Lần giở sách, truyện ký về những vị cao tăng hay các văn hiến về lịch sử Phật giáo, chúng ta thường thấy danh hiệu quốc sư. Đó là danh hiệu cao quý mà các vị hoàng đế phong cho những vị cao tăng có tài đức kiêm toàn. Từ quốc sư vốn có nhiều hàm nghĩa, hoặc là một loại quan chức, như chức tế tửu quốc tử; có lúc chỉ quân đội của quốc gia; hoặc là cách gọi khác của quan thái sư; hoặc chỉ việc phong thưởng là bậc thầy mẫu mực của một nước. Do có nghĩa đặc biệt như thế nên được phong làm quốc sư là một vinh dự rất cao quý.
Chế độ nhà vua phong tăng lữ làm quốc sư phổ biến từ rất sớm ở Ấn Độ cổ đại. Ví dụ như Ni Kiền Tử, một người tin thờ pháp Bà la môn, ông học thông Tam tạng, nắm vững các môn học của Ngũ minh, cả nước quy y, cho nên ông được quốc vương phong làm quốc sư. Kinh Chuyển luân vương trong kinh Trung A Hàm cũng có ghi chép liên quan đến quốc sư Bà la môn. Ha Lê Bạt Ma, tác giả của Thành thực luận, một luận thư Đại thừa nổi tiếng, nhân nhận lệnh của quốc vương nước Ma Kiệt Đà đã đánh bại luận thuyết của luận sư ngoại đạo mà được tôn làm quốc sư. Còn nữa, thầy của Huyền Trang khi lưu học ở Ấn Độ được phong tặng là luận sư Thắng Quân, người tinh thông các môn học như Vệ đà, thiên văn, địa lý, y học, thuật số… được người đời kính trọng. Các vị quốc vương như Mãn Trụ Vương, Giới Nhật Vương nước Ma Kiệt Đà đều tôn ông làm quốc sư. Tại vùng đất Tây Vực rộng lớn thời cổ đại cũng rất thịnh hành việc phong quốc sư, như Cưu Ma La Viêm, thân phụ của Cưu Ma La Thập, bỏ chức tể tướng xuất gia, vượt núi Thông Lĩnh qua phương đông, quốc vương Quy Tư kính mộ đức hạnh của ngài, đích thân ra khỏi kinh thành nghinh đón, rồi phong làm quốc sư. Lại như Tiền Tần Kiến Nguyên năm thứ mười tám (382), Xa Sư Tiền Bộ Vương Di Đệ ở Tây Vực đi thăm Trường An, quốc sư Cưu Ma Bạt Đề cũng đi theo đã tiến cống đại phẩm kinh Bát Nhã bằng ngôn ngữ của người Hồ. Những việc như vậy rất nhiều.
Ngoài ra, những cao tăng xứ Hán cũng được các nước Tây Vực tôn làm quốc sư như Pháp Viện người Lũng Tây do thông hiểu kinh luận, giỏi thuật số, thông phép quyền biến, được quốc quân Tây Vực Nhu Nhiên (cũng gọi là Nhân Nhân hay Nhu Nhu) tôn làm quốc sư, được ăn lộc ba nghìn hộ, rất đỗi tôn quý. Tuy nhiên, danh xưng quốc sư của xứ Hán cũng đã có từ xưa, ban đầu vốn không phải dùng để phong cho tăng nhân, ví như Vương Mãng phong Lưu Hâm làm quốc sư, tức là thầy giáo của thái tử mà thôi.
Hoàng đế Trung Quốc trực tiếp phong tặng tôn hiệu quốc sư cho tăng nhân bắt đầu từ đại sư Pháp Thường vào thời Bắc Tề (550-577). Theo sách Phật Tổ thống kỷ của Chí Bàn ghi chép, năm Thiên Bảo nguyên niên (550), Văn Tuyên Đế thời Bắc Tề ban chiếu mời cao tăng Pháp Thường vào cung giảng thuyết kinh Niết bàn, nhà vua rất vui, ca ngợi đức hạnh của cao tăng, và tôn ông làm quốc sư. Đồng thời bổ nhiệm Pháp Thường làm đại thống (tương đương như chức tăng cang) quản lý các vụ việc tăng ni trong thiên hạ, và cũng phong làm quốc sư, tôn thờ như Phật. Pháp Thượng (495-580), người Triều Ca (huyện Kỳ, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc), chuyên tâm học đạo, thần khí thoáng đạt. Ông đảm nhiệm chức Chiêu Huyền tăng thống trong hai triều Ngụy, Tề; chủ quản vụ việc tăng ni trải gần bốn mươi năm. Nhưng nếu căn cứ vào quyển ba sách Biện chính luận của Pháp Lâm đời Đường thì Ngụy Văn Đế Nguyên Bảo Cự “lại xây chùa Đại Phúc Điền, cúng dường quốc sư Thực Thiền sư”. Giả sử những ghi chép trên là đáng tin thì thực tế vào những năm triều Đại Thống Tây Ngụy (535-551), Trung Quốc đã bắt đầu có ban cấp danh hiệu quốc sư cho tăng nhân. Điều này cùng với những gì Chí Bàn nói trong quyển 43 sách Phật Tổ thống kỷ là khớp nhau, ông viết: “Từ xưa quân vương quý trọng đức hạnh của các vị sa môn, ắt phải suy tôn địa vị của họ và có một danh xưng khác dành cho họ, gọi là tăng lục, tăng thống, pháp sư, quốc sư. Vào triều, trước quốc vương không xưng thần, lên điện ban cho chỗ ngồi cao, như vậy là rất thích hợp”.
Nếu chúng ta đi ngược trở về các triều đại trước, dù chưa có danh xưng quốc sư, nhưng thực sự họ đã được đãi ngộ như quốc sư. Ví dụ sự tôn kính của Trở Cừ Mông Tốn thời Bắc Lương đối với Đàm Vô Sấm; của Thạch Lặc, Thạch Hổ thời Hậu Triệu đối với Phật Đồ Trừng; của Phù Kiên thời Tiền Tần đối với Đạo An; của Diêu Hưng thời Hậu Tần đối với Cưu Ma La Thập… tất cả đều ban lễ đãi ngộ theo cấp quốc sư. Ngụy Văn Thành Đế từng lấy lễ quốc sư đãi ngộ sa môn tăng thống Đàm Diệu, còn Hiếu Văn Đế Bắc Ngụy từng trực tiếp xưng hô giảng sư Thành thực luận, Đạo Đăng là “Thầy của trẫm”… Như vậy, có thể nói những vị sa môn thời bấy giờ rất được trọng vọng.
