Độ điệp là giấy tờ chứng minh thân phận của tăng ni xuất gia do nhà nước cấp phát được lưu hành ở Trung Quốc từ thời cổ đại. Thông thường trên đó ghi chép các nội dung như quê quán, họ tên thế tục, tuổi tác, chùa viện trực thuộc, tăng ni đã thọ giới… Chế độ độ điệp khởi nguyên từ triều Bắc Ngụy (386-534) thời Nam Bắc triều (420-589) kéo dài cho đến triều đại nhà Thanh (1636-1911), trải qua các triều đại đều áp dụng chế độ này. Đến thời Dân Quốc trở về sau bắt đầu có sự thay đổi, tức là do Giáo hội Phật giáo Trung Quốc thuộc các đoàn thể dân gian đứng ra cấp phát. Sau khi nước Trung Quốc mới được thành lập thì do Giáo hội Phật giáo địa phương (hoặc tự viện) cấp phát. Tuy nhiên từ Dân Quốc trở về sau cho đến nay những gì được cấp phát thì là giới điệp chứ không phải là độ điệp. Hiện nay, tác dụng của giới điệp và độ điệp về cơ bản giống nhau, tức là có thể chứng minh thân phận của tăng ni và được sử dụng trong giới Phật giáo (hay trong xã hội). Nhưng tăng ni thời cổ đại có được độ điệp không những có thể chứng minh thân phận của mình, mà còn được bảo vệ một số mặt nào đó do triều đình quy định, đồng thời có thể được miễn trừ thuế khóa và lao dịch.
I. Nguồn gốc của chế độ độ điệp
Vào thời nhà Đường, độ điệp được gọi là “Từ bộ điệp”, tức là sớ điệp do bộ nghi lễ tế tự ban cấp, được viết trên loại lụa mỏng. Thời Bắc Tống dùng giấy để viết, sau đó thời Nam Tống đổi lại dùng lụa mỏng. Điều này thể hiện tính chất quan trọng của độ điệp và địa vị của tầng lớp tăng ni trong một chừng mực nào đó.
Tuy nói chế độ độ điệp đã có từ thời Bắc Ngụy, nhưng tình hình cụ thể như thế nào thì không thể biết rõ. Việc ban cấp độ điệp rốt cuộc bắt đầu từ thời nào cũng chưa thể luận đoán được. Tán Ninh đời Tống căn cứ những gì nói trong “Đường tục hội yếu”, cho rằng độ điệp bắt đầu từ năm Thiên Bảo thứ sáu (747) thời Đường Huyền Tông. Về sau, sách “Đại Tống Tăng sử lược” lại cho là Tán Ninh nói không đúng. Việc ban cấp độ điệp phải có liên quan đến đăng ký danh bạ của tăng ni, thu nhập thuế khóa của quốc gia và nghĩa vụ lao dịch của người dân, cho nên triều đình không thể có một kết luận mơ hồ như vậy. Cố nhiên, thời Nam Bắc triều, phương Bắc đã có chế độ quản lý tăng tịch, việc cấp phát độ điệp cũng không phải là không thể thực hiện, chỉ có điều xác định thời đại cụ thể lại không phải là điều dễ dàng, do tại tình lý mà thôi.
Từ triều Thái Vũ Đế Bắc Ngụy và triều Chu Vũ Đế Bắc Chu, Phật giáo sau hai lần bị hủy diệt đại quy mô, mãi đến những năm đầu đời nhà Đường, nhân số tăng ni toàn quốc chỉ còn khoảng trên dưới mười vạn người. Năm Hiển Khánh thứ sáu (661), Đường Cao Tông độ cho hai mươi vị tăng tại chùa Thiên Quan. Sau đó, mỗi năm ngày một tăng thêm, nhất là vào thời Đường Trung Tông. Theo phản ánh của các đại thần lúc bấy giờ, thời đó liên tiếp xây chùa viện, tốn kém tiền của, nguyên vật liệu rất lớn, lên đến hàng trăm triệu. Rồi độ người xuất gia, người được miễn thuế lên đến mười vạn, kể cả công chúa, ngoại thích đều xin độ người làm tăng ni, lại còn có tư nhân xuất tiền của xây chùa, làm miếu liên tục; còn nhiều nữa, như những nhà giàu có, dân đinh khỏe mạnh cũng tìm đủ trăm phương nghìn kế trốn tránh lao dịch, những chuyện như vậy đâu đâu cũng có. Xem ra cách nói như trên tuy có phần cường điệu, nhưng cũng có thể thấy mức độ tăng ni giả mạo lúc bấy giờ thật là kinh khủng, có thể hình dung ra được, cho nên việc cấp phát độ điệp rõ ràng quá ư là rất dễ dãi.
