Hai buổi sáng sớm hoặc chiều muộn, nếu đi ngang qua một ngôi tự viện, bạn có thể nghe lời xướng tụng kèm theo âm thanh đặc thù tiếng đánh chuông gõ mõ của những người xuất gia, phảng phất như tiếng nhạc trời vang vọng bên tai, là những gì mà thường ngày bạn chưa chắc đã được nghe. Đó chính là khóa tụng, một loại nghi thức pháp sự được cử hành mỗi ngày trong lễ bái Tam bảo, tụng niệm kinh chú và các bài ca đạo [梵唄-phạm bái], bài tán tụng trong các tự viện. Trong đó lời tụng niệm phải lớn và rõ là chính, kể cả lời xướng ca và lời tán thán, phối hợp cùng lúc với việc vận dụng các pháp khí, có cả âm nhạc đặc trưng của lời ca cộng hợp, cho nên trong chùa viện xem khóa tụng là một bộ phận của việc “xướng niệm”.
Ngoài ra, vì tăng ni gửi gắm hy vọng vào hình thức tụng niệm này thu được một phần công đức tương ứng nào đó, nên còn được gọi là “công khóa” [ở Việt Nam quen gọi là công phu]. Nếu theo bốn loại tụng niệm được nói trong kinh Kim cương đỉnh Du Già trung Lược xuất Niệm tụng, đó là: 1. Tụng niệm âm thanh, tức phát ra lời tụng niệm; 2. Tụng niệm Kim cương, tức niệm thầm trong miệng; 3. Tụng niệm Tam ma đề, tức tụng niệm trong tâm; 4. Tụng niệm chân thực, tức tu tụng như chữ viết, thì “khóa tụng” đương nhiên thuộc loại tụng niệm âm thanh (loại 1) trong pháp “thanh tịnh tại âm văn - thanh tịnh nhờ nghe âm thanh tụng niệm”. Do khóa tụng thường được cử hành ngày hai lần sớm tối, nhân đó trong Phật môn cũng có các tên gọi như “tảo vãn công khóa - công phu sớm, chiều”, “nhị thời công khóa - công phu hai buổi”, “tảo vãn khóa - khóa tụng sớm tối”.
Về việc chùa viện quy định thời gian hai buổi sớm tối thế nào, tiền nhân Trung Quốc đã có những căn cứ cơ bản. Vị cao tăng thời cận đại là Quán Nguyệt Hưng Từ trong bài tựa sách Trùng đính nhị khóa hợp giải luận các vị cao tăng ngày xưa khi đưa ra nguyên nhân lập định hai khóa tụng sớm tối từng chỉ ra rằng: “Sớm tối không luật lệ, như ngựa hay nhưng không có dây cương”. Nghĩa là nói trong hai thời sớm tối, tín đồ Phật giáo lấy khóa tụng làm chuẩn mực tự thân, cộng thêm sự chỉ huy và phấn chấn, nếu không sẽ như con ngựa hay không có dây cương, đây là điều không tốt. Sớm ở đây chỉ canh năm (tức cuối của canh năm thuộc đêm trước), là lúc bắt đầu của ngày, cũng lại là giờ đầu tiên trong ngày (tức đầu của sáu khắc thuộc ngày tiếp), tín đồ Phật giáo cứ theo tiếng chuông sớm báo ngày mà thức dậy, rửa mặt rửa tay xong, lên Phật điện bắt đầu khóa tụng là để cho tư duy được thanh tịnh, từ đó có lợi cho việc tu trì và pháp vụ trong suốt cả ngày. Chiều ở đây chỉ lúc mặt trời gần lặn, tức thuộc giờ cuối của khắc thứ sáu trong ngày, thực hành lễ tụng công khóa cũng giúp cho việc giác ngộ hôn trầm để đi đến mục đích trừ bỏ ngu muội. Cho nên nói chung việc đặt định hai thời công khóa trở thành quy định quan trọng trong các chùa viện của Phật giáo Hán truyền.
Nếu muốn truy tìm nguồn gốc, chúng ta hãy nghiên cứu nguyên do của các khóa tụng trong giới Phật giáo Trung Quốc, sớm nhất phải là phương thức tụng niệm những bài kinh chú, đạo ca đơn giản của thời cổ đại, rồi dần dần phát triển mà thành, trong đó có ba đầu mối quan trọng có thể giúp chúng ta tìm hiểu và tham khảo.
I. Nguyên do ra đời khóa tụng sớm chiều
Theo những ghi chép phụ trong Ngô thư - Lưu Dao truyện, vào thời Đông Hán, một người tên là Trách Dung, rất tín sùng Phật giáo, từng quy tụ hàng trăm người đến nương tựa quan Từ Châu là Mục Đào Khiêm. Đào Khiêm sai ông làm giám đốc ty Tào vận (vận chuyển lương thực) hai vùng Quảng Lăng và Bành Việt. Đây là một chức quan rất dễ có thu nhập cao, ông ta kiếm được khá nhiều tiền. Thế là ông xây ngôi chùa lớn, đặt tên là Phù đồ từ (đền thờ Phật). Quy mô đồ sộ, có lầu cao gác lớn, có thể chứa hơn ba nghìn người. Trách Dung hướng dẫn mọi người đọc tụng kinh Phật, khiến những người mê thích đạo Phật, dân chúng vùng lân cận đều đến nghe giảng đạo. Tình hình cụ thể lúc bấy giờ như thế nào thì không rõ, nhưng cách thức tụng đọc ấy phải là tăng lữ Phật giáo từ vùng Tây Vực hay những nhà phiên dịch chuyên môn truyền đến. Bởi vì theo kinh Phật, tụng niệm kinh Phật cũng có thể đem lại công đức vô lượng, vì trong phẩm Pháp sư của kinh Pháp hoa ghi rõ có sự phân chia như sau: Pháp sư thọ trì, pháp sư đọc kinh và pháp sư tụng kinh, tức là nói ra đầy đủ thọ trì đọc tụng kinh Phật, là minh chứng nguồn gốc đã thành lệ của Phật giáo Ấn Độ.