Thời Đông Tấn Nam Bắc Triều, Trung Quốc ở trong tình trạng phân chia nam bắc để cai trị. Tầng lớp thống trị phong kiến cũng do từ nhu cầu lợi ích cá nhân, họ lợi dụng Phật giáo xem là thứ linh đan diệu dược để duy trì sự trị an lâu dài cho xã hội. Do đó, đối với những vị cao tăng đắc đạo có sức ảnh hưởng quan trọng trong xã hội thời bấy giờ thường được phong thưởng, suy tôn rất mực. Như Pháp Hồng đời Nguyên khi soạn Đế Sư điện bi nói: “Những quân vương cai trị thiên hạ thời xưa đều có quốc sư, chỉ có đạo ấy là tồn tại, không có đạo khác. Cho nên Triệu lấy Phật Đồ Trừng làm quốc sư, Tần lấy La Thập làm quốc sư. Phàm quốc sư của hai quân vương là người biết dùng hiểu biết sâu rộng của họ để lo cho nước, dùng lời hay của họ để làm thịnh cho nước, dùng đức tốt của họ để làm gương cho đời, dùng đạo lý đúng đắn của họ để tham dự cùng trời đất mà giúp vào sự giáo hóa dưỡng dục, cho nên được họ kính phục mà tôn thờ, chứ không phải dùng như một nghệ thuật trị đời”. Như vậy, chúng ta thấy rõ đằng sau sự tôn vinh quốc sư mang cả sắc thái của công danh lợi lộc thế tục một cách mãnh liệt.
Theo chủ trương của Phật giáo, đối với thanh danh lợi ích thế gian trước sau vẫn có thái độ xem thường, công danh lợi lộc chính trị chỉ là bùn đen nước bẩn càng hôi hám khó ưa, còn đối với những vị cao tăng siêu thoát tự tại ngoài vòng thế tục mà nói thì càng muốn tận lực xa rời. Nhưng vì muốn cứu vớt chúng sinh ra khỏi vòng nước lửa, hoặc vì sự phát triển lâu dài của Phật giáo, làm cho chính pháp trường tồn, những vị cao tăng bất đắc dĩ tiếp nhận ân sủng của nhà vua, thậm chí có lúc phải mang tiếng xấu cho danh dự của mình cũng không tiếc, chính điều đó gọi là tấm lòng Bồ Tát, cứu người cứu đời, không kể thành bại, khen chê. Đây là nguyên nhân ngày nay chúng ta thấy các vị cao tăng thường được thế tục tôn sùng như vậy. Nói cho cùng, thân ở núi rừng, tâm tại triều đình, rốt cuộc đó không phải là cách làm của cao tăng, mà là con đường tiến tới danh lợi nhanh chóng của những sĩ đại phu, còn một vị tỳ khưu cả ngày chỉ ăn rau cỏ, mặc áo nâu sồng, không tranh với đời, nếu quý trọng sự hư vinh thì chẳng khác nào trên trời cao bỗng thoáng qua một cụm mây nhẹ tênh, vậy thì cớ sao phải để ý làm gì!
Cũng chính vì lẽ đó mà có lúc những vị cao tăng vô cùng chán ghét trò rởm đời này, rất muốn tránh xa xưng hiệu tôn vinh hư ngụy ấy. Như đại sư Trí Giả, người trải qua hai triều đại Trần, Tùy, đến nửa đời sau phải lẩn trốn hư danh tốn hao tâm lực ấy mà hiệu quả chẳng đáng là bao. Trần Tuyên Đế thời Nam triều từng xem ông làm Bồ Tát giới sư, tương tự như vậy, Tấn Vương (sau này là Tùy Dạng Đế) cũng xem ông làm Bồ Tát giới sư, có khi cũng gọi ông là quốc sư. Mặc dù Trí Giả đã ẩn cư ở Thiên Thai, cũng không tránh khỏi Tùy Dạng Đế nhiều lần hạ chiếu mời lên kinh để hỏi về pháp yếu, bái lễ làm quốc sư. Cuối cùng, ngài viên tịch tại Thạch Thành trên đường đi đến kinh đô.
Thiền sư Vô Nghiệp đời Đường cũng như vậy. Đường Hiến Tông hạ chiếu mời vào cung, ngài cáo bệnh không đi. Năm sau lại hạ chiếu, cũng nói bệnh như trước. Mục Tông nối ngôi, năm Trường Khánh thứ ba (823) lại sai sứ thần đến nghinh rước. Thế là ngài cạo đầu tắm rửa, đến nửa đêm gọi đệ tử đến nói kệ: “Duy hữu nhất sự thực, dư nhị tắc phi chân. Thường liễu nhất thiết không, vô nhất vật đáng tình” (Chỉ có một là thật, thừa ra hai là giả. Luôn hiểu tất cả không, chẳng vật gì đáng luyến). Ngài ngồi kiết già rồi ngưng thở quy tịch. Đến chết vẫn giữ một khoảng cách cần thiết với quyền quý, không muốn đến nơi cung khuyết dù chỉ một bước, là một phong cách Đạo vị trong giới Phật giáo.