Sau khi Đường Huyền Tông lên ngôi, do Diêu Sùng nắm giữ quyền chính, ông chủ trương tăng cường quản lý tăng ni. Theo “Cựu Đường thư” quyển 317 ghi chép, nhân bấy giờ phát hiện thầy tăng Huệ Phạm cậy vào công chúa Thái Bình mưu phản loạn chính, thế là triều đình họp bàn sa thải tăng ni. Dù với hàng loạt nguyên nhân, cũng không thể thi hành triệt để được, vì vương triều nhà Đường đối với vấn đề độ tăng vốn được coi trọng từ lúc ban đầu, thật không dễ phủ nhận sự thực ấy. Năm Khai Nguyên thứ mười bảy (729), Đường Huyền Tông ban chiếu ra lệnh cứ mỗi ba năm, tăng ni trong cả nước lập danh bạ một lần để thống kê số lượng tăng nhân. Khoảng những năm niên hiệu Thiên Bảo (741-755), triều đình ban lệnh trình bày nhiều lần việc cấp độ điệp do Từ bộ phụ trách, thực hiện điều này một mặt để hạn chế số lượng người xuất gia tăng nhanh, một mặt cũng có lợi trong việc quốc gia tuyển chọn người tài giỏi xuất gia hợp cách. Đồng thời còn quy định tăng ni nhận độ điệp phải nộp lệ phí, nhân đó, việc độ người làm tăng đối với tầng lớp thống trị phong kiến tự thân cũng là mảnh đất tốt để có thể từ đó thu được những món lợi kinh tế. Như vậy, càng lâu về sau sẽ nảy sinh hiện tượng xuất tiền mua độ điệp.
Vốn dĩ độ điệp được cấp phát cho những người dự thi kinh văn hợp cách (chẳng hạn như trước khi được độ, phải thực hiện các bài thi để lượng định trình độ về đọc, tụng kinh văn, hoặc giải thích kinh luận), nhưng trong việc chấp hành thực tế, vẫn không tránh khỏi tình trạng do đặc ân của hoàng thượng, do nộp tiền bạc… mà nhiều người được độ. Ví như thời Võ Tắc Thiên, sư Pháp Tạng của tông Hoa Nghiêm là người được đặc ân cho xuất gia. Còn như việc nộp tiền bạc, thì lấy tiền nộp hương đèn trà nước để mua độ điệp. Việc này trong xã hội cổ đại càng thấy không ít lần như vậy. Sớm nhất là vào năm Cảnh Long thứ hai (708) thời Đường Trung Tông, có phát sinh tệ nạn bán độ điệp, đó là trường hợp của một người giết mổ, địa vị xã hội rất thấp, nhưng chỉ cần xuất ba vạn tiền có thể được độ là tư cách một tăng nhân.