Ngoài ra, trong Phật Quốc ký của cao tăng Pháp Hiển thời Đông Tấn và trong Đại Đường Tây Vực ký của Đường Huyền Trang có ghi lại rõ ràng những điều nghe thấy liên quan đến các bài đạo ca Phật giáo (dịch chữ “phạm bái- 梵 唄 ”, tức là lối xướng tụng hay phúng tụng có lúc có âm nhạc đệm theo nhằm tăng cảm giác tiết tấu và tính chất hồi ức, đó cũng là một phương tiện trong tụng kinh). Người đời sau kể chính là sự tích về vị tỳ khưu thiết đàn tụng niệm trong hang động Tất-bát-la ở nước Thiên Trúc thời đức Phật. Cũng người đời sau ghi chép chính là Mã Minh, người sáng tác thi ca tán Phật dùng xướng tụng vào thời cổ Ấn Độ, đặc biệt là tác phẩm Phật sở hành tán. Những người phúng tụng cho rằng loại thi ca ấy chữ ít mà nghĩa nhiều, có thể làm cho ta đạt đến tâm vui quên mệt. Còn nữa, tại Tinh xá Vô Úy Sơn nước Sư Tử (nay là Sri Lanka, trước đây quen gọi là Tích Lan) tình hình tụng niệm rầm rộ mà chúng ta có thể gặp nhân lúc “Phật nha xuất hành - Rước thỉnh răng Phật đi du hành” xuất hành răng Phật hay đi lễ bái Phật, nhân sĩ tăng tục ở các vùng lân cận, những người muốn gieo phúc tạo công đức, ai nấy đều san bằng đường sá, trang hoàng ngõ phố, nghênh đón răng Phật khi đi qua. Xe hương hoa chở răng Phật đi giữa đường, người chiêm ngưỡng đứng hai bên tiếp nhận, những người tín sùng đức Phật thành kính đem những thứ trân quý của mình đến cúng dường tại Phật đường của Tinh xá Vô Úy. Cả tòa tinh xá tăng tục đến vân tập, đốt hương thắp đèn, đêm ngày liên tục, thực hiện pháp sự lễ bái, tụng niệm là chính, đêm ngày không dứt, suốt chín mươi ngày mới mãn hạn, sau đó trở về nội thành Tinh xá. Từ đó, chúng ta có thể thấy lễ bái Thế Tôn, tụng niệm kinh văn, là một trong những pháp sự rất phổ biến của Phật giáo Ấn Độ, Tích Lan. Ở Trung Quốc, thời nhà Tống, tác giả Chí Bàn trong Phật Tổ Thống kỷ cũng có ghi chép từ thời An Đế Đông Tấn (397 - 419) đến thời Tống Quang Tông (1190 - 1195), trước sau hơn 700 năm, tăng tục tụng niệm kinh Phật đã trở thành sự việc hiển nhiên. Như vậy, chúng ta có thể thấy nguồn gốc lịch sử của việc đề xướng khóa tụng đã có từ lâu đời.
Thứ nữa, trong truyền thuyết dân gian Trung Quốc cũng có thuyết liên quan đến khởi nguồn của xướng tụng phạm bối Phật giáo, đó là bài Đạo ca Ngư Sơn [Ngư Sơn phạm bái] của Ngụy Trần Tư Vương Tào Thực thời Tam Quốc mà giới Phật giáo Trung Quốc cũng công nhận, và trong Cao Tăng truyện - Kinh Sư thiên của Tuệ Kiểu đời nhà Lương đúng là có ghi chép. Nói là Tào Thực “nắm rõ thanh luật, ý thuộc kinh âm”, khi Tào Thực đi chơi vùng Ngư Sơn ở huyện Đông A, Sơn Đông, thoảng nghe trong không trung âm thanh của Phạm thiên, thanh nhã ai oán, rúng động lòng người, bèn phỏng theo âm luật viết ra lời phạm bái, và việc chỉnh lý kinh Thụy ứng bổn khởi cũng có liên quan đến nội dung phạn âm tụng niệm, cho rằng “giới học giả có thể truyền lời ca hơn ba nghìn bài, nhưng trong ghi chép có thể chỉ còn bốn mươi hai bài”. Vậy có thể xem đây là thuyết khởi nguồn của các bài phạm bái trong tự viện sau này.
Đầu mối thứ ba cũng được ghi chép từ Cao Tăng truyện. Truyện ghi, Chi Khiêm, người nước Ngô thời Tam Quốc phiên dịch các kinh Duy Ma, Nê Hằng, Pháp Cú, Thụy Ứng bản khởi trong số 49 bộ kinh, rồi căn cứ vào các kinh Vô Lượng Thọ, Trung Bản khởi… sáng tác ra ba bài đạo ca (phạm bái) theo hình thức Bồ Tát liên cú. Lại còn có Khương Tăng Hội người nước Khương Cư cũng ở nước Ngô phiên dịch khá nhiều kinh điển, đồng thời “truyền lại lời đạo ca Nê Hằng trong trẻo, ai oán”, sau đó trở thành khuôn mẫu một thời. Đó cũng là một trong số nguồn gốc sáng tác phạm bái ở Trung Quốc.
Như chúng ta biết, theo kinh Phật ghi lại thì nghi thức tụng niệm kinh Phật của nước Thiên Trúc thời cổ đại tương đối đơn giản, thực hành theo nghi thức tam khải, trước hết ca ngợi Phật theo thơ văn Mã Minh sưu tập, như Phật sở hành tán. Tiếp theo tụng niệm kinh Phật, sau đó trần thuật, hồi hướng và phát nguyện. Toàn bộ quá trình ấy đơn giản, thanh khiết, rõ ràng, nhìn qua là hiểu ngay. Nhưng có điều cần chú ý là, phàm khi tụng kinh xong, đại chúng đều phải nói “Tô bà sư đa” hay “Bà bà độ” (ý nói là ca ngợi kinh văn là vi diệu). Tụng niệm kinh Phật theo hình thức “tam khải” như trên là những gì Phật giáo xứ Hán kế thừa đã trở thành nghi thức cơ bản của việc tụng niệm pháp sự từ trước đến nay. Khi cử hành bất cứ ở pháp đường nào, trước tiên đều phải xướng tụng lời xưng tán như “Hương tán”, hoặc “Tán kệ”, tiếp đến là tụng kinh văn (văn bản kinh chú, hay hình thức nghi lễ liên quan), sau cùng là hồi hướng, phát nguyện (hoặc tụng kệ hoặc kinh văn, hoặc cả hai kết hợp).
