Đi một ngày đàng, học một sàng khôn
25/11/2018
25/11/2018
Myanmar
Tôi vừa được mấy sàng khôn sau hai ngày đi công tác tại Mandalay, Myanmar.
Hai ngày mà tôi gặp rất nhiều bệnh nhân chỉ có trong y văn. Đối với nghề của tôi đấy là những “của quý” mà không bao giờ có thể mua được. Một bệnh nhân tĩnh mạch phổi phải lạc chỗ đơn độc ở lứa tuổi ngũ tuần vẫn làm nông nghiệp. Một cái ống động mạch to nhất tôi từng gặp đã ba lần bị từ chối mổ vì áp lực động mạch phổi quá cao. Vậy mà khi bít bằng dụng cụ lớn (oversize) mang từ Việt Nam sang thì kết quả lại tốt ngoài sức tưởng tượng. Rồi một bệnh nhân không triệu chứng với một chỗ phình to tướng ở tâm thất trái mà đến giờ tôi vẫn chưa biết là cái gì.
Bài học lớn nhất của tôi chính là tinh thần teamwork của Bệnh viện Mandalay. Sau hai ngày làm với quá nhiều ca can thiệp, chắc chắn tất cả đã mỏi mệt, vì làm quen như tôi mà cũng chùn hết cả chân. Hơn nữa là ngày thứ bảy trong dịp nghỉ lễ full moon nên khi đồng hồ báo 18 giờ và ca cuối cùng đã lên bàn chắc tất cả đều nghĩ đến một buổi tối thư giãn với bao kế hoạch vui vẻ. Tôi cũng vậy nên khi quyết định làm ca cuối tâm trạng tôi rất phấn chấn tự tin. Không may đấy là ca rất khó với hai dị tật (thông liên nhĩ và hẹp van động mạch phổi). Kết thúc dị tật thứ nhất rất nhanh với cỡ dù to nhất có trên thị trường (42mm). Thông thường tôi sẽ dừng lại để làm nốt sau đó vài ngày. Nhưng với tâm lý được đà làm tới và nghĩ chắc phải sáu tháng nữa tôi mới quay lại được nên biến chứng đã xảy ra, cái dù đã bị rơi trong tim khi tôi cố nong van động mạch phổi.
Trong cái rủi có cái may, tôi được chứng kiến tinh thần teamwork của cả một ê kíp. Mọi việc đều gạt hết sang một bên, tất cả vì sự an toàn của người bệnh. Từ giáo sư, trưởng phó khoa đến tất cả thành viên đều ở lại cho dù không phải nhiệm vụ của mình, những ánh mắt đồng cảm, những lời động viên và mọi hành động khẩn trương đã làm tôi cảm thấy hoàn toàn yên tâm. Chỉ sau một tiếng ca mổ hở đã hoàn thành và cho đến khi bệnh nhân an toàn, cứ mỗi tiếng tôi đều nhận được thông tin của bệnh nhân từ đích thân trưởng khoa thông báo.
Sự đồng lòng của một tập thể là một sức mạnh đặc biệt trong nghề của chúng tôi. Là bác sĩ hướng dẫn nhưng đây là bài học lớn nhất mà các y bác sĩ ở Mandalay đã dạy cho tôi.
Trở về khách sạn sau một ngày “cày” hết công suất với toàn ca hiểm hóc, tôi định lăn ra giường dang chân, dang tay để tận hưởng vài phút hiếm hoi trước khi lại phải ra đường ăn chiêu đãi. Nhưng đập vào mắt tôi là một chú voi xinh xắn làm bằng “khăn tắm” đang ngoe nguẩy cái vòi chào khách. Một sự sắp đặt hết sức đơn giản nhưng vẫn làm cho những vị khách “ngủ mòn” khách sạn như tôi thật ấn tượng.