Về sau, cục diện chính sự quốc gia bất ổn, khói lửa biên cương nổi lên tứ bề, để ứng phó với nền tài chính suy kiệt, việc bán độ điệp hầu như trở thành điều đương nhiên. Từ Huyền Tông Thiên Bảo năm thứ mười bốn (755) đến Đại Tông Quảng Đức nguyên niên (763) là khoảng thời gian tám năm của loạn An Lộc Sơn, mãi đến Ai Đế năm thứ tư (907) là năm triều đại nhà Đường suy vong, trước sau cộng 152 năm (755-907). Trong khoảng thời gian đó, đế quốc Đại Đường từ cường thịnh chuyển thành suy nhược, chế độ trung ương tập quyền thống nhất không còn giữ bộ mặt hình thức nữa mà dần dần mất đi quyền khống chế hữu hiệu đối với quan lại địa phương, thế lực cát cứ phiên trấn bắt đầu từ mới sinh ra rồi dần dần trở nên lớn mạnh, từng bước thôn tính quyền lực bất chính, cho đến khi trở thành đối đầu với triều đình của một thời thạnh trị, để cuối cùng hình thành hai hệ thống độc lập nhau, và đôi lúc có những trận chiến xảy ra. Lớn như cuộc bạo động của Hoàng Sào, tạo nên cảnh điêu tàn khốn khổ cho dân chúng, tình trạng trống rỗng của quốc khố, cuối cùng gây ra mầm loạn thời Ngũ Đại vào cuối đời nhà Đường. Đó là những nét chung chung của toàn bộ đất nước thời Vãn Đường. Trong tình thế như vậy, việc mua bán độ điệp trở thành một trong những con đường mưu cầu lợi ích kinh tế của triều đình và các thế lực cát cứ phiên trấn địa phương, đó cũng là điều không có gì là lạ cả.
Năm Thiên Bảo thứ mười bốn (755), cuộc phản loạn An Lộc Sơn bắt đầu, phía bắc trở thành chiến trường giết hại đẫm máu, quân phí nhanh chóng tăng mạnh, tài chính nhà nước rơi vào tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng, thu không đủ chi, bất đắc dĩ triều đình phải sai người đến Sơn Tây, Thái Nguyên để thu tiền quyên nạp độ điệp tăng ni, đạo sĩ, chỉ trong khoảng mười ngày mà quyên mộ được trăm vạn xâu tiền. Nhân đó, năm sau lấy việc độ tăng ni, đạo sĩ để thu phí. Đường Túc Tông Chí Đức nguyên niên (756), do “quân đông dùng tiền lệ phí độ điệp không đủ”, nên chỉ có thể dùng “quyền bán quan tước và độ tăng ni” để giải quyết vấn đề kinh phí, bấy giờ tiền lệ phí độ điệp đương nhiên phải tăng giá lên đến hơn một tăm xâu tiền cho mỗi phần. Sư Thần Hội, đệ tử của phái Thiền tông Lục tổ Huệ Năng ở phương bắc cũng công khai độ tăng quyên mộ “hương thủy tiền”( tiền hương nước) cho Đường Túc Tông để sung vào quỹ lương hưởng cho quân đội, vì sự bình định chiến loạn ở phương Bắc của vương triều nhà Đường mà sư đã đóng góp một phần cống hiến quan trọng vậy.
Sau loạn An Lộc Sơn - Sử Tư Minh, việc thu nhập tài chính nước nhà dần dần ổn định, việc bán mua độ điệp mới giảm dần trong dự toán tài chính của triều đình. Năm Đại Lịch thứ mười bốn (779), Đường Đại Tông hạ lệnh “Từ nay cấm không được tấu trình việc về chùa, quán và độ người”. Nhưng hiệu quả cũng không có gì rõ ràng, thêm vào đó, do năng lực khống chế của triều đình thiếu cương quyết, kỷ cương lỏng lẻo, nên quan lại địa phương thường dùng việc độ người xuất gia để mưu lợi tiền của. Như theo “Toàn Đường văn - Vương Trí Hưng độ tăng ni trạng” ghi chép, thì tiết độ sứ Từ Châu là Vương Trí Hưng tham lợi không chán, trong một tháng nhằm ngày sinh nhật của Đường Kính Tông, lập tăng đàn tại Tứ Châu độ người xuất gia để mưu đồ thu lợi lớn, dân chúng vùng Giang Nam và Hoài Nam từng đoàn từng tốp vượt sông Hoài Hà lũ lượt kéo nhau về Tứ Châu tham dự thế độ. Mỗi người sau khi được cạo tóc xong xuôi phải nộp một hai xâu tiền và cấp sớ điệp là quay về liền, cơ bản không cử hành bất cứ nghi thức pháp sự nào, độ điệp hoàn toàn trở thành một thứ hàng hóa, có thể bán ra hàng loạt. Tình hình các địa phương khác không như vậy, nhưng cũng không tốt đẹp gì hơn, hiện tượng này tiếp tục cho đến cuối đời Đường, không có sự thay đổi lớn lao nào.