Có điều không giống nhau là ở cuối thời tụng niệm, đại chúng đồng thành niệm “Tô bà sư đa” hay “Bà bà độ” thì hầu như chưa bao giờ thấy trong nghi thức tụng niệm ở xứ Hán, nhưng cũng có xưng tụng “thiện” hay “thiên tai” ở cuối thời tụng kinh văn của một số pháp sự nào đó. “Bà bà độ” nghĩa là “thiện tai”. “Tô” dịch là “diệu” (tuyệt vời, kỳ diệu, vi diệu), “bà sư đa” dịch là “ngữ” (lời nói, ngôn ngữ), ý nghĩa ca ngợi kinh văn là “những lời vi diệu”. Đó cũng là thói quen của người Ấn Độ cổ đại, dùng ngôn ngữ để ca ngợi tôn giáo sùng kính của mình.
II. Sự phát triển của khóa tụng sớm chiều
Nói một cách nghiêm túc, quy chế về nghi thức tụng niệm ở Trung Quốc đầu tiên do Đạo An16 thời Đông Tấn (317-420) khai sáng. Trước hết, ông đưa ra ba quy tắc về “chuẩn mực của tăng ni”: Một là phép hành hương, phép tọa thiền, phép giảng kinh; hai là phép hành đạo sáu thời thường ngày, phép ăn uống, phép tụng niệm; ba là phép bố tát, phép sai sử, phép sám hối. Ba quy tắc ấy có ảnh hưởng sâu rộng đối với Phật giáo sau này, và cũng mở đầu cho các loại nghi thức pháp sự của hậu thế. Tuệ Viễn ở Lô Sơn xướng xuất việc lấy âm nhạc làm con thuyền chở đạo, nhằm truyền dương Phật pháp, thiết lập chế độ giảng pháp, “truyền tiếp cho đời sau và trở thành quy tắc lâu dài”, đó cũng là cơ sở của nghi thức tụng niệm.
16. Đạo An 道安 (312-385): ông họ Vệ, người Thường Châu, là cao tăng nổi tiếng thời Ngụy Tấn Nam Bắc triều, là thầy của Tuệ Viễn, vị sư tổ của Tịnh độ tông, là người đầu tiên học Trung Quán Bát Nhã ở Trung Quốc. Ông có những cống hiến rất to lớn đối với sự phát triển của Phật giáo Trung Quốc, Cưu Ma La Thập tôn xưng ông là “Thánh nhân phương Đông”. Ông có mỹ hiệu là “Di Thiên Thích Đạo An”.
Từ đó về sau, tùy theo việc truyền nhập với quy mô lớn của kinh điển Phật pháp, sức ảnh hưởng của Phật giáo trong xã hội ngày một gia tăng. Thời Nam Bắc triều, thường có những người hiến nhà làm chùa, “chỉ cần ở ngôi nhà nhỏ, sớm hôm cùng tăng chúng tín đồ đi chùa tụng kinh lễ Phật”, từ đó có thể thấy được toàn cảnh Phật giáo lúc bấy giờ; còn việc chế tác và phát triển phạm bái (đạo ca) cũng bước vào thời kỳ toàn thịnh. Đặc biệt là vào triều đại nhà Lương thời Nam Bắc triều, do Lương Vũ Đế ra sức đề xướng và cũng đích thân nhà vua tham dự, sáng tác ra mười thiên “Thiện tai”, “Đại nhạc”, “Đại hoan”, “Thiên đạo”, “Tiên đạo”, “Thần vương”, “Long vương”, “Diệt quá ác”, “Trừ ái thủy”, “Đoạn khổ luân”, gọi là chính nhạc, đều nói về Phật pháp, như cung đình hóa Phật nhạc vậy. Đồng thời, cũng vào thời Lương Vũ Đế, việc dân gian hóa Phật nhạc đạt đến trình độ phát triển chưa từng có. Ở Trung Quốc, Lương Vũ Đế là người đầu tiên lập ra nghi thức Phật giáo như “Vô già đại hội”17, “Vu Lan bồn hội” và phép sám hối để tạo điều kiện tốt nhất cho việc diễn xuất, truyền bá âm nhạc Phật giáo, định ra khuôn mẫu cho tín đồ Phật giáo các triều đại tuân thủ. Các chùa viện thời Tống, Minh trở về sau dần dần cử hành rộng khắp khóa tụng sớm chiều có lẽ cũng bắt nguồn từ đây.
17. Vô già đại hội 無迦大會 là pháp hội thực hành tài thí, pháp thí một cách bình đẳng, không phân biệt phàm thánh, tăng tục, sang hèn, trên dưới. Pháp hội này 5 năm tổ chức một lần nên được gọi là ngũ niên đại hội. Phong tục này có thừ thời A Dục Vương ở Ấn Độ. (vô già nghĩa là không ngăn chặn, không hạn chế, mở rộng cho mọi người).
Gọi là “Vô già đại hội”, dịch ý từ tiếng Phạn Panca-varaika maha, có nghĩa là không có sự phân biệt thánh phàm, tăng tục, trên dưới, sang hèn, cao thấp, chúng sinh bình đẳng, tất cả đều được thí tài, thí pháp, là một thực tiễn cụ thể khó có được của Phật giáo trong cuộc sống hiện thực. Ở đại hội vô già này, ngoài mở kho nhà nước, hay thết đãi mọi người những bữa cơm chay, quan trọng nhất là nghe hoàng đế giảng kinh, nghe tăng nhân diễn xướng Phật nhạc. Bắt đầu từ thời Lương Vũ Đế, tất cả pháp hội Phật giáo hầu như đều là những hội lớn diễn xuất âm nhạc đạo ca (phạm bái) Phật giáo. Càng có ý nghĩa hơn nữa khi Lương Vũ Đế là người đầu tiên đưa ra hình thức xướng tán bằng giọng của trẻ em. Theo Tùy thư - Âm nhạc chí, “có ca kỹ pháp nhạc là trẻ em, trẻ em theo lời phạm bái xướng hát, khi lập đại hội vô già thì thực hiện việc này”. Số trẻ em này phải qua tuyển chọn và huấn luyện lập thành đội ca để diễn xướng Phật khúc, đây là một trong những tiết mục quan trọng nhất của đại hội vô già thời nhà Lương. Rất tiếc nghi thức “trẻ em hát theo lời phạm bái” không được đời sau truyền lại nữa.