Lần nào đến Mandalay công tác tôi cũng luôn đề nghị được ngủ nghỉ tại khách sạn Sedona. Dù có tuổi đời trên dưới bốn mươi năm nhưng đây không phải là một khách sạn cổ, và tất nhiên cũng không hiện đại gì. Tôi chọn ở đây bởi sự phục vụ hết sức chuyên nghiệp nhưng cũng rất tình cảm của các nhân viên. Từ việc nhỏ nhặt nhất là những nụ cười cho đến cú điện thoại chúc buổi tối tốt lành luôn làm bạn có cảm giác được tôn trọng, không phải vì bạn bỏ ra thật nhiều tiền mà chỉ đơn giản vì bạn là khách hàng của chúng tôi.
Tôi không tìm thấy triết lý kinh doanh ấy ở đại bộ phận các cơ sở dịch vụ, đặc biệt ở miền Bắc. Các sĩ phu Bắc Hà rất giỏi trong mọi việc nên chắc chẳng thấy mình cần “thấp” xuống một tí, nhẹ nhàng đi một tẹo thì khách hàng của mình sẽ vui biết bao nhiêu.
Dù áp lực với cuộc sống mưu sinh, với xã hội đảo điên, đầy mâu thuẫn nhưng tôi mong lắm những cộng sự của tôi hãy nhịn “cái tôi” của mình lại, mỉm cười với nhau, mỉm cười với khách hàng. Sự chuyên nghiệp mà ta hằng mong mỏi chắc chẳng ở quá xa.
Ấn Độ
Đã rất nhiều lần tôi muốn viết về Ấn Độ. Một đất nước huyền bí như lời GS. Spalding đã viết trong cuốn Hành trình về phương Đông: “Ma quỷ là có thật nhưng chúng tồn tại hoàn toàn khác như chúng ta thường tưởng tượng.” Mặc dù là một tiểu thuyết giả tưởng vì tác giả cũng chưa một lần đến Ấn, nhưng suy nghĩ đấy là của đại bộ phận thế giới nghĩ về đất nước rộng lớn với nhiều ngôn ngữ và văn hóa hết sức đa dạng này.
Ấn Độ trong con mắt những người Việt Nam ở lứa tuổi chúng tôi và già hơn luôn là một hình ảnh thật đẹp như trong những bộ phim mà thường được chiếu trong những năm 80-90 thế kỷ trước. Tất cả những hình ảnh ấy thường bị rơi tõm khi bạn đặt chân đến Ấn Độ. Ngay khi cửa máy bay mở ra bạn đã thấy một nước Ấn hoàn toàn khác. Đông đúc, ồn ào, bẩn thỉu và nghèo. Một xã hội mà con người không ngừng đi, chạy, nói và ăn. Lần đầu tiên tôi đặt chân lên Ấn Độ là năm 2006, ấn tượng lớn nhất của tôi sau chuyến đi không phải là những tòa nhà uy nghi hay đền Taj Mahal tráng lệ, mà là những ánh mắt thật to tròn nhìn chúng tôi không chớp mắt, là những bà mẹ tắm cho con ở những vũng nước mưa dưới chân gầm cầu cao tốc. Tôi tự hứa với mình là sẽ phải quay trở lại đây, làm gì cho những đôi mắt ấy.
Và trong vòng mười năm qua, tôi đã đến Ấn Độ hơn hai mươi lần với hơn mười thành phố, hàng chục bệnh viện khác nhau và đã được chứng kiến sự thay đổi của một đất nước hơn một tỷ dân. Đã có những thay đổi tích cực như đường sá, sân bay, khách sạn; cũng có những thay đổi khiến tôi rất hạnh phúc như những bác sĩ tôi hướng dẫn đã trở thành các chuyên gia, điển hình là bác sĩ Das ở Bangalore, bác sĩ Chopra ở Nashik với số lượng can thiệp nhiều nhất Ấn Độ, tất nhiên là hơn số case của tôi nhiều lần.

Bệnh nhân nhí ở Ấn Độ của tôi năm 2012.
Chuyến đi đến Ấn Độ mà tôi nhớ nhất là chuyến mà tôi đã làm tới 42 ca can thiệp tim cho trẻ em chỉ trong vòng một ngày. Như vậy, thời gian để tôi thực hiện mỗi ca là chưa đầy ba mươi phút. Đó là lần đầu tiên mà tôi nhận số lượng ca can thiệp nhiều đến như vậy. Tôi nhớ khi tôi làm xong 15 ca thì các bác sĩ Ấn Độ mang vào một danh sách dài, nói có thêm các cháu mới đến. Làm thêm xong danh sách đó, bác sĩ Ấn Độ lại mang thêm một danh sách mới nữa, cứ thế, cứ thế. Tôi từ chối nhưng bác sĩ Ấn Độ vẫn rất tha thiết nhờ, rồi bố mẹ các cháu lại bế con vào. Và thế là tôi lại làm tiếp.