Đến thời nhà Tống, triều đình tăng cường quản lý tăng ni trong các chùa viện, khiến cho họ phát huy vai trò trong việc duy trì ổn định xã hội. Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn từng cảm khái sâu sắc xúc động nói: “Nếu mọi người trong thế gian đều tín ngưỡng đạo Phật, thì ta có thể ngồi an hưởng thái bình!” Lời nói của vị hoàng đế khai quốc đặt nền móng cho vương triều nhà Tống càng có cơ sở đãi ngộ đặc biệt Phật giáo. Còn đối với chế độ độ điệp, nhà Tống kế thừa phương cách truyền thống của nhà Đường, nhưng đồng thời cũng có những nét đặc sắc của mình.
Triều đại nhà Tống kế thừa truyền thống, nhưng việc độ tăng càng nhiều, càng bị lạm dụng, theo thống kê số điệp văn do Từ bộ cấp phát vào thời ấy, chỉ một năm Thiên Hy thứ ba (1019), số tăng nhân được độ lên đến trên 23 vạn người! Còn hiện tượng mua bán độ điệp có tăng mà không có giảm, không những theo giá tiền pháp định, mà giá tiền ấy lại còn mở rộng phạm vi sử dụng một cách tùy tiện và có chiều hướng gia tăng. Năm Nguyên Phong thứ bảy (1084) ban hành quy định cứ mỗi phần độ điệp là 130 nghìn tiền, nhưng tại đạo Quỳ Châu tăng lên đến 300 nghìn, về sau giảm còn 190 nghìn, những năm thời Nguyên Hựu (1086-1093) định giá là 300 nghìn. Nhưng vào thời Nam Tống, năm Thiệu Hy thứ ba (1192), giá tiền lại là 800 nghìn. Qua sự so sánh trên, chúng ta có thể thấy từ Nguyên Phong năm thứ bảy đến Thiệu Hy năm thứ ba, trong khoảng hơn 100 năm ấy, giá độ điệp tăng lên gấp sáu lần, đúng là tăng giá nhanh mạnh một cách khác thường.
II. Những phạm vi sử dụng khác của độ điệp
Điều khiến người ta lấy làm lạ là, độ điệp vào thời nhà Tống, ngoài việc chứng minh thân phận người xuất gia, còn có những phạm vi sử dụng rộng rãi khác. Theo nghiên cứu của học giả đương đại Điền Quang Liệt, có cả thảy trên bảy loại, hầu như đã đảm nhiệm một phần hoạt động kinh tế trọng yếu của hai triều đại nhà Tống (Bắc Tống và Nam Tống), chúng có đặc điểm vô cùng rõ ràng.
Trước hết, độ điệp được dùng làm tư bản. Theo “Tống sử - Thực hóa chí” ghi chép: “Thần Tông thời Bắc Tống, ty chuyển vận Hà Bắc là viên chức Vương Quảng Liêm làm chủ quản từng trình tấu lên nhà vua cấp hàng nghìn đạo điệp văn độ tăng dùng làm tiền vốn; ở Thiểm Tây, Ty chuyển vận tự thực hiện phương cách cho nông dân vay tiền với lãi suất thấp gọi là miêu pháp, mùa xuân phát ra, mùa thu thu về”. Đây là lấy độ điệp làm vốn để mua lúa non, nhằm hạn chế sự bóc lột của những người cho vay nặng lãi, giảm nhẹ gánh nặng cho nhân dân, tăng thêm nguồn tài chính cho triều đình.
Thứ hai, độ điệp dùng làm vốn mua bán trao đổi. Năm Hy Tông thứ sáu (1037), triều đình ban cho Ty chuyển vận lộ Quỳ Châu 500 điệp độ tăng dàn xếp trao đổi với Kiềm Châu. Như vậy là dùng độ điệp làm tiền vốn để mua bán, trao đổi, nhằm ngăn chặn những nhà buôn bán lớn lũng đoạn vật giá, ổn định thị trường, đồng thời cũng tăng thêm thu nhập tài chính cho triều đình.
