Tôi bắt đầu nghĩ đến Chúa Trời.
Tôi muốn nói ý nghĩ có một Đấng Tối Cao tồn tại ở đâu đó len vào những suy nghĩ thầm kín của tôi. Không phải vì tôi muốn đấm vào mặt ông ấy, đánh vỡ mặt ông ấy, vì cái việc ông ấy sắp sửa gây ra cho tôi… đúng hơn là cho Jenny. Không, những suy nghĩ tôn giáo của tôi hoàn toàn ngược lại. Chẳng hạn như khi tôi thức dậy vào lúc sáng và có Jenny bên cạnh. Vẫn còn ở bên cạnh. Tôi hối tiếc, thậm chí lúng túng và phân vân, nhưng tôi mong có một ông Chúa Trời để tôi có thể cảm ơn ông ta. Xin cảm ơn Chúa Trời cho tôi thức dậy và được thấy Jenny.
Tôi hết sức cố gắng cư xử cho thật bình thường, vì vậy tôi để nàng sửa soạn bữa ăn sáng cùng những việc hằng ngày khác, vân vân.
- Anh đi gặp Stratton hôm nay à? - Jenny hỏi tôi trong khi tôi uống tách bột ngũ cốc Special K thứ hai.
- Ai hả em?
- Raymond Stratton, khóa 64, bạn thân nhất của anh, bạn cùng phòng của anh trước em.
- Ừ nhỉ. Hôm nay anh có hẹn đến chơi squash với anh ấy. Có lẽ anh sẽ hoãn.
- Kém quá.
- Em bảo sao, Jenny?
- Đừng có hoãn các buổi chơi squash đi. Em không muốn có một người chồng èo uột.
- Thôi được, - tôi nói. - Nhưng chúng mình sẽ đi ăn nhà hàng nhé.
- Vì cớ gì? - Nàng hỏi.
- Lại phải có “cớ” nữa? - Tôi hét lên, cố bắt chước những cơn giận giả vờ quen thuộc của tôi. - Anh không thể dẫn vợ anh đi ăn nhà hàng nếu anh muốn được ư?
- Cô nào đấy, anh Barrett? Tên cô ấy là gì? - Jenny hỏi.
- Em nói cái gì thế?
Nàng giải thích:
- Này anh, nếu anh cảm thấy anh buộc phải dẫn vợ anh đi ăn nhà hàng vào ngày thường thì đó là vì anh đã hôn bạ hôn bậy ở đâu rồi.
- Jenny, - tôi hét lên, lần này thực sự bị xúc phạm. - Anh không muốn có lối ăn nói ấy trong bữa sáng.
- Thế thì anh liệu lê xác về nhà cho bữa tối nhé. Rõ chưa?
- Rõ.
Tôi còn nói với ông Chúa Trời ấy, dù ông ấy là ai và ở đâu, rằng tôi hoàn toàn bằng lòng, sung sướng chấp nhận tình trạng cứ y nguyên như thế này. Thưa ông, tôi có bị đớn đau đến tột cùng cũng không sao, không sao hết nếu chỉ mình tôi biết và Jenny không hay biết gì. Ông có nghe lời tôi nói không, Đức Chúa Trời? Ông đòi giá nào tôi cũng xin chịu.
- Anh Oliver này.
- Dạ.
Ông Jonas đã cho gọi tôi đến phòng ông.
- Anh biết vụ Beck rồi chứ? - Ông hỏi tôi.
Cố nhiên tôi biết. Robert Beck, phóng viên nhiếp ảnh tạp chí Life đã bị cảnh sát Chicago đánh đập khi anh ta đang tìm cách chụp ảnh một cuộc biểu tình. Ông Jonas coi đây là một trong những vụ quan trọng nhất của hãng.
- Tôi biết bọn cảnh sát đã đánh đập anh ấy, - tôi thưa với ông Jonas bằng một giọng thư thái (ha!ha!)
- Tôi muốn anh nhận lấy vụ này, Oliver.
- Chính tôi?
- Anh có thể đem theo một tay trẻ nào đi cùng, - ông nói tiếp.
Một tay nào trẻ? Tôi chính là người ít tuổi nhất trong hãng. Dẫu vậy, tôi hiểu ý ông. Ý ông muốn bảo là Oliver, mặc dầu anh còn trẻ nhưng đã là một trong những người kỳ cựu của hãng, một người của chúng ta, Oliver ạ.
- Xin cảm ơn ông, - tôi thưa.
- Bao giờ anh có thể đi Chicago? - Ông lại hỏi.
Tôi đã quyết định không hở một lời nào với một ai hết, chỉ mình tôi chịu toàn bộ gánh nặng. Vì vậy tôi bịa ra những lý do nhăng nhít với ông già Jonas. Tôi cũng không nhớ chính xác tôi đã kể gì với ông ấy và tại sao tôi cảm thấy không thể rời khỏi New York trong lúc này, thưa ông. Và tôi mong ông thông cảm cho. Nhưng tôi biết ông đã thất vọng trước cách ứng xử của tôi đối với cái rõ ràng là một cử chỉ rất có ý nghĩa của ông. Ôi, thưa ông Jonas, giá mà ông biết lý do thực sự!