Đối với việc sáng tác đạo ca, như dạng thức trên làm dưới bắt chước thôi thúc tăng tục nhân sĩ nhiệt tình phát triển lớn mạnh, một số bài sám pháp như Lương hoàng Bảo sám lần lượt ra đời. Về sau còn có Thủy Lục Pháp hội, Phóng Diệm khẩu... hình thức ca xướng, tụng niệm càng có xu thế phức tạp, đối với sự phát triển đạo ca ở Trung Quốc sau này rõ ràng nó có ảnh hưởng rất lớn.
Theo Phật Tổ thống kỷ, khóa tụng thời nhà Đường vô cùng thịnh hành, nhưng tình hình cụ thể không rõ, vì khóa tụng là thường khóa mỗi ngày phải thực hành của người xuất gia, thói quen thành tự nhiên, nên lịch sử Phật giáo không có ghi chép đặc biệt nào, ngược lại một vài sự việc nhỏ nhặt lại ghi chép một cách đặc biệt khiến người ta chú ý. Nhưng qua một số tư liệu để phán đoán thì có thể tìm ra dấu vết và đầu mối. Ví như thời nhà Đường, lập đạo tràng ngay trong nội cung là điều rất phổ biến. Đường Huyền Tông từng hạ chiếu thiền sư Bất Không tụng Bát Nhã Nhân vương kinh, Đường Đại Tông “ra sắc chỉ cho 100 sa môn tụng niệm trong cấm cung, gọi là đạo tràng ở nội cung”, lại còn ra sắc chỉ “Quán đỉnh đạo tràng, chọn 27 vị sa môn tụng ‘Phật đảnh chú’ cho quốc trưởng”. Đã lập đạo tràng ở nội cung thì tất nhiên có sự tồn tại của nghi thức khóa tụng. Triều đình đã nhiệt tâm đề xướng như vậy, tăng nhân cũng phải biết thực hiện như thế nào, đương nhiên chúng ta có thể suy ra được.
Về tình hình trong dân gian, thiền sư Mã Tổ khai sáng tùng lâm và thiết đặt quy chế; thiền sư Bách Trượng viết ra Thanh quy để ràng buộc đại chúng, việc tu trì công khóa hằng ngày tuyệt đối không được bỏ qua, trong đó khóa tụng phải là một trong những nội dung chủ yếu. Nhân đó, phần phụ lục Thiền môn quy thức trong quyển sáu, sách Cảnh Đức truyền đăng lục, có ghi: Bách Trượng Hoài Hải “biệt lập thiền cư”, “đại chúng cả chùa sáng chiều đều tham dự khóa tụng”... phù hợp với những ghi chép thực tế của lịch sử đương thời. Cũng nhân đó mà trong sách Đại Tống tăng sử lược quyển thượng, ở điều Biệt lập thiền cư, Bách Trượng có nói “có lễ của sớm tối khóa tụng, tùy vào khánh đá, mỏ ngư… nhạc luật mà điều tiết”. Rõ ràng đó là cách thực hiện của khóa tụng. Dù không có nhiều tư liệu để tham cứu, nhưng những người xuất gia tập hợp ở chung với nhau cùng tu hành là nhiệm vụ quan trọng số một, mà hành vi tu hành cụ thể là không thể thiếu hình thức của khóa tụng. Đồng thời không giống như người ngoài tưởng tượng, ngoại trừ ban ngày đi lao động, người tu hành chiều tối về tọa thiền tu tỉnh, chẳng có việc gì khác để làm, thực tế không đơn giản như vậy.
Đúng là cùng thời với triều nhà Đường, ở nước Thiên Trúc còn tồn tại chùa Na-Lan-Đà nổi tiếng cũng có quy định những khóa tụng, nhưng không hoàn toàn giống với Trung Quốc. Thiền sư Nghĩa Tịnh đời Đường trong Nam Hải ký quy nội pháp truyện có kể lại khi chùa Na-Lan-Đà thực hành lễ tụng rằng: “Người của chùa Na-Lan-Đà đông, tăng đồ có trên ba nghìn người, lộn xộn, rất khó tập trung. Chùa có tám viện, phòng có ba trăm gian, nhưng có thể tùy thời lễ tụng ngay tại chỗ. Đương nhiên chùa có thể sai một đạo sư có khả năng xướng tụng, mỗi ngày đến khoảng nửa chiều từ ba đến năm giờ, đi tuần hành lễ tán. Người phục vụ ở chùa Tịnh Nhân, và trẻ em cầm hương hoa đi trước dẫn đường, viện nào cũng qua, điện nào cũng lễ bái. Mỗi lần lễ bái, cao giọng tán thán, ba lần đến năm lần, âm vang lan ra khắp nơi, đến chiều tối mới đi trọn vòng”. Từ đó có thể thấy tình hình Phật giáo lúc bấy giờ rất hưng thịnh.
Từ sau vương triều Tống, Phật giáo bước vào giai đoạn phát triển bình ổn, các điều khoản về chế độ nội bộ cũng dần hoàn bị. Đặc biệt trong các tùng lâm thời Minh, đã từng bước hình thành chế độ các khóa tụng và các loại pháp sự như tụng kinh, sám hối… song hành nhau, tạo thành một phong cách tùng lâm đặc biệt. Triều đình nhà Nguyên từng ra lệnh cho thiền sư Đức Huy ở núi Bách Trượng hoàn thiện bộ Sắc tu Bách Trượng thanh quy. Trong đó bên dưới mục Điện chung chủ ý ghi rõ “khi trú trì niêm hương sớm chiều” đánh bảy tiếng chuông. Cùng sách ấy, bên dưới mục Khánh cũng ghi: “Ở đại điện, khi trú trì, tri sự sáng, tối niêm hương thì người trực điện đánh khánh”; “khi đại chúng đọc tụng kinh chú” cũng đánh khánh. Như vậy có thể thấy thiền tăng tu hành thời ấy đã đầy đủ hình dáng của các khóa tụng sớm chiều. Nghiên cứu của những học giả trước đây đã phát hiện trong Sùng Ninh thanh quy thời Bắc Tống và Hàm Thuần thanh quy thời Nam Tống còn thiếu sót, nhưng cũng cần chú ý là sau này những gì định ra nội dung của Triêu mộ khóa tụng - khóa tụng sớm chiều, kể cả phần lớn nội dung khóa tụng buổi tối trong Mông Sơn thí thực tại nội cung, đều do người đời Tống phân biệt sưu tập và biên soạn mà thành. Điều này có thể chỉ rõ ra rằng lúc bấy giờ đã có một số tự viện, hay thậm chí một khu vực nào đó thực hành khóa tụng sớm chiều, có điều chưa được phổ biến rộng khắp mà thôi. Cho nên mãi đến khi thành sách vào cuối thời nhà Tống thì Hàm Thuần thanh quy vẫn chưa phản ánh tình hình nếp sinh hoạt thiền môn rõ ràng, chính xác.
