn phù thủy sẽ chẻ xác tôm ác quỷ ra và ăn sống nó. Huyết thuật luyện thành mạnh gấp ba lần loại huyết thuật mà một phù thủy có được khi trực tiếp hút máu nạn nhân."
Đột nhiên ông Arkwright đứng lên, đi đến bên bồn rửa chén rồi cầm lấy con dao to tướng trên bậu cửa sổ. Ông mang dao lại bàn.
"Tôi từng giết chết một con tôm ác quỷ bằng thứ này đây!" Ông đặt con dao trước mặt tôi. "Hợp kim chế ra lưỡi dao chứa rất nhiều bạc, giống như lưỡi dao trên thanh trượng của tôi vậy. Tôi bất ngờ tấn công con tôm ác quỷ rồi chặt đứt hết tứ chi của nó! Một vũ khí rất lợi hại. Gần năm năm trước tôi cũng bắt được một con tôm ác quỷ non gần dòng kênh. Năm năm mà có hai con nghĩa là bọn chúng đang gia tăng số lượng đấy."
Lúc này chúng tôi đã dùng xong điểm tâm nên ông Arkwright đẩy ghế ra rồi xoa xoa bụng. "Món cá có ngon không cậu Ward?"
Tôi gật đầu. "Có ạ, cảm ơn ông, món cá rất ngon."
"Cẳng chân của một mụ thủy phù thủy còn ngon hơn nhiều lắm," ông bảo. "Có lẽ cậu nên ăn thử trước khi chấm dứt sáu tháng ở đây."
Hàm tôi há hốc và tôi trân trối nhìn ông Arkwright. Ông ấy ăn thịt phù thủy à?
Nhưng Arkwright đã phá lên cười. "Chỉ là tính khôi hài của tôi thôi mà cậu Ward. Kể cả được nướng đến ngon lành thì tôi cũng sẽ không động vào cẳng chân phù thủy đâu, dù là bằng cái cột neo thuyền ấy chứ. Nhưng mà này, mấy con chó nhà tôi sẽ không kén cá chọn canh – rồi ngày nào đấy cậu sẽ chứng kiến cho xem!"
Tôi thắc mắc ông Arkwright nuôi chó ở đâu. Tôi chẳng nhìn hay nghe thấy dấu hiệu của chúng.
"Quanh mấy khu vực này thì thủy phù thủy là rắc rối lớn nhất," Arkwright nói tiếp. "Không giống như những phù thủy khác, bọn này có thể lội qua nước – nhất là vùng nước tù. Bọn chúng có khả năng núp dưới mặt nước hàng giờ liền mà không cần thở; chúng vùi mình dưới bùn dưới sình, chờ cho một nạn nhân ngờ nghệch đi ngang qua. Cậu có muốn trông thấy một mụ không, cậu Ward?"
Mùa hè rồi, Thầy Trừ Tà và tôi đã đi đến Pendle và chiến đấu chống lại ba tộc phù thủy chính ở đấy. Trận chiến vô cùng khó khăn và chúng tôi may mắn mới sống sót nên tôi ngấy đám phù thủy lắm rồi. Hẳn điều này lộ rõ trên mặt tôi, vì khi tôi gật đầu, ông Arkwright cười nhạt.
"Cậu trông không hăng hái lắm, cậu Ward. Nhưng đừng lo. Mụ ta không cắn đâu. Tôi đã giam mụ ta chặt lắm, cậu sẽ sớm thấy thôi! Tôi sẽ đưa cậu đi xem một vòng quanh cối xay và chỉ cho cậu thấy mụ phù thủy, nhưng trước hết ta phải giải quyết nơi ngủ cho cậu đã. Đi theo tôi!"
Arkwright rời khỏi phòng bếp, tôi đi theo ông lên lầu, vào căn phòng ngủ đơn chỉ trơ một tấm nệm. Tôi tưởng ông sẽ bảo đây là phòng ngủ cho tôi, nhưng thay vào đấy ông lại lôi tấm nệm ra khỏi giường.