Gần ba trăm năm trị vì của nhà Đường, cao tăng các tông phái Phật giáo được tôn làm quốc sư không ít, từ ngài Trí Mãn thời Đường Cao Tổ đến ngài Trí Đạt thời Đường Hy Tông, dường như đếm không xuể, chính như Tổ Tú trong Long Hưng biên niên nói: “Sự hưng thịnh của đạo Phật chúng ta không phải thuộc vào đời Đường, trong khoảng ba trăm năm, lấy đạo đức làm tông phái cho thiên hạ không thể kể ra hết từng cái được”. Trong đó thời gian lâu nhất, năm tháng dài nhất là Thần Tú Bắc tông thuộc Thiền tông, bốn triều đại từ Vũ Hậu, Trung Tông, Duệ Tông đến Huyền Tông đều tôn xưng là quốc sư. Còn có Lão tăng của phái Tung Sơn, cũng là đồng tham21 của Thần Tú - thầy Tuệ An được gọi là Lão An quốc sư, thầy ở đất Tuệ Trung, Nam Dương nên được gọi là Nam Dương quốc sư. Tri Huyền ở Xuyên Trung được gọi là Ngộ Đạt quốc sư, Vô Nghiệp được phong là Đại Đạt quốc sư. Về phía Mật tông có Kim Cương Trí đến từ nước Thiên Trúc, sau khi viên tịch được phong thụy là Quán Đảnh quốc sư. Bất Không từng thiết đạo tràng ở nội cung, làm lễ quán đảnh cho vua nên được ban hiệu Trí Tạng quốc sư. Sư Pháp Tạng thuộc phái Hoa Nghiêm, nhân tổ tiên là người nước Khang Cư nên được phong là Khang Tạng quốc sư. Năm Trinh Nguyên thứ mười lăm (799), Ngũ tổ Trừng Quán từ Ngũ Đài Sơn xuống núi, vào cung giảng thuyết Hoa Nghiêm huyền chỉ, Đức Tông ban cho danh hiệu Đại Thống Thanh Lương quốc sư. Tịnh Độ tông có Nam Nhạc Pháp Chiếu là quốc sư thời Đường Đại Tông… Đáng nhắc đến nhất đó là Tuệ Trung quốc sư, ngài không chỉ là một tay cự phách của Thiền tông mà còn một trong những tổ sư lấy danh nghĩa quốc sư lập ra công án nhiều nhất. Ví dụ “quốc sư tam hoán” - câu chuyện ba lần gọi thị giả, thị giả ba lần đáp lại, “quốc sư tam oản” - câu chuyện lấy một bát nước thêm bảy hạt gạo, trên để một chiếc đũa để thử người dâng cúng có hiểu được ý Phật hay không, “quốc sư tháp dạng” - câu chuyện liên quan đến việc đối đáp hàm ý sâu sắc về “vô phùng tháp - tháp toàn bích đến mức không có đường nối” giữa Đường Túc Tông và Tuệ Trung. Những ví dụ như vậy đều có ghi chép rất nhiều trong truyện ký về cao tăng.
21. Đồng tham 同參: Chỉ những người cùng thờ một thầy, cùng tham thiền học đạo, cùng nghĩa với đồng học, đồng sự, đồng nghiên cứu. Từ này về sau trở thành xưng hô chung giữa các tăng nhân với nhau.
Thời Ngũ Đại Thập quốc (907-979), chiến loạn liên miên, dân chúng hết đường sinh sống. Quân vương các nước nhỏ cát cứ mỗi phương, cơ nghiệp cũng khó gìn giữ, song việc ban hiệu cho các cao tăng vẫn được duy trì, chưa từng bị dứt tuyệt, ngược lại còn thịnh hành, với ý đồ dùng sức mạnh tôn giáo để ổn định giang sơn lâu dài, đạo vua hưng vượng. Vào thời kỳ này, những người tài giỏi xuất chúng đều có tâm trạng lãnh đạm trước thời cuộc, nên muốn tìm lên núi ẩn cư đợi thời. Còn những người khác thì chọn con đường xuất thế để theo đuổi mục tiêu hướng thượng, tức là muốn trở thành thiền sư, và đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho thiền tông rực sáng như mặt trời giữa trưa vào thời Ngũ Đại Thập quốc. Tầng lớp thống trị phong kiến muốn tranh thủ đối tượng này, dù không thể khiến họ cởi áo cà sa để giúp mình trị vì thiên hạ, nhưng thiết lập mối quan hệ với họ, nhờ họ tư vấn về thế cục trong thiên hạ, làm cho dân tâm hướng về, tác dụng quan trọng đó cũng là điều có thể dễ dàng được. Do vậy, họ mời những vị thiền sư về cung điện phong danh hiệu quốc sư, không chỉ để hiểu rõ vận mệnh, tiền đồ của giang sơn xã tắc, mà còn thể hiện phong cách lễ hiền đãi sĩ, tạo ra hình tượng đế vương tốt đẹp trong con mắt của thần dân. Cho nên Hậu Chủ nước Tây Thục ban hiệu Hựu Thánh quốc sư cho thiền sư Vô Nghiệp; vương triều họ Tiền22, nổi lên ở vùng Ngô Việt, thì kính lễ thiền sư Đức Thiều tông Thiên Thai làm quốc sư, Mân vương Vương Thẩm phong Cổ Sơn Thần Yến làm Hưng Thánh quốc sư… Những vị quốc sư đó là ví dụ khá điển hình và tất cả đều được sử gia ghi chép lại.
22. Vương triều họ Tiền: Sử gọi là Ngô Việt (907-978), do Tiền Lưu kiến tạo năm 907, đóng đô ở Tiền Đường (Chiết Giang), cương vực gồm toàn tỉnh Chiết Giang ngày nay, vùng đông nam tỉnh Giang Tô và vùng đông bắc tỉnh Phúc Kiến, truyền 5 đời vua kéo dài 71 năm. Sau bị Tống diệt năm 978.
Tương tự, triều Tống cũng là thời kỳ hưng thịnh của Thiền tông, xu thế phát triển ấy thậm chí được tìm thấy trong sáng tác thơ văn của các nho gia sĩ đại phu. Thời Ngũ Đại đến triều Tống là thời kỳ hoàng kim của Phật giáo, Đạo giáo. Nho gia ngoài việc thừa nhận hai tôn giáo này về mặt tư tưởng còn hấp thu kiến thức sâu rộng của hai tôn giáo ấy nhằm bồi bổ cho mình. Nhân đó, đến giữa thời kỳ Bắc Tống, Phạm Dục nói: “Sách của đức Phật, Lão Tử đều được truyền đi trong thiên hạ, đồng hành với ‘Lục kinh’… Nhà nho đời nay cũng đánh giá rằng: ‘Lục kinh’ của chúng ta chưa từng được nói ra, Khổng Mạnh chưa từng theo kịp. Từ đó người ta tin sách ấy, theo đạo ấy”.
Thiền sư là người đại biểu cho Phật giáo, có tầm ảnh hưởng trong xã hội, do vậy các vị hoàng đế Đại Tống có cái nhìn đặc biệt đối với thiền sư. Còn nói đến Nho gia, thông qua việc ngầm tiếp nhận tư tưởng của Phật giáo và Đạo giáo, về sau y theo đó, lại được tầng lớp thống trị chiếu cố, đó là thời Nam Tống sau khi Lý Tông lên ngôi năm vào 1225, điều không giống các triều đại trước là, vương triều nhà Tống dù ban rất nhiều danh hiệu cho các vị thiền sư, thậm chí đến độ tràn lan, nhưng hầu như không thấy danh hiệu quốc sư, không rõ nguyên nhân gì.