Thời Minh Thanh, hình thức khóa tụng sớm chiều dần dần định hình, phạm vi phụng hành phổ cập trong tự viện của các tông phái, chùa tư, chiêu đề, lan nhã và tín đồ cư sĩ tại gia, trở thành khóa tụng quy định cần tu tập của tất cả tùng lâm. Ví như, thiền sư Thông Dung đời Minh ghi Tùng lâm lưỡng tự tu tri quy định, thủ tòa “khóa tụng sớm tối chớ bỏ qua”, thư ký “khóa tụng sớm tối phải theo đại chúng”, và giám tự “sớm tối chuyên cần lo việc hương đèn, khóa tụng không được bỏ qua”… tất cả đều được ghi chép rõ ràng. Đại sư Liên Trì trong quyển thượng, sách Vân Thê cộng trú quy ước, tập cuối đặc biệt quy định: “Khóa tụng sớm tối không được tìm cách trốn tránh bỏ qua, người vi phạm theo lệ phạt tiền mười đồng”. Tập phụ của cùng sách ấy, mục Học kinh hiệu thứ cũng quy định hai khóa tụng sớm chiều rất rõ ràng. Đại sư Nghi Nhuận đời Thanh trong sách Bách Trượng thanh quy chứng nghĩa ký quyển tám lại nói rõ nội dung và hình thức cụ thể của khóa tụng sáng tối; đồng thời mục Thiền đường quy ước quy định điều khoản phạt tội đối với những người không theo đại chúng trong sinh hoạt như đi đứng nằm ngồi, các khóa tụng, ăn uống, lao động… Những điều lệ này đã trở thành quy chế cơ bản của các tùng lâm trên dưới phổ biến chấp hành.
Xét theo góc độ của việc tu trì, khóa tụng hai buổi thuộc vào sự hoằng dương giáo nghĩa Đại thừa, sự tôi luyện công khóa trọng yếu của việc tu dưỡng thân tâm cá nhân. Ví như chú Lăng Nghiêm, chú Đại bi, hay kinh A-di-đà, Sám hối văn, Mông Sơn thí thực... kể cả nội dung xưng niệm Phật hiệu đều có thể kết hợp với nhau, làm tăng thêm thanh điệu cao thấp, ngưng chuyển của việc xướng tụng, rất có hiệu quả trong việc cảm hóa lòng người. Nhân đó, đối với người đi lễ tụng khóa văn của hai thời khóa tụng, người ta đưa ra yêu cầu đặc biệt: Giữ thân thể đoan chính, miệng phát ra âm thanh rõ ràng, ý theo văn mà quán tưởng. Chỉ có như vậy mà tiến hành như giới pháp, như nghi thức quy định mới đưa đến diệu dụng là đi sâu vào lòng người, và ngấm ngầm chuyển hóa.
III. Nội dung của khóa tụng
Xét về nội dung, toàn văn khóa tụng hai buổi được chia làm ba phần: 1. Sớm bắt đầu từ chú Lăng Nghiêm, tối bắt đầu từ kinh Di Đà, mỗi lần đều xưng niệm danh hiệu Phật, danh hiệu ba vị Bồ Tát là chính văn của khóa tụng. 2. Sau khi niệm ba vị Bồ Tát, sớm tối đều có văn Hồi hướng và Tam quy y là hồi hướng chung. 3. Vào các ngày mồng một, rằm, còn có nội dung chúc tán của hai buổi là chúc thọ hộ thần. Ở đây xin giới thiệu theo thứ tự:
Chính văn khóa tụng
Mở đầu khóa tụng buổi sớm là Đại Phật đỉnh Thủ Lăng Nghiêm thần chú gọi tắt là chú Lăng Nghiêm. Thủ Lăng Nghiêm là dịch âm từ tiếng Phạn, dịch ý là mọi sự rốt ráo đều vững chãi. Theo thói quen của tiền nhân, chú không nên dịch ý, không giải thích, nhưng đời sau có người dịch là “minh” (chân lý), trì chú nghĩa là “trì minh” tức nắm giữ chân lý. Chú này có năm hội, tên chung là Phật đỉnh Quang minh Ma-ha-tát đát đa (ý dịch là Đại bạch) Bát đát la (ý dịch cái lọng, dù) Vô thượng thần chú, thuộc kinh Lăng Nghiêm, văn hiển nghĩa trì chú cùng chung với mật nghĩa. Tống, Nguyên về sau rất thịnh hành, đặc biệt là hai triều Nam Tống và Nguyên Mông, hằng năm vào mùa an cư kết hạ, các đại tùng lâm định ra quy chế Lăng Nghiêm hội trong ba tháng (từ ngày 13 tháng tư đến ngày 13 tháng bảy âm lịch), phàm khi gặp nghi thức cúng bái vào ngày lễ tiết, cầu phúc, cầu nguyện, cúng vong… không nơi nào là không tụng niệm chú Lăng Nghiêm. Cho nên niệm chú Lăng Nghiêm thành thói quen trong các tùng lâm và từng được xếp hàng đầu trong khóa tụng hằng ngày.
Ngoài ra, trước khi niệm chú Lăng Nghiêm thường phải tụng niệm 18 câu kệ Phát nguyện tán Phật liên quan mật thiết với chú này. Theo thứ tự văn bản đã xếp thì sau chú Lăng Nghiêm là chú Đại bi, Thập tiểu chú và Tâm kinh, nhưng phần lớn tùng lâm tự viện có thói quen không tụng chú Đại bi và Thập tiểu chú mà trực tiếp sau chú Lăng Nghiêm là tụng Tâm kinh. Nguyên nhân của sự lệ này chưa rõ.
