Chết là một vấn đề mà từ xưa đến nay con người chúng ta thường kiêng kỵ không muốn nhắc đến. Nhưng với sự tiến bộ của thời đại ngày nay, môn “sinh tử học” đã trở thành một đề tài được khắp nơi nghiên cứu, thảo luận sôi nổi. Thật ra, vấn đề lớn nhất của cuộc đời con người trên thế gian, có lẽ không ngoài hai vấn đề “sinh” và “tử”.
Sống thì cần chỗ ở, chết thì cần chỗ để nằm xuống. Có người bôn ba vì sự sống, có người vì cái chết mà lo âu. Phật học chính là sinh tử học. Thí dụ như Bồ tát Quán Thế Âm cứu khổ cứu nạn chính là để giải quyết vấn đề về sự sống của bạn; Phật A Di Đà tiếp dẫn vãng sinh là để giải quyết vấn đề chết của bạn. Sau khi qua đời, con người trải qua giai đoạn thân trung ấm, khi thay đổi sang hình thái thân khác rồi thì không còn nhớ gì đến kiếp trước của mình. Do đó, từ xưa đến nay, phần lớn chúng ta hoàn toàn mơ hồ về vấn đề sinh tử, khiến đây trở thành vấn đề nan giải nhất trong cuộc đời.
Có sự sống chắc chắn sẽ đi đến cái chết, có sinh tất có diệt, đây là quy luật bất biến của vũ trụ. Sau khi chết đi vẫn còn có tái sinh, sinh sinh tử tử, tử tử sinh sinh như vòng tròn đồng hồ, không có khởi đầu cũng không có kết thúc. Sinh tử chỉ là một vòng tuần hoàn mà thôi, giống như việc trồng dưa thì được dưa, trồng đậu thì được đậu. Khi bạn gieo trồng hạt giống xuống đất không phải là bắt đầu, mà thu hoạch cũng không phải là kết thúc. Trong bắt đầu đã ẩn chứa kết thúc, trong kết thúc đã hàm chứa bắt đầu.
Trong Phật giáo có rất nhiều vị cao tăng thạc đức có quan điểm rất nhẹ nhàng, tự tại về cái chết, sinh ra một cách vui vẻ, và chết đi cũng vui vẻ. Bởi vì sống chết, chết sống có bao giờ ngừng đâu!
Nhìn lại lịch sử Phật giáo, một số vị thiền sư có cái chết rất tịch tĩnh, an nhiên: Có người thì chết khi đang cuốc đất ngoài vườn; có người thì chết khi đang lạy Phật; có người thổi tiêu thổi sáo, buông thuyền lờ lững mà ra đi; có người đi thăm thú cáo biệt bạn bè rồi mới từ biệt cõi đời. Có câu: “Đến là vì chúng sinh, đi cũng vì chúng sinh”, chuyện sống chết không cần quan tâm làm gì, giống như quần áo rách rồi thì nên thay bộ mới, nhà cửa hư hỏng thì xây căn mới, cả chiếc xe ô tô cũ rồi thì cũng cần bỏ đi và thay chiếc mới. Huống hồ thân thể già cỗi của con người, làm sao không thay đổi một thân thể mới chứ?
Fransois Rabelais - nhân vật đại biểu cho nền văn nghệ phục hưng nước Pháp từng nói: “Vở hài kịch đã diễn xong, đã đến lúc hạ màn rồi!” Ông đối diện với cái chết một cách thong dong tự tại, hoàn toàn không luyến tiếc gì. Lúc sắp chết, triết gia Jean Jacques Rousseau còn an ủi vợ: “Đừng đau lòng, em hãy nhìn xem! Bên kia là bầu trời sáng rỡ, đó chính là nơi mà anh sẽ đến đấy!” Đúng là minh chứng mẫu mực cho một cuộc đời tự tại.
Cái chết không đáng sợ, sau khi chết đi giống như bạn đang tham dự một cuộc di dân vậy, bạn đi đến một đất nước khác, tập làm quen với lối sống mới. Chỉ cần bạn có công đức, thiện căn, thì việc gì phải sợ hãi việc không sống được chứ?
Trong xã hội hiện nay xuất hiện cụm từ: “Chết an lạc”. Thật ra thì “chết an lạc” vẫn hay hơn nhiều so với “sống đau khổ”! Người có cuộc sống an lạc, đương nhiên là họ sẽ sợ sau khi chết đi sẽ đau khổ. Nhưng nếu như “sống và chết như nhau” thì tại sao phải tham sống sợ chết chứ?
Tịnh độ tông Phật giáo gọi chết là “vãng sinh”, đã là vãng sinh thì cũng giống như đi du lịch nước ngoài. Chết mà như thế chẳng phải là điều đáng vui hay sao? Cho nên, chết chỉ là bước đệm của một giai đoạn chuyển tiếp, là phó thác sự sống cho một thân thể khác. Do đó, chết không có gì đáng sợ. Khi đối diện với cái chết, ta nên thuận theo tự nhiên, sống chết thong dong nào quái ngại!