Thứ ba, độ điệp được dùng cho việc chẩn tế tai ương. Tống Anh Tông Trị Bình năm thứ tư (1067), triều đình cấp điệp độ tăng cho Ty chuyển vận Thiểm Tây, ra lệnh là dùng vào việc thu mua ngũ cốc để cứu tế các châu huyện bị sương giá hay hạn hán. Cũng theo “Tống sử - Thần Tông bổn kỷ” ghi chép, tháng tư năm Hy Ninh thứ ba (1070), triều đình “cấp điệp độ tăng cho ty chuyển vận thuộc hai lộ Lưỡng Triết (tức Lưỡng Triết Đông lộ và Lưỡng Triết Tây lộ, đời Tống), quyên mộ dân nộp lúa gạo cho quan phủ để đổi chức vụ hay chuộc tội”. Mùa hạ năm Hy Ninh thứ bảy (1074) ban điệp văn độ tăng cho An Phủ ty lộ Hoàn Khánh để quyên lúa gạo cứu giúp dân chúng đói kém ở Hán Phiên. Ngoài ra, tháng tám năm Càn Đạo thứ ba (1167) đời Hiếu Tông thời Nam Tống, Tứ Xuyên gặp hạn hán lớn, triều đình hạ lệnh cho ty Chế Trí phát hành 400 điệp văn độ tăng được sở đắc một khoản tiền lớn để dùng vào việc cứu tế dân chúng gặp tai ương. Tháng 5 năm sau (1168), các châu quận trong nước bị đói kém, mất mùa, triều đình phát hành cả nghìn đạo độ điệp, đồng thời “tiếp tục giảm phân phối cho Tứ Xuyên” nhằm trì hoãn cục diện căng thẳng về tài chính của các nơi ấy.
“Tống sử - Hiếu Tông bổn kỷ” ghi, tháng 12 năm Càn Đạo thứ tám (1172), vùng Phúc Kiến, Quảng Đông gặp mưa đá và mưa lớn làm hư hại mùa màng, sau khi triều đình biết tin liền phát hành độ điệp nhằm quyên mộ một số lúa gạo lớn để cứu giúp dân chúng bị tai ương. Tương tự, tháng bảy năm Thuần Hy thứ mười bốn (1187) cả vùng Giang Tây, Hồ Nam xảy ra nạn mất mùa, đói kém trầm trọng, dân chúng gặp nạn chạy vạy tìm mua lúa gạo, triều đình lại dùng việc mua bán độ điệp “để lấy tiền mua lúa gạo phát chẩn cho dân”; đến tháng tám, nhận thấy tình hình tai ương không không thể trì hoãn được, bèn “ban 100 đạo độ điệp, bốn vạn năm nghìn thạch lúa để chẩn cứu cho dân đói kém ở phủ Thiệu Hưng”. Đó là độ điệp được dùng làm phương tiện cứu giúp dân chúng khi mất mùa, đói kém.