Trước mắt, những gì có thể thấy danh xưng quốc sư của triều Tống, theo như người ta nói là việc ban cấp cao tăng Thành Tầm người Nhật Bản thuộc phái Thiên Thai, nhưng nguồn gốc tư liệu lấy từ sách Nhật Bản Phật giáo chi nghiên cứu do Thường Bàn Đại Định, người Nhật biên soạn, có đáng tin hay không còn đang nghi vấn. Thành Tầm đến Trung Quốc vào thời Tống Thần Tông (1068-1085), tương truyền ông đến yết kiến tại phủ Khai Phong, Tống Thần Tông ban hiệu Thiện Huệ Đại sư, sau Thành Tầm chưa kịp về nước thì viên tịch tại núi Thiên Thai, tỉnh Chiết Giang, nhà vua hạ chiếu ban sắc an táng, xây tháp và tứ đề Nhật Bản Thiện Huệ Quốc sư chi tháp. Đây là trường hợp vô cùng đặc biệt.
Nhà Liêu tồn tại lâu dài song song với nhà Tống, triều đình cũng rất sùng tín Phật giáo, không ít tăng nhân kiêm nhiệm quan chức cao cấp trong triều. Tuy nói tăng nhân nhập thế làm quan, nhưng trong lịch sử lại không thấy có gì rõ ràng, về cơ bản chỉ là hư chức, danh hờ. Ở nước Liêu, chuyện này dường như tiến xa hơn một bước, quyển tám sách Khiết Đan quốc chí ghi rõ: “Hưng Tông đặc biệt tôn trọng Phật pháp, tăng nhân là đại thần chính sự bái làm tam công, tam sư kiêm chính sự lệnh, có đến mười hai người”. Ví dụ bấy giờ có vị cao tăng nổi tiếng tên Phi Trọc, bổn sư của ông là quốc sư Viên Dung ở chùa Phụng Phúc tại Yên Kinh. Viên Dung tên là Trừng Uyên, biên soạn Tứ phần luật san phồn bổ khuyết hành sự tường tập ký mười bốn quyển, và phân Khoa ba quyển, quan hàm của ông gọi đầy đủ là Yên Đài Phụng Phúc tự đặc tiến thủ Thái sư kiêm Thị trung Quốc sư Viên Dung Đại sư tứ Tử sa môn.
Năm Trùng Chiếu thứ mười tám (1049) Phi Trọc đảm nhiệm chức Thượng kinh quản nội đô Tăng lục, là một chức quan quản lý sự vụ tăng chúng, nhưng năm Thanh Ninh thứ hai (1056) được tấn thăng Kiểm hiệu Thái phó Thái úy, và ban danh hiệu Thuần Huệ Đại sư. Đây là nét đặc sắc trong việc ban danh hiệu quốc sư cho tăng nhân của nước Liêu.
Đời Kim lại kế thừa cách làm này, nhưng danh nghĩa quốc sư lại kèm thêm một hàm nghĩa rõ ràng và cả tư cách hoặc điều kiện ban cấp. Sách Đại Kim quốc chí ghi: “Đạo Phật… tại kinh đô gọi là quốc sư, tại soái phủ gọi là tăng lục, tăng chính, tại các quận gọi là đô cang, tại huyện gọi là duy na… Quốc sư, người lớn tuổi tài giỏi lịch duyệt tại kinh đô, uy nghiêm như thầy của vương gia, bậc quân chủ có lúc phải lễ bái. Mặc cà sa màu đỏ, lên điện hỏi đạo, giảng kinh ngang với Nam triều”. Theo trên, chúng ta có thể thấy, thực sự đó là một loại xếp đặt theo thể chế hóa, thể hiện tầng lớp thống trị đương thời rất coi trọng vấn đề này, nâng cao địa vị tăng nhân (nhất là những cao tăng tài đức kiêm toàn) một cách đặc biệt.
Sau này, hoàng đế các triều Nguyên, Minh, Thanh cũng dùng phương thức trên để sách phong cho những tăng lữ cao cấp của các địa khu như Tây Tạng, Mông Cổ… nhằm tăng cường mối quan hệ rộng rãi giữa vùng biên cương và nội địa, thực hiện chủ trương hòa giải dân tộc để duy trì và bảo vệ lợi ích triều đình, quốc gia.
Trong lịch sử Trung Quốc, quốc sư là một loại xưng hiệu vinh dự, đôi khi kiêm luôn cả quyền lực chính trị và tôn giáo, phát triển đến tột độ xưng hiệu này e không thời nào vượt qua được thời Nguyên. Đó là do triều đình quá sủng ái và tín sùng Lạt ma giáo, giao cho tăng nhân Lạt ma giáo quyền lực quá lớn, từ đó gây nên nhiều tệ nạn. Sách Nguyên sử - Thích Lão truyện từng ghi lại như thế này đối với các vị quốc sư đương thời khi có quá nhiều quyền lực, rằng: “Các nơi quận huyện của Thổ Phồn (tức Tây Tạng), đặt quan phân chức, mà lệnh lại thuộc về quốc sư… Tướng soái, đại thần trở xuống cùng áp dụng cho cả tăng lẫn tục để thống lĩnh quân dân. Thế là mệnh lệnh của quốc sư cùng với những sắc chỉ đều được thi hành trên vùng đất phía tây… Hoàng đế, hoàng hậu, phi tần, công chúa đều quy y, thọ giới, nên phải cúi đầu lễ bái... Đồ đệ của vị quốc sư ấy cậy thế làm càn ngày càng tràn lan, uy thế bức bí, ngột ngạt lan ra khắp nơi”. Trên đây là sự phản ánh thực tế tình hình Phật giáo lúc bấy giờ.
