• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Câu chuyện từ trái tim
  3. Trang 5

Hành trình từ trái tim

24/12/2020

Năm 1989, tôi thi đỗ vào Đại học Y Hà Nội và bắt đầu quãng đời sinh viên vừa đói ăn, vừa đói ngủ.

Học y rất áp lực vì chương trình nặng, các thầy cô lại vô cùng nghiêm khắc. Hồi đó, cứ hỏi trường đại học nào nhiều sinh viên đúp nhất thì 100% câu trả lời sẽ là: “Y Hà Nội”.

Tôi bước vào giảng đường với tâm thế sợ đúp nhưng tôi thích học lắm vì được biết nhiều thứ mới lạ. Bây giờ chỉ cần “hỏi Google” vài phút sẽ rõ ngay thế nào là vòng tuần hoàn sinh lý nhưng vào những năm 1995, chuyện đó chỉ sinh viên ngồi trên ghế trường Y mới biết. Chiều hôm trước học lý thuyết thấy bao điều kỳ lạ trên giảng đường, sáng hôm sau đi lâm sàng chúng hiện lên trước mắt. Sáng đi nghe tim cho bệnh nhân thấy tiếng tim đập rất lạ, chiều về thầy hướng dẫn nguyên lý tiếng thổi tâm thu.

Thời của chúng tôi muốn đọc sách tham khảo chẳng phải chuyện dễ, nhiều khi tích được ít tiền cũng không biết mua ở đâu. Tôi vẫn nhớ hồi ấy tôi mê điện tâm đồ lắm nhưng không có sách tham khảo, phải nhờ cô lao công mở khóa phòng thầy cho vào đọc ké đến khi nào thầy tới thì “chuồn”. Cả tuần mới đọc được hết một cuốn nhưng những kiến thức ấy tôi không thể nào quên.

Tôi không học theo kiểu học thuộc lòng mà học theo ý chính là sở trường của tôi. Thành ra các bài kiểm tra và bài thi tôi không bao giờ được điểm 10 cả, nhưng cũng chưa một lần trượt môn, lúc nào cũng tầm 7, 8 điểm vì mình trình bày đủ ý. Sau này đi làm giáo viên chấm bài thi mới hiểu là, những cậu làm bài theo ý là những cậu khôn nhất, vì không thể nào trượt được.

Tuy vậy, thời sinh viên tôi vẫn có những lúc muốn kiếm tiền và tôi cũng kiếm tiền từ rất sớm. Không như bây giờ, hồi ấy kiếm tiền dễ lắm, tôi chỉ cần làm những việc đơn giản thôi là cũng ra được tiền như là đi buôn thuốc diệt cỏ, diệt sâu bọ... trên đường Trường Chinh. Tôi cứ mua chỗ này rồi bán chỗ kia lấy tiền chênh lệch làm lãi. Nhưng việc kinh doanh này lại bị thua lỗ nặng, chứ không thì có khi bây giờ tôi đã trở thành doanh nhân rồi. Việc giúp tôi kiếm được nhiều tiền nhất là đi làm cho công ty bạn của cậu tôi hồi năm bốn đại học. Tôi được thuê làm bảo vệ trông kho hàng nhập khẩu. Có một hôm tôi không thể trông được đành nhờ cậu bạn thân đến trông hộ. Trong kho hàng có điện thoại bàn thế là cậu ấy như vớ được vàng, bèn nhấc máy gọi điện thoại buôn chuyện với cô người yêu, bởi thời ấy làm gì đã có điện thoại di động. Có thể là do chuyện trò tâm tình cả đêm, có thể là do quên gác máy mà cuối tháng ấy, hóa đơn điện thoại lên đến cả tiền triệu, vượt quá số lương của tôi. Kết cục, tôi bị đuổi việc.