"Ta mang cái này xuống lầu nào!" Ông liền giải thích, và chúng tôi cùng nhau mang tấm nệm xuống bếp. Làm xong, ông lại đi lên lầu, ngay sau đấy quay xuống cùng một mớ chăn màn và tấm trải.
"Hơi ẩm một chút," ông bảo, "nhưng chúng sẽ chóng khô trong bếp, rồi chúng ta sẽ mang trở lên phòng cậu. Rồi nhé, tôi có chút việc phải làm trên lầu, nhưng tôi sẽ quay xuống trong vòng một giờ. Trong khi đấy, sao cậu không chép lại bài học đầu tiên về thủy phù thủy và tôm ác quỷ đi nhỉ? Cậu có đem theo sổ ghi chép chứ?"
Tôi gật đầu.
"Thế thì đi lấy sổ ra đi!" Ông ra lệnh.
Cảm nhận được sự sốt ruột của ông, tôi lục lọi trong túi đồ rồi mang sổ ghi chép cùng cây viết và lọ mực be bé lại bên bàn, trong khi ông Arkwright quay trở lên lầu.
Tôi viết lại mọi thứ mình có thể nhớ về bài học đầu tiên, đồng thời thắc mắc ông Arkwright làm cái gì trên lầu mà lâu thế. Có lúc tôi nghĩ mình nghe thấy ông ấy đang nói chuyện với ai đó. Nhưng sau chừng chưa đến một giờ đồng hồ thì ông Arkwright đi xuống, và khi ông đi ngang tôi, tôi ngửi thấy mùi rượu vang từ hơi thở của ông. Đoạn, tay phải giơ cao ngọn đèn và tay trái chộp lấy trượng, ông dẫn đường đến căn phòng mà tôi đã bước vào đầu tiên.
Ngoài việc không có cây nến, do tôi đã mang vào bếp, thì căn phòng vẫn giống hệt như trước: mỗi ghế một góc phòng, mấy cái sọt chứa vài chai rượu rỗng, chiếc bàn lẻ loi cùng ba cửa sổ đóng ván bịt kín. Nhưng ánh sáng rõ ràng từ chiếc đèn lồng tỏa ra đã cho tôi thấy một thứ mà lúc trước tôi không chú ý đến.
Bên phải cửa ngoài là một cửa sập. Ông Arkwright đưa trượng cho tôi, cúi xuống, dùng tay còn lại nắm lấy chiếc vòng sắt mà kéo. Những bậc thang bằng gỗ dẫn xuống một nơi tối đen và có tiếng suối róc rách chảy qua lòng suối đầy sỏi.
"À, cậu Ward này," ông Arkwright nói, "thường thì chỗ này cũng an toàn lắm, nhưng do tôi đã vắng nhà sáu ngày nên trong quãng thời gian ấy bất cứ chuyện gì cũng có thể xảy ra. Đi sát tôi nhé – phòng hờ thôi."
Nói đoạn, ông bắt đầu bước xuống và tôi đi theo ông vào vùng tối mờ mờ sâu hơn, tay mang theo trượng của ông, thanh trượng nặng hơn nhiều những loại trượng tôi từng biết. Mùi gỗ ẩm mục hăng hắc xộc vào mũi tôi, và tôi thấy mình đang không đứng dưới một căn hầm nền lát đá, mà là đứng trên bờ suối ngập bùn. Bên phía tay trái tôi là hình cung to đùng của bánh xe nước bất động.
"Tối qua cháu nghĩ là mình nghe thấy tiếng bánh xe này quay," tôi làu bàu. Tôi biết rõ bánh xe không thật sự quay mà tất cả là một phần của trò ma ám kỳ quặc; chuyện gì đó đã xảy ra trong quá khứ. Nhưng tôi đang tò mò và gần như hy vọng là ông Arkwright sẽ kể cho mình nghe chuyện gì đang diễn ra.