Những năm đầu triều đại nhà Nguyên, năm Trung Thống nguyên niên (1260) thời Thế Tổ Hốt Tất Liệt, từng phong Bát Tư Ba (1239-1235-1280) làm quốc sư (thời ấy gọi là đế sư), nhà vua đích thân trao ngọc ấn để cai quản Phật giáo trong thiên hạ. Bát Tư Ba là tổ sư đời thứ năm của phái Tát Ca ở Tây Tạng. Năm mười lăm tuổi được Hốt Tất Liệt trao cho giới, và trở thành cố vấn tôn giáo của ông. Năm Chí Nguyên thứ sáu (1269), Bát Tư Ba phụng sắc chỉ tạo ra chữ viết mới thành chữ viết của người Mông Cổ (cũng gọi là chữ viết Bát Tư Ba), nhà vua thăng hiệu là Đế sư Đại bảo Pháp vương, lại được ban ngọc ấn. Bát Tư Ba từng vì thái tử Chân Kim giảng Chướng sở tri luận. Năm Chí Nguyên thứ mười ba (1276) Bát Tư Ba trở về Tây Tạng, tự nhận Pháp vương đời thứ nhất của chùa Tát Ca. Bát Tư Ba đã viết hơn ba mươi loại luận, lấy tên là Tát Ca Ngũ tổ tập truyền thế. Năm Chí Nguyên thứ mười bảy (1280), Bát Tư Ca nhập diệt ở tuổi bốn mươi hai (hoặc bốn mươi sáu tuổi), nhà vua vô cùng buồn thương, ban tôn hiệu Hoàng thiên chi hạ Nhất nhân chi thượng Khai giáo Tuyên văn Phụ trị Đại thánh Chí đức Phổ giác Chân trí Hựu quốc Như ý Đại bảo Pháp vương Tây Thiên Phật tử Đại Nguyên Đế sư (chỉ dưới Hoàng thiên, trên một người, Khai hóa giảng kinh, Phò giúp Đại thánh, Đức cao Trí rộng, Chân trí giúp đời, Đại bảo Pháp vương Như ý, Phật tử Tây thiên Quốc sư Đại Nguyên). Trong quyển thứ 23 sách Phật tổ Lịch đại Thông tải, ghi lại một phong hiệu dường như là dài nhất trong lịch sử Trung Quốc mà hoàng đế ban tặng cho tăng lữ, dài đến ba mươi tám chữ!
Vào những năm đầu thời Chí Nguyên23 (1335-1339), triều định lập ra viện Tổng chế Thích giáo, ban lệnh cho quốc sư thống lĩnh tăng chúng Phật giáo và các sự vụ ở Tây Tạng, sau đổi thành viện Tuyên chính. Tiếp theo, đối với những vị Lạt ma Tây Tạng, đặc biệt ban cấp hoặc truy thụy là đế sư, quốc sư, tam tạng quốc sư, hay quán đảnh quốc sư, vì số người quá nhiều, nên không liệt kê hết được.
23. Chí Nguyên: là niên hiệu năm thứ hai của Nguyên Huệ Tông (1335-1341)
Trong số tăng nhân người Hán được triều đình phong quốc sư gồm chín vị, trong đó quốc sư Hải Vân (1202-1257) thời Nguyên Thế Tổ nổi tiếng nhất. Hải Vân tên là Ấn Giản, người Ninh Viễn, Lam Cốc, tỉnh Sơn Tây, một đời đạo hạnh cao khiết, vang danh xa gần, truyền khắp trong triều ngoài nội ai nấy đều kính trọng, ngài từng vân du thuyết pháp và đã đến trú ở chùa Khánh Thọ ở Yên Kinh, rồi dốc toàn lực truyền dương giáo hóa. Khi hoàng thái tử ra đời, nhà vua ban chiếu mời quốc sư đến xoa đầu đặt tên. Sau khi quốc sư nhập tịch, triều đình cho lệnh xây tháp ở Yên Kinh để kỷ niệm. Về sau khi trùng tu kinh thành, có người chủ trương dỡ bỏ ngôi tháp của quốc sư, tâu lên nhà vua, theo Đại Mông Cổ quốc Yên Kinh Đại Khánh Thọ tự Tây đường Hải Vân Đại Thiền sư bi (Bia của Đại Thiền sư Hải Vân trú tại Tây đường chùa Đại Khánh Thọ ở Yên Kinh nước Đại Mông Cổ), đương thời hoàng đế nói: “Về ngôi tháp của cao tăng Hải Vân, xây tường thành chung quanh, phải quý cái đức của thầy, nghìn năm không bị hư hại”. Đức hạnh của ngài cao khiết như thế nào, từ đó không khó nhận ra.
Năm Đại Đức thứ năm (1301), Nguyên Thành Tông xây dựng chùa Đại Vạn Thánh Hựu Quốc tại Ngũ Đài Sơn, ra chiếu tuyển chọn người làm trú trì khai sơn đời thứ nhất, quốc sư Ca La Tư Ba tiến cử trú trì chùa Bạch Mã ở Lạc Dương là học tăng Hoa Nghiêm Văn Tài (hiệu Trọng Hoat 1241-1302) đến đảm nhiệm, Thành Tông liền ra lệnh đúc kim ấn, phong ngài làm Chân Giác quốc sư để ban thưởng.
Vạn Tùng Hành Tú (1166-1246) là nhân vật hàng đầu của phái Thiền tông hai triều Kim, Nguyên, đời gọi là Vạn Tùng Lão nhân, hoặc Báo Ân Lão nhân. Kim Chương Tông Minh Xương năm thứ tư (1193), ban Cẩm ỷ đại tăng y. Thừa An năm thứ hai (1179), nhận mệnh trú trì Ngưỡng Sơn Thê Ẩn Thiền tự tại Tây Sơn. Sau thể theo yêu cầu của các nơi, lần lượt trú trì các ngôi chùa nổi tiếng như Tịnh Độ, Trung Đô Vạn Thọ, Báo Ân ở Yên Kinh… Đồng thời nhận quy y cho vương hầu Da Luật Sở Tài, quan Trung thư lệnh nước Kim. Sử tịch Phật giáo tuy không thấy ông có danh hiệu quốc sư, nhưng vào đời Nguyên, Nhật Tăng Thiệu Nguyên biên soạn sách Sơn Đông Linh Nham Tức Am Thiền sư Đạo Hạnh bi ký có viết: “Sau quốc sư Đại Vạn Tùng Vũ có tổng quản Tuyết Đình, rồi kế thừa đến đời thứ ba, đó là thiền sư Tức Am”. Từ đó có thể suy ra rằng, Vạn Tùng là quốc sư của triều Nguyên.