Thứ tư, độ điệp được dùng vào việc tuyên dương, khen thưởng những người có công hay người hiếu hạnh. Như “Tống Hội yếu Tập cảo” ghi chép, ngày 26 tháng 10 năm Đại Quan nguyên niên (1107) thời Tống Huy Tông, thầy Hành Khả chùa Dục Vương Sơn thuộc hạt Minh Châu coi giữ chân dung vua Nhân Tông được ban hiệu là sư, và hai đạo độ điệp, xem như là để thưởng công. Ngày 1 tháng 5 năm Kiến Viêm nguyên niên (1127) thời Nam Tống, triều đình ban bố lệnh đại xá, quy định đối với những hài cốt nằm lộ trên mặt đất được chùa sở tại mai táng mỗi lần đạt đến 100 bộ hài cốt và được nha môn trực thuộc chứng nhận rồi báo lên bộ lễ được ban cho một đạo độ điệp để tưởng thưởng. Đến Thiệu Hưng năm thứ hai (1132), lệnh này được đổi thành mỗi lần đạt 200 bộ hài cốt mới được cấp một đạo độ điệp. Ngày 7 tháng 9 năm sau (1133), Đô thống chế các lộ Thiểm Tây kiêm Đô thống chế tuyên phủ xử trí ty là Ngô Giới bẩm báo lên triều đình xin ban biển ngạch cho phần mộ mẹ của mình là Lưu Thị, nhà vua hạ chiếu ban “Báo Công Hiển Thân Viện” làm biển ngạch, và hàng năm cấp một đạo độ điệp. Năm Càn Đạo thứ sáu (1170), tại trấn Mã Đôn Hồ Châu, hành giả Chúc Đạo Thành thu gom và chôn cất hơn 1.260 hài cốt dọc các sông đào, được hoàng thượng ban cấp độ điệp, áo tía và thế độ xuất gia. Tháng 5 năm Càn Đạo thứ tám (1172), vùng Nhiêu Châu mất mùa đói kém triền miên, tăng nhân Thiệu Hy, hành giả Trí Tu nấu cháo phát chẩn cho tổng cộng năm vạn một nghìn ba trăm sáu mươi lăm người; tăng nhân Pháp Truyền, hành giả Pháp Tụ nấu cháo bố thí cho ba vạn tám nghìn năm trăm sáu mươi mốt người. Thế là hoàng thượng hạ chiếu ban cấp độ điệp cho hành giả Trí Tu và Pháp Tụ và được thế độ xuất gia. Tháng 3 năm Càn Đạo thứ 9 (1173), người con trai đất Tự Châu tên là Quách Huệ Toàn đi tu từ nhỏ, mẹ mất, tự gánh đất vun đắp phần mộ cho mẹ, lòng hiếu kính cảm động khắp nơi. Để biểu dương lòng hiếu hạnh của cậu, triều đình ban cho một đạo độ điệp và được thế phát xuất gia. Những việc nêu trên là dùng độ điệp để khen tặng, tuyên dương cho những người có công trạng hoặc có hành vi hiếu nghĩa, tiết hạnh.
Thứ năm, triều đình dùng độ điệp bổ khuyết cho quân phí, việc này y theo cách làm thời nhà Đường. Thời Nam Tống, tộc người phương bắc mở những cuộc chiến lớn đánh xuống phương nam, việc quân cấp bách, tài chính trống rỗng, triều đình ứng phó một cách nhọc nhằn, thế là bắt đầu nghĩ đến việc sử dụng độ diệp. Tống sử - Cao Tông bản kỷ, tháng 8 năm Thiệu Hưng thứ 9 (1139) ghi: “Cấp độ điệp, áo tía, danh hiệu sư tăng theo kiểu Tân pháp thu tiền hai trăm vạn xâu tiền ứng phó cho quân khố của Thiểm Tây”. Thiệu Hưng năm thứ 11 (1141), quân Tống và quân Kim kịch chiến ở Lư Châu, “ngày đầu tháng ba năm Canh Tý Trương Tuấn bán ruộng và bán độ điệp thu tiền sáu mươi ba vạn xâu tiền bổ sung cho quân dụng”. Tháng Giêng Ất Mùi Gia Định năm thứ 11 (1218), “bán nghìn điệp văn độ tăng lấy tiền cấp cho Tứ Xuyên để ổn định kinh phí”. Tháng 4 năm Canh Tuất Thuần Hựu năm thứ bảy (1247), “xuất nghìn vạn xâu tiền, mười lăm vạn lượng bạc, hàng nghìn đạo từ điệp, và năm nghìn vạn lượng bạc ở kho bộ hộ giao cho Đốc thị hành phủ Triệu Quỳ điều dụng”. Cách làm này đâu đâu cũng có, cũng là một loại tác dụng đặc biệt của việc mua bán độ điệp.