Thay vào đấy, ông trừng mắt nhìn tôi và tôi có thể thấy sự giận dữ dâng lên làm mặt ông đỏ rực. "Trông thứ này có giống như nó quay được không hử?" Ông quát.
Tôi lắc đầu, bước thụt lùi một bước. Ông Arkwright lầm bầm chửi rủa, quay lưng về phía tôi rồi dẫn đường xuống dưới cối xay, vừa đi vừa cúi đầu.
Chẳng mấy chốc chúng tôi đi đến chỗ một hố hình vuông và ông Arkwright dừng lại khi mũi đôi ủng của ông chìa ra trên mép hố. Ông vẫy tay ra hiệu cho tôi tiến tới, tôi đứng bên cạnh ông nhưng giữ cho mấy đầu ngón chân cách rõ xa. Đây là hố chôn phù thủy có chèn mười ba thanh sắt nên không có rủi ro là ta bị rơi xuống đấy. Nhưng thế không có nghĩa là bạn tuyệt đối an toàn. Mụ phù thủy có thể thò tay qua mấy thanh sắt mà tóm lấy mắt cá bạn. Một số rất nhanh, khỏe và tốc độ di chuyển có thể còn hơn cả một cái chớp mắt. Tôi không muốn liều lĩnh.
"Thủy phù thủy có thể đào hang đấy cậu Ward, nên chúng ta phải ngăn chặn trò này. Mặc dù cậu chỉ nhìn thấy những thanh sắt trên cùng, nhưng đây là một cái chuồng chắc chắn có dạng khối vuông, năm mặt còn lại được chôn dưới đất."
Đây là điều tôi đã quá quen thuộc. Thầy Trừ Tà dùng loại chuồng này để nhốt phù thủy nữ yêu, loài này cũng thông thạo việc đào hang.
Arkwright giơ đèn lồng lên trên hố. "Nhìn xuống và nói cho tôi biết cậu trông thấy gì nào..."
Tôi trông thấy mặt nước phản chiếu ánh sáng, ở một bên hố là một vách bùn hẹp chìa ra. Có thứ gì đấy ở trên ấy nhưng tôi chịu, không nhìn rõ được. Dường như thứ ấy đang vùi nửa mình xuống bùn.
"Cháu không thấy rõ ạ," tôi thú nhận.
Arkwright sốt ruột thở hắt ra và chìa tay lấy lại thanh trượng. "Được rồi, để nhìn ra ta cần phải có cặp mắt được huấn luyện thành thục. Gặp lúc ánh sáng yếu ớt, cậu có thể giẫm lên thứ sinh vật như thế này mà không hề biết. Rồi nó sẽ bập răng vào cậu và lôi cậu xuống nấm mồ dưới nước chỉ trong vài giây. Có thể thứ này sẽ giúp được đây..."
Ông đón lấy trượng từ tay tôi và chầm chậm hạ trượng, mũi dao chĩa vào giữa hai song sắt ngay trên vách bùn trước khi đột ngột thọc mạnh xuống. Một tiếng thét đau đớn vang lên, và tôi thoáng thấy một mái tóc dài rối bù cùng cặp mắt tràn đầy căm hận khi có thứ gì đấy phóng mình khỏi gờ vách lặn xuống nước, làm nước bắn tung tóe.
"Giờ thì mụ ta sẽ nằm im dưới đáy chừng hơn một tiếng nữa cho mà xem. Nhưng chắc hẳn cú vừa rồi đã đánh thức mụ ta dậy nhỉ?" Ông Arkwright nhoẻn nụ cười tàn độc.
Tôi không thích cách ông làm đau mụ phù thủy chỉ để tôi trông thấy mụ ta rõ hơn. Có vẻ như việc này không cần thiết – không phải là điều mà thầy tôi sẽ làm.