Tâm kinh nói đầy đủ là Bát Nhã Ba la mật đa tâm kinh do Đường Huyền Trang dịch, lưu hành tụng niệm xưa nay đều dùng bản dịch này. Có bản dịch khác hiện còn do Pháp Nguyệt dịch với nhan đề là Phổ biến trí Bát Nhã Ba la mật đa tâm kinh gồm sáu loại, ngoài ra còn có những bản dịch vô danh và các bản dịch của người Tạng, người Mông, người Mãn… Nhưng nội dung cụ thể đại để gần với bản dịch của Pháp Nguyệt. Ý văn của bản kinh có nguồn từ sáu trăm quyển của kinh Đại Bát Nhã, liên quan đến những phẩm của Xá Lợi Tử, tức đầu phần thứ hai gồm bốn phẩm Duyên khởi, Hoan hỷ, Quán chiếu, Vô đẳng đẳng trong kinh Đại Bát Nhã của bản dịch đời Đường, tức kinh Đại Bát Nhã từ quyển 401 đến quyển 405, trong các phẩm Phật thuyết giảng và Xá Lợi Tử vấn đáp về ý nghĩa và công đức thực hành Bát Nhã, bản kinh này là bản toát yếu in riêng, trong đó lược bớt phần tựa ở đầu và phần lưu thông ở cuối. Là nội dung chủ yếu của bộ Bát Nhã, nên có tên gọi là Tâm kinh, hàng nghìn năm nay được nhân sĩ các giới tăng tục nhiệt liệt tán thưởng, các loại chú giải nhiều vô kể.
Ở phần cuối của Tâm kinh có phần xướng tụng toàn bộ đề mục của Bát Nhã, tụng ba lần Ma ha Bát Nhã Ba la mật đa, sau đó xướng tiếp 12 câu kệ hồi hướng ví như “Thượng lai hiền tiền thanh tịnh chúng, phúng tụng Lăng Nghiêm bí mật chú”… kết trên khởi dưới, hồi hướng công đức thập phương các giới, chúc nguyện mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an. Rồi liền xướng 8 câu kệ Niệm Phật tán kệ, ca tụng đức Phật Di Đà, phát nguyện gieo nhân lành, quả thành độ chúng sinh, đức hạnh tôn sùng. Hai bài kệ này, bài trước là do thiền sư Chân Yết Thanh Liễu đời Tống sáng tác, bài sau là do Trạch Anh soạn. Sau kệ tán Phật, tiếp theo niệm Phật hiệu khi đi kinh hành [chỉ việc chắp tay niệm Phật hiệu, nhiễu quanh tượng Phật], sau về lại chỗ ngồi, xướng niệm danh hiệu ba vị Bồ Tát, bấy giờ chính văn của khóa tụng buổi sáng mới chính thức hoàn tất.
Đến khóa tụng buổi chiều, trước hết tụng Phật thuyết A Di Đà kinh. Kinh này còn có tên Nhất thiết chư Phật sở hộ niệm kinh, do Cưu Ma La Thập thời Diêu Tần dịch, là một trong ba bộ kinh chính của Tịnh độ tông. Bản dịch khác nữa là của Huyền Trang, gọi là Xưng tán Tịnh độ Phật nhiếp thụ kinh. Tư tưởng chủ yếu là trình bày thế giới cực lạc y chính trang nghiêm, tốt đẹp vô song, khiến mọi người hướng về, từ đó khơi dậy tín tâm, phát nguyện cầu sinh và thực hành trì tụng. Cuối bản kinh có phụ tụng ba lần: Đoạn trừ tất cả nghiệp chướng căn bản để được vãng sinh Tịnh độ Đa la ni (chú vãng sinh). Tiếp đến tụng Lễ Phật sám hối văn. Toàn văn của bài sám hối do bốn phần hợp thành:
Bốn câu kệ bắt đầu từ câu “Đại từ đại bi mẫn chúng sinh” là văn tán lễ chư Phật;
Từ “Nam mô quy y” đến “A Di Đà Phật” là từ của quy y Tam bảo;
Từ “Như thị đẳng” đến “Ngã kim quy mệnh lễ” là hành giả sám hối tội nghiệp, bày tỏ thiện hạnh;
Từ “Sở hữu thập phương thế giới trung” đến hết là phát nguyện và hồi hướng.
Những lời ấy là do tôn giả Bất Động đời Tống căn cứ vào Tam thập ngũ Phật danh lễ sám văn (Tên ba mươi lăm vị Phật trong bài văn về lễ sám hối) chỉnh lý mà thành. Trước có thêm năm mươi ba vị Phật, sau cùng là Phật A Di Đà - pháp thân đầy khắp hư không vũ trụ và mười câu kệ đại nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, cộng là một trăm linh tám lần đảnh lễ. Điều này biểu thị ý nguyện đoạn trừ một trăm linh tám thứ phiền não trong tâm. Cách thực hiện một trăm linh tám lần đảnh lễ là: Bắt đầu bốn câu, niệm Kim Cương Thượng sư, Quy y Phật Pháp Tăng ba câu, từ “Ngã kim phát tâm” (nay con phát tâm) đến Tam Bồ đề, Tận hư không nhất thiết chư Phật, Nhất thiết Tôn pháp, Nhất thiết Hiền Thánh Tăng đều làm mỗi lần một lạy; Như Lai thập hiệu (mười hiệu Như Lai) một lễ, Bát thập cửu Phật (tám mươi chín vị Phật) thì có tám mươi chín lễ; từ “Như thị đẳng” đến “Kim giai sám hối” (nay đều xin sám hối), “Kim chư Phật Thế tôn” (nay chư Phật Thế tôn) đến “Ngã kim quy mệnh lễ” (con nay cung kính đảnh lễ), “Sở hữu thập phương thế giới trung” (trong tất cả mười phương thế giới) tám câu, “Ư nhất trần trung trần số Phật” (ở trong một hạt bụi, Phật cũng nhiều như số bụi vậy) tám câu, “Dĩ chư tối thắng diệu hoa man” (lấy những vòng hoa cài đầu xinh đẹp nhất) mười hai câu, “Ngã tích sở tạo chư ác nghiệp” (ngày xưa những nghiệp ác con đã tạo) bốn câu, “Thập phương nhất thiết chư chúng sinh” (tất cả chúng sinh trong mười phương) bốn câu, “Thập phương sở hữu thế gian đăng” (tất cả cây đèn của thế gian trong mười phương) bốn câu, “Chư Phật nhược dục thị Niết bàn” (chư Phật như muốn thị hiện Niết bàn ‘tức muốn nhập diệt’) bốn câu, “Sở hữu lễ tán cúng dường phúc” (tất cả phúc đức lễ tán cúng dường) bốn câu, “Nguyện tương dĩ thử thắng công đức” (nguyện đem công đức tối thắng này) mười sáu câu cũng mỗi câu là một lễ, cộng con số đầy đủ là một trăm linh tám.