Thế hệ chúng tôi vào đại học khi đất nước vừa qua thời bao cấp, kinh tế khó khăn, đồng tiền mất giá, ai cũng nghèo, cả lớp cắm đầu vào học vì mục tiêu học bổng, cuối tháng xôn xao hỏi nhau: “Mày được bao nhiêu phần trăm?” Học giỏi sẽ được học bổng 100%, kém hơn chút được 75%, rồi 50%, 25%. Nghe có vẻ oai chứ thực ra học bổng 100% được có 21 nghìn, đi ăn căng-tin ba hôm là hết vì phở 5 nghìn một bát. Đến năm thứ năm, các bạn nữ được thêm một phần học bổng ưu tiên, chúng tôi gọi đó là tiền “đền bù tuổi thanh xuân” vì trong khi sinh viên các trường khác đều đã tốt nghiệp, có việc làm nuôi thân thì chúng tôi vẫn phải học và thi hết kỳ này đến kỳ khác.

Ăn đã thế, ở còn khổ hơn, cả ký túc xá chung nhau một bể nước. Tôi vẫn nhớ cảnh trời nắng chang chang hay mưa tầm tã, cả hội đứng đội nón, xếp hàng chờ tắm giặt hoặc xách nước về nấu ăn. Học để thành bác sĩ chữa bệnh cho người khác nhưng không ít đứa bị ghẻ vì thiếu nước tắm.

Học xong đại học, như bao sinh viên khác, tôi đăng ký thi bác sĩ nội trú. Không giống như bây giờ, thời của tôi số lượng bác sĩ nội trú rất ít, cả khóa của tôi chỉ có khoảng ba mươi người. Thi nội trú lúc đó là thi theo chuyên ngành, tức là chúng tôi đăng ký chuyên ngành trước, và sẽ thi theo đề của chuyên ngành đó luôn (bây giờ thì thi chung, sau đó căn cứ vào kết quả điểm thi mới chọn chuyên ngành).

Tôi chọn ngành tim mạch, bởi tim mạch là một ngành rất logic.

Không có một triệu chứng nào của bệnh về tim mạch mà không giải thích được vì nó liên quan đến huyết động. Bạn hãy tưởng tượng, vòng tuần hoàn nó đẩy như cái bơm mà ở đây quả tim là cái bơm và mạch máu là các đường dẫn nước. Mọi thứ hoạt động và tuân theo nguyên lý về áp lực và động lực của vật lý. Ví dụ như là tại sao máu nó chảy từ chỗ này sang chỗ kia, hay là chảy ngược lại, tại sao có bệnh nhân lại tím có bệnh nhân lại không... tất cả đều có lý do hết, đều cắt nghĩa được. Tôi rất thích, bởi khi mình cắt nghĩa được, mình học thuộc rất nhanh. Cho đến tận bây giờ, tôi vẫn nhớ nguyên lý: nghe tiếng tim thổi tâm thu 2/6, 3/6 gợi ý gì, rồi dấu hiệu ngón tay dùi trống do đâu... Chính vì thế mà trong những năm đầu học đại học, tôi đã nắm vững những môn học liên quan đến tim mạch.

Tôi còn nhớ lúc tôi vẫn còn là sinh viên, có lần cậu bạn thân của tôi bị ngã xe sau khi chở người yêu đi sinh nhật về. Tai nạn rất nặng, đứt dây chằng khớp gối rồi dây thần kinh. Cậu bạn nhanh chóng được đưa đi cấp cứu. Tối hôm ấy tôi trực thì thấy cậu ấy khó thở, nhịp tim đập mạnh lên đến khoảng 150-160 lần một phút. Bác sĩ trực hôm ấy là một bác sĩ có nhiều kinh nghiệm, nhưng lại là bác sĩ mổ tiêu hóa chứ không phải mổ tim. Bác sĩ đến xem và cho cậu ấy uống digoxin. Về nguyên lý, digoxin đúng là thuốc trợ tim, tăng bóp cơ tim và làm chậm nhịp tim lại, nghe thì rất tốt nhưng nó lại chống chỉ định là: Nếu quả tim đấy nó bị suy hoặc quả tim bị “bọc” trong nước (ép tim), khi tim “bơi” trong nước như vậy mà càng cho digoxin vào thì càng nguy hiểm hơn, vì tim lúc đó không giãn ra được mà lại cứ bắt nó bóp lại. Tôi nghe được tiếng tim của cậu ấy rất mờ, không đập cạnh lồng ngực nữa. Tôi liền bảo với bác sĩ là cẩn thận, có khi cậu ấy bị ép tim. Vị bác sĩ ấy không nghe, vì ai lại đi nghe một ông sinh viên Y6. Lúc đấy tầm 1, 2 giờ sáng, chẳng biết làm thế nào nữa, tôi chạy vội đến nhà giáo sư Tôn Thất Bách để gọi ông. Thầy Bách đến viện, dẫn lưu ra được một lít máu trong tim cậu ấy.