"Mà này, không phải khi nào mụ ta cũng lờ đờ thế. Vì biết sắp đi vắng dài ngày nên ta đã dặm cho mụ ta thêm nhiều muối hơn. Nếu bỏ quá nhiều muối vào nước thì sẽ kết liễu mụ ta ngay, cậu phải tính toán cho chính xác. Đấy là cách chúng ta giữ cho mụ ấy dễ bảo. Cách thức tiến hành tương tự với tôm ác quỷ – hay bất cứ thứ gì từ dưới nước chui lên. Đấy là lý do vì sao tôi lại cho đào mương xung quanh vườn. Mương có thể cạn nhưng lại có nồng độ muối rất cao, ngăn bất cứ thứ gì chui ra hay chui vào. Mụ phù thủy này sẽ chết ngay trong vài giây nếu mụ ta thoát ra được khỏi hố và cố vượt qua con mương ấy. Mà mương cũng chặn không cho những thứ từ đầm lầy chui vào trong vườn.
Nhưng thôi, cậu Ward ạ, tôi không yếu lòng như thầy Gregory đâu. Thầy ấy nhốt phù thủy xuống hố vì thầy ấy không mấy dễ chịu khi kết liễu bọn chúng, trong khi tôi làm vậy chỉ để trừng phạt chúng thôi. Chúng sẽ bị nhốt một năm dưới hố cho mỗi một sinh mạng chúng cướp đi – mạng trẻ con thì là hai năm. Rồi sau đấy tôi vớt chúng lên mà giết chết. Nào, xem xem ta có thể quan sát tôm ác quỷ mà tôi kể cho cậu nghe là tôi bắt được gần con kênh không nhé..."
Ông Arkwright dẫn đường đến một hố khác lớn gấp đôi hố đầu tiên. Hố này cũng được bao bọc bởi những song sắt tương tự nhưng có nhiều song hơn và chúng xếp khít vào nhau. Trong hố không có vách bùn nào, chỉ là một khoảng rộng nước bẩn. Tôi có cảm giác nơi đây phải rất sâu. Arkwright nhìn chăm chú xuống nước rồi lắc đầu.
"Có vẻ con này đang lẩn trốn dưới đáy. Vẫn còn vật vờ sau một lượng muối lớn tôi thả vào nước. Tốt nhất cứ để mấy con tôm ác quỷ ngái ngủ được yên. Vẫn còn lắm dịp cho cậu nhìn thấy trước khi sáu tháng chấm dứt. Thôi, chúng ta đi vòng quanh khu vườn nào..."
"Mụ ta có tên không ạ?" Tôi vừa hỏi vừa hất đầu xuống cái hố phù thủy khi chúng tôi đi ngang qua.
Arkwright dừng sững lại, nhìn tôi mà lắc đầu. Có rất nhiều biểu hiện loáng qua mặt ông, chẳng có vẻ nào là hay ho cả. Rõ ràng ông nghĩ tôi vừa nói ra điều gì đó vô cùng ngu ngốc.
"Chỉ là một mụ thủy phù thủy thông thường thôi," ông nói giọng khinh miệt. "Mụ ta tự gọi mình là gì thì tôi không biết, mà cũng cóc thèm biết! Đừng hỏi mấy câu vớ vẩn!"
Tôi thốt nhiên nổi giận và thấy mặt mình đỏ lên. "Biết tên phù thủy nhiều khi cũng có lợi lắm đấy ạ!" Tôi gắt. "Thầy Gregory ghi chép tên của tất cả phù thủy thầy từng nghe qua hay đích thân chạm trán."
Arkwright dí mặt sát mặt tôi đến nỗi tôi ngửi thấy hơi thở chua loét của ông. "Lúc này không phải ta đang ở Chipdenden đâu, cậu nhóc. Hiện tại tôi là thầy của cậu và cậu phải làm mọi chuyện theo cách của tôi. Còn nếu mà cậu nói năng với tôi bằng cái giọng ấy nữa, thì tôi sẽ tẩn cho cậu thừa sống thiếu chết! Tôi nói rõ chưa hả?"