Trên đây là Tôn giả Bất Không đời Đường căn cứ vào Tam thập ngũ Phật danh lễ sám văn dịch phần phụ chú quyển cuối nói về việc chế định lễ sám hối. Trong đó nói rằng: “trên đây ba mươi lăm vị Phật cùng pháp sám hối… Những người tu hành theo phái Đại thừa nước Thiên Trúc thường có sáu thời thực hành lễ sám hối không bao giờ khiếm khuyết”. Như vậy, có thể thấy lễ sám hối đã có rất sớm, là công khóa thường tu của người Ấn Độ theo phái Đại thừa. Người Trung Quốc xưa tuy định ra lễ sám hối là một trăm linh tám lễ, nhưng thực tế, một người ngoài thực hiện lễ tụng như pháp đã quy định, tại các tùng lâm phần lớn người ta chỉ chắp tay quỳ tụng mà không phải lạy.
Sau Lễ sám văn là Mông Sơn thí thực. Mông Sơn là một ngọn núi ở Nhã Châu, Tứ Xuyên, là nơi Tôn giả Bất Động tu hành. Tôn giả cho rằng sau khi người tu hành tụng niệm, sám hối, nên cúng thí thực cho chúng sinh sáu nẻo u minh. Cho nên theo giáo điển nội bộ mật truyền xưa nay, tạo thành bài văn theo nghi thức lễ thí thực và cứu vớt ngạ quỷ, gồm mười hai đoạn giúp cho kẻ hậu học mở rộng thiện duyên với chúng sinh còn trong nẻo u tối. Nay có người muốn cầu phúc huệ hay an khang trường thọ, có thể chuẩn bị một chén nước trong, một bát cơm, và hương đèn các thứ, tùy nơi mình ở, tụng niệm kinh Di Đà xong, thì tụng bài văn này, tùy nghĩa mà quán; người không biết tọa quán (tức nhắm mắt nghĩ về một điều gì đó) thì chỉ cần thành tâm tụng niệm, mỗi câu chú bảy lần, hoặc mười bốn lần, hai mươi mốt lần, chỉ có chú biến thực, chú Cam lộ tụng mỗi chú bốn mươi chín lần, hoặc một trăm lẻ tám lần, càng tụng càng thông. Tụng niệm xong, âm dương đều lợi, chân thực không giả.
Phổ kết Hồi hướng
Sau Mông Sơn thí thực theo kệ trong kinh Hoa Nghiêm, bắt đầu từ câu Nhược nhân dục liễu tri (nếu có người muốn hiểu rõ), chấm dứt bằng bài kệ hồi hướng; đồng thời tụng thêm kệ niệm Phật, xưng danh hiệu ba vị Bồ Tát. Đến đây là dừng, khóa tụng buổi tối chính thức kết thúc.
Nói chung, các chùa viện Đại thừa Trung Quốc cử hành bất cứ pháp sự lễ tụng nào, cuối cùng đều tùy theo lễ tụng mà kèm theo bài văn nghi thức hồi hướng, ý nguyện ban đầu đặt ra lối hồi hướng này là cần đem công đức tu hành của mình quay trở lại, tức là từ mình hướng đến cho người khác, nơi khác; từ sự tướng chuyển qua lý thể, bố thí rộng khắp chúng sinh ở các phương diện khác nhau, khiến tất cả đều nhận được lợi lạc của pháp. Đồng thời cũng thúc đẩy người khác chung phát nguyện, tu tập hạnh nguyện Đại thừa. Nhân đó, văn hồi hướng thường kết hợp với văn phát nguyện được gọi là văn hồi hướng và phát nguyện. Sau niệm danh hiệu ba vị Bồ Tát trong khóa tụng sớm chiều thì đến tụng văn này.
Những người xuất gia, khi thực hành khóa tụng buổi sớm thường theo tiếng khánh, quỳ và xướng tụng Phổ Hiền Bồ Tát thập đại nguyện vương, tức mười câu từ một là lễ kính chư Phật đến mười là tất cả đều hồi hướng [bài này còn có tên Thập giả - Mười điều]. Nhưng cũng có chùa thực hành không xướng thập giả, mà xướng Di Sơn văn18 hoặc Hoa Nghiêm văn, có khác nhau chút ít, nhưng không phổ biến. Sau đó niệm tiếp bốn câu Tứ sinh cửu hữu19 để tỏ rõ rộng khắp ý phát nguyện của tất cả chúng sinh. Sau đó nữa thì xướng tiếp Tam quy y, khóa tụng buổi sớm kết thúc.
18. Di Sơn văn 怡山文: Bài văn phát nguyện của thiền sư Di Sơn. Thiền sư Di Sơn sống vào thời nhà Đường, họ Tạ, tự là Thanh Trú, người Hồ Châu, nay là Trường Hưng, tỉnh Chiết Giang, là cháu mười đời của Tạ Linh Vận, sư giỏi thư pháp, là nhà thơ nổi tiếng đời Đường. Di Sơn phát nguyện văn của thiền sư được các tùng lâm trong nước chọn làm phát nguyện văn trong các khóa tụng sớm chiều.