Một nghịch lý: Oliver Barrett IV rời nơi làm việc sớm hơn nhưng lại đi về nhà chậm hơn. Giải thích sao đây?
Tôi đã nhiễm thói quen dán mắt vào tủ kính các cửa hàng trên Đại lộ Năm, ngắm nhìn tất cả những thứ tuyệt vời, ngu ngốc và ngông cuồng lẽ ra tôi đã mua cho Jenny nếu như không buộc phải duy trì sự giả dối là mọi chuyện vẫn… bình thường.
Đúng thế, tôi sợ về nhà. Bởi vì bây giờ, mấy tuần sau ngày tôi biết sự thật, Jenny bắt đầu gầy đi. Chỉ gầy một chút thôi, chính nàng có lẽ cũng không nhận ra. Nhưng tôi vì đã biết nên nhận thấy.
Tôi còn ngắm nhìn tủ kính các hãng hàng không: Braxin, quần đảo Caribê, Haoai (“Quý vị hãy bỏ lại mọi ưu phiền lo lắng… hãy bay về nơi có ánh mặt trời!) vân vân. Đúng chiều hôm ấy, hãng TWA khuyến mại các chuyến bay đi châu Âu trong mùa thấp điểm: London cho những ai thích mua sắm, Paris cho những kẻ đang yêu…
- Còn học bổng của em thì sao? Và còn Paris nữa, nơi em chưa bao giờ đặt chân tới?
- Còn đám cưới chúng mình?
- Ai nói đến cưới xin ở đây nhỉ?
- Anh. Bây giờ anh nói đến chuyện ấy đấy.
- Anh định lấy em ư?
- Đúng thế.
- Vì lẽ gì?
Tôi là người có những bảo đảm tốt đến nỗi tôi đã có một tấm thẻ Diners Club. Chỉ cần ký tên vào dòng để trống là tôi trở thành người hãnh diện sở hữu hai tấm vé hạng nhất (hạng nhất nhé) bay đi Thành phố tình nhân.
Về đến nhà tôi thấy Jenny tái nhợt, song tôi hy vọng sáng kiến ngông cuồng của tôi sẽ đem lại chút hồng hào trên đôi má nàng. Tôi nói:
- Xin bà Barrett thử đoán xem có chuyện gì nào?
- Anh bị đuổi việc rồi chứ gì? - Người vợ lạc quan của tôi đáp.
- Không phải bị đuổi việc mà là bay lên mây xanh.
- Tôi giơ hai tấm vé. - Chúng ta bay, bay xa. Tối mai, ta bay đi Paris.
- Dớ dẩn, - nàng nói, nhưng với giọng nhẹ nhàng, không giả vờ hung hăng như mọi khi. Ở miệng nàng, những tiếng ấy nghe như những từ yêu thương. - Oliver, anh thật dớ dẩn.
- Xin em nói rõ “dớ dẩn” là thế nào.
- Ollie, - giọng nàng vẫn nhẹ nhàng, - chúng mình sẽ không làm như vậy.
- Làm gì, em?
-Em không thích Paris, em không cần gì Paris. Em chỉ cần có anh…
- Anh thì em đã có rồi, em yêu, - tôi ngắt lời nàng với vẻ vui đùa giả tạo.
- Và em cần thời gian nữa, - nàng nói tiếp, - điều mà anh không thể cho em.
Bây giờ tôi nhìn vào mắt nàng. Đôi mắt nàng đượm một vẻ buồn khôn tả. Buồn một cách riêng tôi hiểu. Đôi mắt ấy như nói rằng nàng rất ân hận, ân hận đối với tôi.
Chúng tôi cứ đứng như thế ôm lấy vai nhau, im lặng. Nếu một trong hai chúng tôi khóc, xin để cho cả hai cùng khóc. Nhưng tốt hơn là không khóc.
Sau đấy, Jenny kể lại với tôi nàng cảm thấy “người như phải gió thế nào ấy” nên nàng đã đến gặp lại bác sĩ Sheppard, không phải đến thăm bệnh mà để hỏi cho ra nhẽ. Để ông ấy bảo thẳng cho nàng biết nàng làm sao. Và ông ta đã bảo.
Tôi cảm thấy khá có lỗi vì đã không phải là người báo tin ấy cho nàng. Nàng hiểu cảm nghĩ của tôi và cố ý nói lân la vài câu vớ vẩn.
- Một gã ở trường Yale, Oliver ạ.
- Ai hả Jenny?
- Ackerman, tay bác sĩ huyết học ấy. Hắn học ở Yale từ đầu đến cuối, kể cả trường y.
- Thế ư? - Tôi nói, biết rằng nàng cố đem lại đôi nét bông lơn vào những điều bi thảm.
- Ít ra hắn cũng biết đọc biết viết chứ?
- Cái đó thì còn phải xem, - bà Oliver Barrett IV, tốt nghiệp Radcliffe khóa ’64, mỉm cười. - Nhưng hắn biết nói chuyện. Mà em thì muốn nói chuyện.
- Thế thì ta coi tay bác sĩ trường Yale ấy là “OK”.
- OK, - nàng nói.