Thực ra, ở trong hoàn cảnh đó thì không một bác sĩ nào có thể từ chối nổi. Điều may mắn hôm đó là cả 42 ca can thiệp đều đã thành công.
Kazakhstan
Từng đi làm ở nhiều nơi trên thế giới nhưng tôi thực sự ngạc nhiên khi đến Astana, Kazakhstan. Bệnh viện Quốc gia về Nghiên cứu phẫu thuật tim (National Research Cardiac Surgery Center) thật hoành tráng với những trang thiết bị và cơ sở vật chất mà nằm mơ tôi cũng không thấy. Mới thành lập được sáu năm nhưng các bạn đã ghép 52 quả tim và 5 lá phổi với tỷ lệ tử vong sau ba đến năm năm là... 2%. Các nhân viên y tế thật tuyệt vời với tinh thần teamwork ăn sâu vào máu. Ở vị trí Proctor, tôi có nhiệm vụ hướng dẫn các bạn những kỹ thuật mới nhưng thú thật tôi nhận được nhiều hơn là cho đi. Có những trường hợp ngay trên “sân nhà” tôi cũng sẽ rất lưỡng lự khi quyết định làm vì bao áp lực đổ lên đầu, vì thiếu thốn trang thiết bị, vì backup ngoại khoa... Vậy nhưng trên “sân khách” này mọi chuyện cứ nhẹ nhàng diễn ra đúng như những gì cần phải vậy để chữa một mạng người. Chẳng phải lo bao nhiêu tiền bệnh nhân sẽ phải trả khi mình dùng một dụng cụ mới (nhà nước sẽ chi trả toàn bộ), không lo gia đình kiện cáo nếu xảy ra biến chứng (niềm tin rất lớn vào hệ thống y tế) cũng không lo phải đơn độc chiến đấu với căn bệnh quái ác (cả một lực lượng hỗ trợ hùng hậu đứng bên bạn).
Đã nhiều người phê phán chỉ trích nền y học Việt Nam, trong đó có chính tôi, nhưng phê thì dễ, thay đổi được thật khó biết nhường nào. Một nền y học mà sự phát triển như quả chôm chôm đâu cũng là mũi nhọn. Bệnh viện nào cũng đua nhau làm kỹ thuật mới, nhiều khi chỉ mời chuyên gia về làm một, hai ca để đưa vào thành tích rồi đóng cửa để đấy. Chẳng ai quan tâm đến theo dõi kết quả lâu dài của bệnh nhân (ví như có ai tự hỏi những ca ghép tim ở Việt Nam sau năm năm còn sống được mấy ca). Và đặc biệt các nghị định, chế độ đang dần bóp chết các bệnh viện chuyên ngành, biến chúng thành các cỗ máy kiếm tiền.
Theo tôi việc cần nhất lúc này là nâng cao chất lượng các bác sĩ đang làm việc. Quy hoạch lại các bệnh viện chuyên ngành, nhắm đầu tư mũi nhọn thực sự, tránh lãng phí đầu tư và chỉ định điều trị kỹ thuật cao tràn lan.
Đặc biệt là chế độ bảo hiểm y tế và giá thuốc, trang thiết bị cần phải thay đổi phù hợp với sự phát triển của xã hội. Chỉ cần một chính sách đúng sẽ tiết kiệm khối lượng tiền khổng lồ để phục vụ mục đích phát triển bền vững. Ví như không bắt buộc các bệnh mạn tính đến bệnh viện hằng tháng để lĩnh thuốc bảo hiểm, chế độ áp giá trần cho các thuốc, vật tư tiêu hao sát với giá của các nước trong khu vực...
Còn nhiều việc phải làm, phải thay đổi. Rất khó nhưng không làm thì sẽ càng khó hơn.