Tiếp đến, thiền sư Trung Phong Minh Bổn ở Thiên Mục Sơn, tỉnh Chiết Giang, viên tịch năm Chí Trị thứ ba (1323) được sắc chỉ truy phong là Phổ Ứng Quốc sư. Năm Diên Hựu thứ tư (1317), khi làm trú trì chùa (Ảo) Huyễn Trú ở Hồ Châu, ông có soạn Ảo Trú Am thanh quy, Tục Tạng kinh, toàn sách gọi là Phổ Ứng Quốc sư Ảo Trú Am thanh quy. Ông cũng là một trong những thiền tăng nổi tiếng của triều Nguyên.
Ngoài những vị tăng nhân nêu trên, thiền sư Tả Lê ở vùng biên cảnh Tây Nam Trung Quốc như Vân Nam, Đại Lý, cũng từng được triều Nguyên phong làm quốc sư. Tả Lê người Điền Tây, theo quyển I sách Điền Thích ký ghi, ông từng đến kinh đô chữa ung nhọt ở tay cho vua Nguyên Thành Tông và được phong làm quốc sư, sau đó ông trở về Đại Lý.
Vào những năm đầu triều Minh, do triều đình muốn tăng cường mối quan hệ giữa trung ương và các dân tộc thiểu số vùng biên giới Tây Tạng nhằm bảo vệ sự an toàn cho quốc gia, tuy vẫn thực hiện chế độ Phật giáo cùng sắc phong tôn hiệu như đế sư, quốc sư như triều Nguyên đã làm cho những vị Lạt ma bản địa, nhưng uy thế của họ đã không còn lớn mạnh như triều Nguyên. Năm Hồng Vũ thứ sáu (1373), Minh Thái Tổ hạ chiếu tù trưởng các bộ tộc vùng Tây Phiên, Thổ Phồn (tức Tây Tạng), là quan chức cũ của triều đại trước thì trở về kinh sư để tiếp nhận chức vụ, đồng thời ban ấn triện, tiếp tục theo nếp cũ để cai trị địa phương. Cũng như triều Nguyên từng ban cho đế sư Nam Gia Ba Tạng Bốc là Xí thạnh Phật bảo Quốc sư, cấp ngọc ấn và thưởng vải vóc, tiền bạc. Từ đó, tăng nhân Thổ Phồn có chức phong là Quán đảnh Quốc sư và các danh hiệu khác như Tán Thiện Vương, Xiển Hóa Vương, Chính Giác Đại Thừa Pháp Vương, Như Lai Đại Bảo Vương… và đều được ban kim ấn thay lệnh hoàng thượng lãnh đạo dân chúng bản địa, hàng năm phải triều cống, chịu sự cai quản của hoàng đế triều Minh. Năm Vĩnh Lạc thứ năm (1407), triều đình phong tăng nhân Tây Phiên Ha Lập Ma làm Như Lai Đại Bảo Pháp Vương, Tây Thiên Đại Thiện Tự Tại Phật lãnh đạo Phật giáo trong thiên hạ, đệ tử của ông là Bột La cũng được phong làm Đại Quốc sư.
Năm Vĩnh Lạc thứ sáu (1408), Tăng Thanh xứ Thổ Lỗ Phồn [tức Tolophan, thuộc tỉnh Tân Cương ngày nay, xưa là nước Cao Xương] vào triều tiến cống được hoàng đế phong làm Quán đảnh Từ Tuệ Viên Trí phổ thông Quốc sư. Năm Vĩnh Lạc thứ tám (1410) lại phong tăng nhân Tây Phiên Miên Tư Cát chức danh Tịnh Từ Diệu Tế Quốc sư, Ban Đan Tạng Bốc làm Tịnh Giác Hoằng Tế Pháp sư. Năm Vĩnh Lạc thứ mười ba (1415), Thích Ca Dã Thất nước Ô Tư Tạng (tức nước Tây Tạng) được phong xưng hiệu là Diệu Giác Viên Thông Từ Tuệ Phổ Ứng Phụ quốc Hiển giáo Quán đảnh Hoằng Thiện Tây Thiên Phật tử Đại Quốc sư. Theo quyển V sách Thánh Vũ ký của Ngụy Nguyên, trong phần Quốc triều phủ hoãn Tất Tạng ký ghi, chỉ riêng triều Vĩnh Lạc (1402-1424), trong số những vị Lạt ma Tây Tạng thụ phong có năm vị pháp vương là Xiển hóa, Xiển giáo, Phụ giáo, Hộ giáo, Tán thiện và hai vị Tây Thiên Phật tử, chín vị Quán đảnh Đại quốc sư, mười tám vị Quán đảnh pháp sư. Xem thế đủ thấy mức độ coi trọng vùng biên giới của triều đình nhà Minh và tính hữu hiệu của các biện pháp đã áp dụng.
Ngoài phong hiệu tăng lữ Tây Tạng, nhà vua còn ban tặng nhiều tiền của, sản vật, trải qua một thời gian dài, tệ nạn lại nảy sinh. Vì vậy, năm Thiên Thuận nguyên niên (1457) thời Minh Anh Tông, triều đình bắt đầu cắt giảm phong hiệu đối với Phiên tăng, như hạ bậc pháp vương thành đại quốc sư, đại quốc sư thành quốc sư… Năm Thành Hóa thứ tư (1468) có Ngụy Nguyên, Khang Vĩnh Thiều dâng thư can gián, nói: “Nay chiều chuộng và đãi ngộ Phiên tăng, có đủ danh hiệu như Pháp vương, Phật tử, Quốc sư, nghi vệ hơn cả vương hầu… Lại có nhiều người trong nước học theo giáo phái của Tây Phiên muốn được sủng ái quý trọng, cúi mong bệ hạ cấp tiền khiến các Phiên tăng về nước”. Năm Thành Hóa thứ mười hai (1476), đại học sĩ Thương Hạt cũng đưa ra những yêu cầu thay đổi, ông cho rằng: “Các Phiên tăng rảnh rỗi ở không, thường từ đô cang, thiền sư, thăng đến Quốc sư, Phật tử, Pháp vương, được cấp vàng bạc, ấn tín, kinh sách. Vị ấy chết đi, đệ tử kế thừa, lại còn yêu cầu xây tháp… Cả hai việc đều tổn hao tiền của triều đình, nên thực hiện cấm chỉ”. Thế là triều đình phê chuẩn theo ý kiến ấy, bãi bỏ xưng hiệu Pháp vương, Phật tử, Quốc sư.