Sau chuyện này, tôi lại hiểu mình hơn một chút, tôi nhận ra mình giỏi về tim mạch. Chú ruột tôi, đồng thời cũng là thầy giáo của tôi, không khuyến khích tôi theo chuyên ngành tim mạch, chú bảo đây là một ngành rất nguy hiểm, chỉ cần sai sót một chút thôi là sẽ gây ra rất nhiều hậu quả khôn lường.

Nhưng sau tất cả, tôi vẫn quyết định chọn tim mạch khi thi bác sĩ nội trú, năm 1995.

Tôi học nội trú ba năm ở Đại học Y Hà Nội. Đến năm 1998, tôi đi học chuyên sâu về tim mạch người lớn theo học bổng du học của Pháp. Nhưng tình cờ sau đó, tôi biết được một bệnh viện chữa tim mạch cho trẻ em nên đã chọn học tại đó theo chuyên ngành can thiệp tim mạch cho trẻ em. Từ nhỏ, tôi đã thích trẻ con và tự thấy mình có năng khiếu chơi với bọn chúng. Đến cưa bạn nào mà nhà có em trai em gái nhỏ tuổi là tôi lấy lòng được hết. Bọn trẻ con thường thích tôi trước khi chị nó thích. Tôi đùa chút thôi. Bản chất thực của việc lựa chọn làm bác sĩ tim mạch cho trẻ em là một câu chuyện cũng hy hữu.

Sau khi tôi đi học tim mạch người lớn về can thiệp động mạch vành ở Pháp (1998-1999) thì ở Việt Nam lúc đó có một bác sĩ là bác sĩ Phạm Mạnh Hùng (bây giờ là Viện trưởng Viện Tim mạch) học ở Hàn Quốc về, và một số bác sĩ khác cũng học ở Pháp về trước tôi, như vậy là có nhiều người cùng làm. Tôi nghĩ nếu có hơn ba người cùng làm một thứ thì môi trường “cạnh tranh” cao quá, thế là tôi tách ra làm đường riêng, chọn ngành can thiệp tim bẩm sinh cho trẻ em.

1

Nếu làm lại, tôi vẫn chọn nghề bác sĩ mà chẳng cắt nghĩa nổi vì sao.

Điều sung sướng nhất của bác sĩ tim trẻ em là chữa bệnh xong, các cháu khỏi bệnh, gia đình vui mừng, mình hạnh phúc khi được ghi vào bệnh án của các cháu dòng chữ ‘khỏi bệnh hoàn toàn’. Chính niềm hạnh phúc đó đã giúp cho tôi không ngừng cố gắng để theo đuổi con đường này.

Tốt nghiệp bác sĩ chuyên sâu can thiệp tim bẩm sinh ở Pháp, tôi về nước với hy vọng được áp dụng những kiến thức can thiệp tim bẩm sinh vào thực tế. Song quy trình cứng nhắc, đòi hỏi những trang thiết bị đắt đỏ của Pháp như siêu âm qua thực quản, đặt nội khí quản... không thể áp dụng tại Việt Nam thời điểm cuối thập niên 90 của thế kỷ trước. Tôi tiếp tục qua Mỹ tìm hướng đi hợp với hoàn cảnh cụ thể của nước mình. Năm 2000, tôi về nước và học thêm được phương pháp can thiệp tim bẩm sinh đơn giản hơn để áp dụng. Nhưng khó khăn vẫn chưa hết vì dụng cụ y tế không có, chi phí can thiệp tim bẩm sinh đắt đỏ so với phẫu thuật kinh điển.