Tôi bặm môi để ngăn mình đáp lời, đoạn gật đầu, mắt nhìn xuống ủng. Tại sao tôi lại nói năng ngu xuẩn thế chứ? À, vì một lẽ là tôi nghĩ ông Arkwright đã sai. Một lẽ khác là vì tôi không thích cái giọng ông dùng để nói chuyện với tôi. Nhưng đáng ra tôi không nên để lộ cơn giận của mình như thế. Dẫu sao thì thầy tôi đã bảo ông Arkwright làm mọi chuyện theo cách khác và tôi phải thích nghi với phương pháp của ông ta mà.
"Đi theo tôi nào, cậu Ward," Arkwright bảo, giọng đã dịu đi, "và tôi sẽ chỉ cho cậu xem khu vườn..."
Thay vì dẫn đường quay ngược lại những bậc cấp dẫn lên phòng khách, Arkwright đi ra sau bánh xe nước. Thoạt đầu, tôi tưởng ông sẽ nép người lèn qua bánh xe, nhưng rồi tôi để ý thấy một cánh cửa hẹp bên tay trái được ông mở khóa. Chúng tôi sải bước vào trong vườn, tôi thấy sương mù đã tản đi nhưng vẫn còn vương vấn phía xa xa, sau những rặng cây. Chúng tôi đi trọn một vòng phía trong con mương; thi thoảng Arkwright dừng lại để giảng giải.
"Kia là đầm Tu Viện," ông xỉa ngón tay về hướng tây nam. "Sau đấy là đồi Tu Sĩ. Đừng bao giờ cố băng qua đầm lầy một mình nhé – hay ít ra là cho đến khi cậu chưa biết đường quanh đây hay chưa nghiên cứu bản đồ. Bên ngoài đầm lầy ấy, gần như trực chỉ về hướng tây, là bờ đất cao ngăn thủy triều từ ngoài vịnh tràn vào." Tôi nhìn quanh, ghi nhớ hết mọi điều ông nói. "Còn bây giờ," ông giảng tiếp, "tôi muốn cậu gặp một kẻ khác..."
Dứt lời, Arkwright cho hai ngón tay vào miệng và huýt lên tiếng sáo dài đinh tai. Ông lặp lại, và gần như ngay lập tức, từ phía đầm lầy, tôi nghe thấy có thứ gì đấy chạy đến chỗ chúng tôi. Hai con chó săn sói to lớn hiện ra, cả hai đều thoải mái phóng thẳng qua mương. Tôi không lạ gì các loại chó trong nông trại, nhưng hai con này toát ra vẻ hung dữ và dường như đang nhắm thẳng vào tôi. Chúng giống với sói nhiều hơn là chó, và nếu tôi đang đứng một mình, tôi chắc mẩm chúng sẽ ghì tôi xuống đất trong nháy mắt. Một con lông màu xám cùng những sọc đen trông bẩn bẩn; bạn đồng hành của nó đen óng như than, trừ một mảng lông xám ngay chóp đuôi. Hai hàm chúng há rộng, răng nhe ra sẵn sàng táp.
Tuy nhiên, vừa nghe thấy lệnh từ Arkwright bảo, "Ngồi xuống!", bọn chúng dừng phắt lại, ngồi bệt xuống ngước mắt nhìn lên chủ, lưỡi thè ra khỏi hai cái mõm mở ngoác.
"Con đen là con cái," Arkwright bảo. "Tên nó là Vuốt. Đừng xoay lưng lại với con này – nó nguy hiểm lắm. Còn đây là Răng," ông nói thêm, chỉ vào con màu xám. "Tính khí có đỡ hơn, nhưng cả hai con này đều là chó săn, không phải thú nuôi trong nhà. Chúng nghe lời tôi vì tôi cho chúng ăn uống đầy đủ, do đó chúng biết không được chọc giận tôi. Chúng chỉ mủi lòng nhau mà thôi. Là một cặp đấy. Không thể tách rời."
"Cháu từng sống trong nông trại. Bọn cháu cũng có chó săn đấy ạ," tôi bảo.