Nhưng đó chỉ là biện pháp một thời, không có tính liên tục. Đến thời Minh Vũ Tông, lại căn cứ tình thế lúc bấy giờ, triều đình bắt đầu ưu đãi Lạt ma rất mực. Năm Chính Đức thứ hai (1507) thăng cấp và bổ nhiệm thiền sư các chùa Từ Ân, Năng Nhân, Hộ Quốc làm quốc sư và sư trú trì chùa Đại Từ Ân làm Quán đảnh Đại Quốc sư. Năm Chính Đức thứ năm (1510) Minh Vũ Tông tự xưng là Đại Khánh Pháp vương, học tiếng Tây Tạng, tụng kinh Tây Tạng, và càng phong nhiều quốc sư nữa.
Đến thời Minh Thế Tông, tình trạng ấy mới có những thay đổi đáng kể, vì nhà vua vốn sùng tín Đạo giáo, việc sách phong tăng lữ Phật giáo không còn hứng thú nữa, do đó danh hiệu quốc sư ít thấy. Nhưng thời Minh Mục Tông lại để mắt đến sách phong quốc sư. Năm Long Khánh thứ ba (1569) có ba vị Pháp vương Xiển hóa, Xiển giáo, Phụ giáo đến kinh đô triều cống theo chiếu lệnh của thời kỳ đầu đời Hồng Vũ, cứ ba năm một lần nhằm tỏ rõ sự uy nghiêm của triều đình và quyền quản lý tuyệt đối vùng Tây Tạng.
Nếu so sánh, tăng nhân người Hán dưới triều Minh được phong danh hiệu quốc sư rõ ràng không nhiều. Căn cứ sử liệu ghi chép, chỉ có năm Hồng Chiếu nguyên niên (1425) ban cấp Thích Trí Quang hiệu Quảng Thiện Đại Quốc sư. Sách Minh ngoại sử - Phương Kỹ truyện nói: “Thích Tử Trí Quang người Vũ Định, thời Hồng Vũ phụng mệnh hai lần đi sứ các nước Ô Tư Tạng, Bảng Cát Thích, Nê Bát Thích, Địa Dũng Tháp. Thời Vĩnh Lạc lại đi sứ Ô Tư Tạng, nghinh đón thượng sư Ha Lập Ma. Ngài phụng sự sáu triều đại, được ân phong Quán quần tăng”. Anh Tông lên nối ngôi lại ban thêm hiệu Tây Thiên Phật tử.
Ngoài ra, khoảng những năm thời Thành Hóa (1465-1487), tăng nhân Kế Hiểu Sơ dùng tà thuật được triều đình phong danh hiệu pháp vương và quốc sư, về sau, sự việc bại lộ, ông bị tước bỏ hiệu quốc sư và trở lại làm thường dân. Đến khoảng những năm thời Vạn Lịch (1573-1619), tương truyền cao tăng Tiều Vân ở thạch thất Nhàn Vân thuộc vùng Chương Châu, vì siêu độ hoàng thái hậu của Minh Thần Tông được ban tặng long khoa, nên tục gọi là Long Khoa Quốc sư. Nhưng theo những gì ghi lại trong Tiều Vân luật sư tháp minh do Vạn Ích biên soạn, thì Tiều Vân chẳng qua chỉ là một vị cao tăng nghiêm trì giới luật và chuyên tu tịnh nghiệp24, hoàn toàn không có danh hiệu quốc sư. Điều này sự thật thế nào, hiện nay vẫn còn bỏ ngỏ.
24. Tịnh nghiệp 淨業: Tức tịnh nghiệp tam phúc 淨業三福, là một pháp tu hành của hành giả. Tịnh nghiệp tam phúc được chia ra như sau: phúc thứ nhất: hiếu thuận với cha mẹ, kính trọng bậc tôn tưởng, từ tâm không sát sinh, tu tập mười việc lành; phúc thứ hai: thọ trì tam quy, thực hành đủ các giới, không phạm giới luật; phúc thứ ba: phát tâm Bồ đề, hiểu rõ luật nhân quả, tụng niệm các kinh Đại thừa, luôn chuyên cần tinh tấn.
Vị thế tổ đầu đời Thanh rất kính trọng thiền tăng. Những năm thời Thuận Trị (1644-1661), trước sau nghênh đón các vị như Hàm Phác Tính Thông, Mộc Trần Đạo Mân, Ngọc Lâm Thông Tú vào cung thuyết pháp, đồng thời ban cấp tử y và tôn hiệu. Hàm Phác gọi là Minh Giác Thiền sư, Mộc Trần gọi là Hoằng Giác Thiền sư. Ngọc Lâm ban đầu gọi là Đại Giác Thiền sư, tiếp theo sai sứ đến phong thêm Đại Giác Phổ Tế Thiền sư, sau nữa lại phong Đại Giác Phổ Tế Năng Nhân Quốc sư sau gọi tắt là Ngọc Lâm Quốc sư.
Mặc dù triều Thanh có tình cảm đặc biệt đối với Lạt ma giáo, ban cấp nhiều ưu ái đãi ngộ, khiến cho thời kỳ này Lạt ma giáo hưng vượng trở lại, nhưng Lạt ma giáo được sách phong quốc sư lại ít thấy. A Cát Vượng La Bố Tang tức Lạp Đan người Thanh Hải, vào những năm đầu đời Thanh ông đến Tây Tạng thọ giới và theo học với vị Đại Lạt ma đời thứ năm ở Lhasa, sau được công nhận là Chương Gia Hoạt Phật đời thứ mười bốn ở Nội Mông, vào năm Khang Hy thứ hai mươi sáu (1687), ông đến Bắc Kinh yết kiến Thánh tổ nhà Thanh, Thánh tổ cho lập chùa Hội Tông (còn có tên là Đông Miếu, Hoàng Tự) tại huyện Đa Luân Nặc Nhĩ ở Nội Mông, và truyền lệnh cai quản Phật giáo toàn bộ khu Nội, Ngoại Mông. Khang Hy Năm thứ bốn mươi lăm (1706) ban danh hiệu Quán đảnh Phổ giác Quảng đức Đại Quốc sư kim ấn. Khoảng những năm Ung Chính (1723-1735) thời Thanh Thế Tông, ông trở thành Chương Gia Hoạt Phật đời thứ mười lăm ở chùa Thiện Nhân (còn có tên là Tây Miếu, Thanh Tự) được xây dựng ở phía tây chùa Hội Tông. Tuy các vua đầu đời Thanh có tâm lý hướng về Lạt ma giáo, triều đình tỏ ra coi trọng hơn dân tộc thiểu số ở vùng biên giới phía bắc, nhưng việc phong hiệu đối với các vị Lạt ma rất thận trọng, có thể phần lớn do lo nghĩ về phương diện ổn định chính trị và xã hội mà không muốn để thế lực của Lạt ma giáo dần dần lớn mạnh chỉ vì triều đình ban ân đãi ngộ quá mức, nó có thể làm tổn hại cho triều đình trong việc cai trị hữu hiệu ở khu vực biên giới.