Để can thiệp tim, bác sĩ sẽ phải dùng một dụng cụ (gọi là “dù”) của Mỹ, giá khoảng 6.000$, đắt gấp ba lần chi phí thực hiện một ca phẫu thuật tim mở thông thường. Tôi hiểu với giá tiền như vậy sẽ rất khó để thuyết phục bệnh nhân áp dụng phương pháp mới. Nhưng nếu không can thiệp, bác sĩ không thể nâng cao tay nghề, bệnh nhân phải chịu thiệt thòi khi mổ mở. Lúc đó, tôi đánh liều hỏi xin thầy giáo hơn mười chiếc dù để can thiệp miễn phí cho bệnh nhân. Nếu thành công, tôi sẽ có cơ sở đàm phán về chi phí với nhà cung cấp vật tư y tế ở Mỹ.

Ca can thiệp đầu tiên vô cùng căng thẳng vì bao con mắt đồng nghiệp ở bệnh viện nhìn vào tôi, họ mong chờ có, hoài nghi có. Bản thân tôi không cho phép mình thất bại. Bệnh nhân đầu tiên sinh năm 1982, khi đó đang là sinh viên năm nhất đại học. Tôi đón em vào viện trước một tuần để kiểm tra sức khỏe và đưa ra phương án điều trị. Bác sĩ can thiệp tim dùng dụng cụ đủ kích thước, đo ni đóng giày với từng người bệnh nhưng tôi thì không. Mười chiếc dù xin được từ Mỹ chỉ có vài cỡ khác nhau nên tôi phải đo đạc, cầm lên đặt xuống xem có phù hợp với bệnh nhân không. Tôi tự nhủ: “Hoặc là thành công, hoặc không bao giờ làm nữa, nếu đặt xuống mà chiếc dù gãy cánh tức là dự án sụp đổ.” Giây phút tôi nhìn thấy dụng cụ đã nằm đúng vị trí chứng tỏ ca can thiệp thành công, tim tôi như ngừng một nhịp. Thở phào nhẹ nhõm, tôi bước ra khỏi phòng can thiệp mới biết hai tiếng đã trôi qua. Tôi nghĩ đó là hai giờ đồng hồ quan trọng nhất cuộc đời mình vì sau đó, đã có hàng trăm chiếc dù mỗi năm được thả vào trái tim khiếm khuyết của người bệnh.

Tôi mạnh dạn đề nghị nhà sản xuất dụng cụ ở Mỹ giảm giá dù xuống 2.000$ - bằng một ca mổ tim mở và đảm bảo mỗi năm có hai trăm bệnh nhân Việt được can thiệp tim bẩm sinh. Khi nhà sản xuất đồng ý giảm giá cho bệnh nhân Việt Nam cũng là lúc con đường mới mở ra với tôi và các đồng nghiệp.

Tôi đã có lần lên báo với tiêu đề giật tít “Người phù thủy chữa lỗi những nhịp tim”. Tôi thật sự rất không thích cái danh hiệu người ta gán cho mình và đã nhiều lần yêu cầu các báo gỡ bài. Là một trong những chuyên gia đầu tiên về can thiệp tim bẩm sinh cho trẻ em tại Việt Nam, điều khiến tôi tự hào nhất đó là: đến nay, Việt Nam đã là nước đứng đầu khu vực Đông Nam Á, xếp hạng cao ở châu Á về can thiệp tim bẩm sinh. Hầu như tất cả các nước trong khu vực đều phải học tập mình. Không phải chỉ có mình tôi, mà các lớp đàn em sau tôi cũng trở nên rất xuất sắc, các bác sĩ sau này cũng trở thành những ngôi sao trong làng can thiệp tim mạch trên thế giới.

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 4
  • 5
  • 6
  • More pages
  • 74
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 4
  • 5
  • 6
  • More pages
  • 74
  • Sau