19. Tứ sinh cửu hữu 四生九有: Từ kinh Hoa nghiêm. Tứ sinh chỉ hình thức xuất sinh của giới hữu tình: thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh. Cửu hữu: Trong tam giới hữu tình, lạc trú ở chín nơi. Đó là: Dục giới, Trời sơ thiền, Trời nhị thiền, Trời tam thiền, Trời tứ thiền trong trời vô tưởng, Không xứ, Thức xứ, Vô sở hữu sứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Khóa buổi tối thì sau khi niệm danh hiệu ba vị Bồ Tát có dùng tiếng khánh làm nhịp điệu dẫn dắt, cùng quỳ và niệm kệ Đại từ Bồ Tát phát nguyện trong bài Thập phương Tam thế Phật, hoặc tụng niệm bài Tiểu Tịnh độ văn trong bài Nhất tâm quy mệnh do tôn giả Tuân Thức20 đời Tống biên soạn. Sau đó tụng Cảnh sách đại chúng kệ và Phổ Hiền cảnh chúng kệ. Bài Cảnh sách đại chúng kệ xuất xứ từ Xuất diệu kinh, kể chuyện đức Phật nhân thấy ba con cá lớn bị sóng dữ đánh dạt vào một vũng nước cạn, chúng giãy giụa tìm cách ra khỏi ách nạn, mà nói ra bài kệ này. Kệ tụng rằng: “Thị nhật dĩ quá, mệnh diệc tùy giảm, như thiểu thủy ngư, tư hữu hà lạc?” (ngày ngày qua đi, mệnh cũng giảm dần, như cá thiếu nước, ấy có gì vui?). Trong bài Phổ Hiền cảnh chúng kệ có các câu: “Đại chúng, đương cần tinh tiến, như cứu đầu nhiên, đản niệm vô thường, thận vật phóng dật” (Mọi người phải chuyên cần tinh tấn, như cứu lửa sém đầu, hãy nghĩ đời vô thường, cẩn thận đừng buông thả). Những câu kệ ấy nhằm đưa ra ý cảnh tỉnh, thúc đẩy người tu hành phải nỗ lực tiến lên, không được có chút lơ là, biếng nhác. Cùng tụng hai bài kệ này được các tùng lâm sử dụng trong nghi thức tụng niệm đã có từ rất sớm; thời Bắc Tống trong quyển hai, mục Niệm tụng sách Thiển uyển thanh quy đã sưu tầm và ghi chép các kệ này, về sau, các loại Thanh quy và Niệm tụng tập cũng có đưa vào. Như vậy, có thể thấy mức độ tiếp nhận hai bài văn kệ này được coi trọng nhường nào. Sau cùng, khóa tụng buổi chiều và khóa tụng buổi sớm cũng giống nhau, tức là lấy Tam quy y làm lời kết thúc.
20. Tuân Thức 遵式 (964-1032) : Tự là Tri Bạch, người đời xưng là Từ Vân Tuân Thức, Từ Vân Sám Chủ, người Lâm Hải, Đài Châu, nay thuộc tỉnh Chiết Giang, là một cao tăng đời Tống.
Chúc thọ thần hộ pháp
Xưa nay trong khóa tụng sớm chiều, đúng ra đến Tam quy y là xem như hoàn tất. Nhưng gặp ngày mồng một, ngày rằm, còn có hình thức chúc thọ thần Hộ pháp Vi Đà ở khóa tụng sớm, chúc thọ Già lam ở khóa tụng chiều.
Đó là một nội dung sau thiền sư Đạo Tuyên đời Đường mới có. Đạo Tuyên soạn cuốn sách rất nổi tiếng có tên Tập Thần Châu Tam bảo cảm thông lục (tên khác Đông Hạ Tam bảo cảm thông ký). Sách ghi về sự tích bảo hộ Phật giáo của tướng quân Vi Đà, bộ tướng của Nam Thiên Vương, khi ông đi khắp ba vùng Đông, Nam, Tây. Sau khi sự tích này được truyền đi, nó có ảnh hưởng rất lớn trong Phật giáo, các chùa viện dần dần bắt đầu tượng Vi Đà, về sau trở thành thói quen đúc tượng khi tu sửa chùa viện, Vi Đà cũng trở thành thần hộ pháp trong những ngôi chùa và được tôn xưng là Bồ Tát Vi Đà.
Nghi thức chúc thọ Vi Đà diễn ra sau khi niệm Tam quy y ở khóa tụng sớm, cùng cử niệm Nam mô hộ pháp Vi Đà Tôn thiên Bồ tát ba lần, Thiên nữ chú ba lần, tiếp theo lại xướng Vi Đà tán.
Còn nghi thức chúc thọ già lam cũng có gốc từ truyền thuyết hộ pháp Phật giáo. Tương truyền khi đức Phật tại thế có mười tám vị thần hộ pháp Mỹ Âm, bảo hộ già lam. Già lam là dịch âm tiếng Phạn, có nghĩa là vườn của chúng tăng, tức chỉ khu vườn hay chùa viện nơi tăng lữ tu tập và sinh hoạt. Ở Trung Quốc từ triều Trần (557-589) trở đi bắt đầu lưu hành sự tích Quan Vũ, vị anh hùng thời Tam Quốc, quy y Phật giáo, cho nên trong các tượng thần của già lam đều có tượng Quan Vũ. Nghi thức chúc thọ già lam cũng giống như nghi thức chúc thọ Vi Đà, chỉ đổi nội dung tụng niệm và xướng tán.
Một năm bốn tiết [kết hạ, giải chế, đông chí, nguyên đán], nghi thức tiến hành báo ơn quốc độ là, khóa tụng sớm xướng Bảo đỉnh, Thánh vô lượng thọ Quang minh chú, sau đó niệm Đại kỳ thọ văn, niệm Hộ quốc Nhân vương Bồ Tát Ma-ha-tát, tiếp theo tụng Lăng Nghiêm chú xong là hoàn tất khóa tụng sớm.
Lúc đó, toàn ban duyệt chúng, giám viện ra khỏi Đại hùng bảo điện, theo thứ tự đến trước bốn vị thánh trong điện Thiên vương thực hiện lễ cầu thọ. Trước tiên đến trước tượng Vi Đà niêm hương, rồi xướng Hương vân cái ba lần, niệm Thiên nữ chú ba lần. Nam mô hộ pháp Vi Đà Tôn thiên Bồ Tát ba lần, duyệt chúng trình bày Kỳ thọ văn, xướng Vi Đà tán, xong, sau đó theo thứ tự đến trước già lam, tổ sư, giám trai; nghi thức cơ bản cũng tương tự, chỉ đổi nội dung tụng niệm, lời văn và xướng tán.
Ngoài ra, gặp ngày đản sinh, ngày cúng kỵ và ngày thành đạo của Phật, Bồ Tát, tổ sư thì nghi thức chúc thọ là: trước ngọ có nghi thức cúng lễ ở thượng điện, tiền đường, được ghi chép trong Thiền môn nhật khóa, có thể xem qua để tham khảo. Nếu muốn đi sâu tìm hiểu ý nghĩa rõ ràng của nội dung các mục kinh, chú, kệ tụng trong Nhị thời khóa tụng, có thể đọc thêm sách Trùng đính nhị khóa hợp giải do Hưng Từ pháp sư trú trì chùa Hải Thượng Pháp Tạng Giảng trùng đính, thuộc tông Thiên Thai biên soạn. Sách trình bày rõ ràng, khúc chiết, xét nghĩa đạt được sự huyền diệu, có thể giải rõ những nghi ngờ khúc mắc, như hiện ra trước mắt, đáng được phổ biến, người có tâm có thể xem thử.
Quốc sư