"Thật sao? Vậy thì cậu sẽ có chút khái niệm về những gì tôi muốn nói. Với chó săn, không có chỗ cho tình cảm yêu thương. Cứ đối xử tốt với chúng, cho ăn no đủ, nhưng chúng phải làm việc để trả công. Tôi e là giữa loài chó trong nông trại với hai con này ít có điểm chung lắm. Vào ban đêm, chúng thường được xích lại gần nhà và được huấn luyện để sủa lên khi có thứ gì tiến đến. Ban ngày chúng săn thỏ hay thỏ rừng ngoài ven đầm lầy và canh chừng xem có gì có thể đe dọa đến ngôi nhà hay không.
Nhưng khi tôi đi làm việc, bọn này đi cùng tôi. Một khi đã đánh hơi ra thì chúng sẽ không bao giờ nhả ra cả. Chúng sẽ săn đến cùng bất cứ thứ gì mà ta ra lệnh. Nếu cần thiết, chúng cũng sẽ giết con mồi theo lệnh tôi nữa. Như tôi đã nói, chúng làm việc siêng năng và ăn uống thịnh soạn. Khi tôi giết một phù thủy, chúng sẽ được thêm món trong khẩu phần. Tôi cắt tim mụ phù thủy quẳng cho chúng. Việc đấy hẳn thầy cậu đã nói với cậu rồi, sẽ ngăn không cho mụ phù thủy quay lại thế gian dưới hình hài khác và cũng ngăn cản mụ sử dụng cái xác của mình rồi bám trèo lên mặt đất. Đấy là lý do vì sao tôi không giữ những phù thủy đã chết. Làm thế tiết kiệm thời gian lẫn không gian."
Trong con người ông Arkwright có một khía cạnh tàn bạo – chắc chắn đây không phải người để ta chọc giận rồi. Khi chúng tôi trở vào nhà, hai con chó theo sát, tôi tình cờ liếc lên và trông thấy một điều làm mình kinh ngạc. Hai cột khói riêng rẽ đang cuồn cuộn bốc lên khỏi mái nhà cối xay. Một cột hẳn là từ bếp lò trong bếp. Nhưng lò lửa thứ hai là ở đâu mới được? Tôi thắc mắc không biết có phải là từ căn phòng bị khóa mà tôi được cảnh báo trước chăng. Trên đấy có điều gì hoặc ai đó ông Arkwright không muốn tôi nhìn thấy chăng? Rồi tôi nhớ đến những người chết không thanh thản ông Arkwright cho phép đi lại trong nhà. Tôi biết ông rất mau nổi nóng và tôi cũng chắc chắn là ông sẽ không muốn tôi soi mói tọc mạch, nhưng tôi đang vô cùng tò mò.
"Ông Arkwright," tôi lễ phép mở lời, "cháu hỏi ông một câu được không ạ?"
"Đấy là lý do cậu ở đây mà, cậu Ward..."
"Là về điều ông viết trong mẩu tin nhắn để lại cho cháu ấy. Tại sao ông cho phép những người chết bước vào nhà ông vậy ạ?"
Một lần nữa vẻ tức giận thoáng qua gương mặt ông. "Những người chết ở đây là người nhà tôi. Là gia đình tôi đấy, cậu Ward à. Và đấy không phải chuyện tôi muốn trao đổi với cậu hay bất cứ ai khác, nên cậu sẽ phải ngăn cái trí tò mò của mình lại. Khi quay về với thầy Gregory, cậu đi mà hỏi thầy ấy. Thầy ấy có biết đôi chút, chắc chắn sẽ kể cho cậu nghe thôi. Nhưng tôi thì tôi không muốn nghe thêm bất cứ lời nào về chuyện này nữa. Cậu hiểu chưa? Đấy là chuyện tôi không muốn nói đến."
Tôi gật đầu và đi theo ông vào nhà. Có thể tôi ở đây là để đặt câu hỏi đấy, nhưng có nhận được câu trả lời hay không lại là chuyện khác!