Về điểm này, thời hoàng đế Càn Long có tính đột phá. Ông đã có chủ ý soạn bài Lạt ma thuyết khắc trên bia đá đặt ở phía tây cung Ung Hòa, bài văn bia nói: “Lạt ma còn gọi là Hoàng giáo25, ban đầu thịnh hành vào đời Nguyên, tiếp theo đời Minh, cả hai triều đều phong đế sư, quốc sư. Triều Thanh chúng ta, thời Khang Hy chỉ phong quốc sư Chương Gia, và cứ theo lệ ấy đến ngày nay”. (và chú rằng: “Triều đại chúng ta tuy Hoàng giáo hưng vượng, nhưng hoàn toàn không phong hiệu đế sư. Chỉ có Khang Hy năm thứ bốn mươi lăm phong Chương Gia Hô Đồ Khắc Đồ làm quán đỉnh quốc sư, Ung Chính năm thứ mười hai phong thêm danh hiệu Quán đảnh Phổ thiện Quảng từ Đại Quốc sư, ban lệnh trú trì chùa Sùng Chúc”).
25. Hoàng giáo 黃教: Tức chỉ phái Cách Lỗ 格魯, một trong bốn phái lớn ở Tây Tạng, do Tông Khách Ba 宗喀巴 sáng lập vào đầu thế kỷ XIV, phái này còn gọi là Lạt ma giáo 喇嘛教 mà người đứng đầu gọi là Đạt lai Lạt ma 達喇喇嘛, vị này kiêm luôn cả chính quyền và giáo quyền, bên cạnh có vị Ban thiền Lạt ma 班禪喇嘛 phụ tá. Phái này đến nay đã truyền đến đời thứ XVI, vị Đạt lai Lạt ma hiện nay là Đan Tăng Gia Thố 丹增嘉措 (Danzin Gyaco).
Thời Càn Long việc kính lễ đãi ngộ đối với quốc sư Chương Gia có phần gia bội, được ban ấn chương Quản lý kinh sư tự miếu Lạt ma (Lạt ma cai quản các chùa viện ở kinh đô). Càn Long năm thứ hai mươi bảy (1762), lại phong danh hiệu Chấn hưng Hoàng giáo Đại từ Đại Quốc sư. Chương Gia tinh thông ngôn ngữ Tạng, Mãn, Mông, Hán, trước tác nhiều tác phẩm. Ông nghiêm khắc tuân thủ trong lĩnh vực tôn giáo, chứ không can dự vào vấn đề chính trị. Theo sách Tiêu đình tạp lục của Lễ Thân Vương đời Thanh, Càn Long năm thứ ba mươi bảy (1772), triều đình cho xây Thanh tự kinh quán [viện kinh tạng tiếng Mãn] trong khuôn viên cổng Tây Hoa, lệnh cho quốc sư Chương Gia quản lý mọi sự, phái Đạt Thiên, Vận Phiệt phụ tá, lại tổ chức thi tuyển một số nhân viên người Mãn để sao chép, tu soạn kinh văn, ban lệnh cho họ cố gắng phiên dịch kinh sách ra tiếng Mãn, kéo dài khoảng hơn mười năm, Đại tạng kinh mới hoàn thành. Quốc sư Chương Gia là vị cao tăng của Lạt ma giáo vẫn luôn được hoàng đế Càn Long ưu ái, có địa vị cao, Càn Long từng đem hồ sơ án kiện tư pháp bảo ông phán quyết, quốc sư chắp tay cảm tạ nói: “Đây là việc chung của quốc gia, nên do hoàng thượng hay các đại thần bàn luận, thẩm định, chứ không phải là việc của người ngoài can dự”.
Mãi đến cuối triều Thanh, Chương Gia quốc sư thứ mười sáu, mười bảy, mười tám, mười chín lần lượt thuộc triều đại Gia Khánh, Hàm Phong, Quang Tự, tuy xưng hiệu quốc sư mang tính kế thừa, nhưng trên thực tế vị ấy chỉ là lãnh tụ ở các vùng Mông, Tạng có hoạt động tôn giáo của giáo phái liên quan mà thôi, chứ hầu như không tham gia bất cứ hoạt động chính trị nào, cho nên họ vẫn được triều đình khẳng định và ca ngợi.
Thời Dân Quốc khai sáng, Chương Gia Hoạt Phật vẫn được chính phủ tôn trọng là một trong bốn vị Đại Lạt ma, một trong bốn vị Hoạt Phật của Hoàng giáo. Trước sau được phong là đức hiệu đại sư Hoằng tế Quang minh, Chiêu nhân Xiển hóa, Hộ quốc Tịnh giác Phụ giáo… Trải qua nhiều năm nhậm chức Ủy viên hội Mông, Tạng, sứ giả Tuyên hóa Mông Kỳ, Lý sự trưởng hội Phật giáo Trung Quốc.
Tóm lại, theo lịch sử xưng hiệu quốc sư được triều đình Trung Quốc phong tặng, ngoài triều Khai Nguyên, cơ bản đây là một loại tượng trưng vinh dự của những vị tăng lữ Phật giáo ưu tú thuần hậu, ca ngợi đức hạnh, phẩm chất cao khiết của họ, còn quyền lực thực tế thì trước nay chưa từng có, là một phương thức hợp tác tốt lành được hình thành trên cơ sở hiểu biết lẫn nhau nhằm duy trì nền quốc thái dân an giữa giới Phật giáo và triều đình; còn đối với xã hội, quốc gia, tầng lớp thống trị và giới bình dân bách tính đều cùng có lợi, là một quốc sách hoàn hảo. Do đó, nó có thể tồn tại mãi mãi mà không bị phế bỏ.
A xà lê Thích Hương ăn chay