Thứ sáu, độ điệp được xem là thứ tiền tệ để sử dụng. Vương triều Lưỡng Tống là thời đại tương đối đặc biệt, đối với cách sử dụng độ điệp có phần mới mẻ, mà trình độ của nó có thể nói là vô tiền tuyệt hậu. Ví như lấy độ điệp để kinh doanh buôn bán, đảm nhận chức năng của tiền tệ. Tống sử - Thực Hóa chí ghi: Bắc Tống, năm Hy Ninh thứ bảy (1074), vua Tống Thần Tông “sai Lý Kỷ chủ quản thừa biện tam ty vào đất Thục có kế hoạch mua trà cung cấp cho các lộ Tần Phượng, Hy Hà để làm kinh phí mua ngựa, vì có ngựa hay của người vùng phía Tây đưa vào biên giới, mà người ở vùng đó lại rất ưa thích trà, và trà đang khan hiếm trên thị trường. Liền ban chiếu cho Lý Kỷ thấy có đủ trà thì theo đường thủy, đường bộ chuyển vận đến. Rồi lấy 10 vạn lượng bạc, 2 vạn 5 nghìn tấm vải, 500 đạo độ điệp để làm kinh phí chi trả…”. Rõ ràng, đây là một ví dụ điển hình về độ điệp đảm nhận vai trò là một thứ tiền tệ để sử dụng.
Cuối cùng, mua bán độ điệp để hỗ trợ cải cách chế độ tiền tệ của triều đình, đây là một loại hạ sách trong đường lối sử dụng chế độ độ điệp thời nhà Tống. Ví như thời Nam Tống, năm Thiệu Hy thứ ba (1192) đời Quang Tông, “phát hành hai trăm độ điệp để đổi thu lại tiền bằng sắt ở Hoài Đông”, là một bằng chứng rõ ràng sử sách còn ghi lại.
Tổng hợp những điểm nêu trên, chúng ta nhận thấy do tình thế bức bách, tầng lớp thống trị phong kiến thời nhà Tống đã phải sử dụng hàng loạt biện pháp bất đắc dĩ để củng cố địa vị thống trị của mình, khiến cho chế độ độ điệp của Phật giáo trong đời sống xã hội đương thời phải đảm nhận một số vai trò đặc biệt nhưng vô cùng tích cực. Ví như độ điệp dùng làm tư bản để trao đổi hàng hóa, dùng làm tiền vốn trong mậu dịch, dùng vào việc cứu tế tai ương, dùng để khen thưởng, tuyên dương, đảm nhiệm quân phí, hỗ trợ cải cách tiền tệ, thậm chí trực tiếp làm tiền tệ để chi phó, sử dụng… Tất cả những cách làm ấy, theo chủ trương của Phật giáo mà nói thì vô cùng mạo phạm đối với quy chế xuất gia; cũng chứng tỏ tầng lớp thống trị phong kiến do nhu cầu duy trì và bảo vệ nền thống trị của họ có thể không biết chọn phương cách nào nên chế độ độ điệp trở thành công cụ trong tay họ tùy ý thao túng. Đó là điều bất hạnh nhất trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc. Nhưng những người xuất gia sau khi nhận độ điệp, họ có thể được miễn thuế đinh, miễn lao dịch, bảo vệ được tài sản, và trong một chừng mực nào đó, điều này cũng có thể giảm bớt gánh nặng kinh tế cho một số người, khiến họ yên tâm theo đuổi sự nghiệp Phật pháp, đồng thời cũng giảm nhẹ trong mức độ nào đó tình trạng mâu thuẫn gay gắt giữa triều đình và dân chúng. Cho nên từ những điều nêu trên, việc mua bán độ điệp trở thành hiện tượng phổ biến từ đời Đường đến đời Tống không còn là điều khó lý giải nữa! Chính vì độ điệp thời bấy giờ có tác dụng to lớn như vậy, nên chính quyền địa phương cũng nhao nhao tranh nhau theo đuổi với ý đồ kiếm được một phần lợi lộc, từ đó dẫn đến hiện tượng các thế lực địa phương mua bán độ điệp lan ra khắp nơi, thậm chí phát sinh tình trạng ngụy tạo độ điệp.
III. Chế độ độ điệp sau thời Nam Tống
Thời Nam Tống, do cương vực bị thu hẹp rất nhiều, thu nhập của triều đình bị giảm thiểu, để mở rộng đường hướng cho nguồn tài chính, tháng Giêng năm Tân mùi Thiệu Hưng thứ 15 (1145), triều đình hạ lệnh “tăng nhân, đạo sĩ phải nộp thuế đinh”. Càn Đạo năm thứ bảy (1171) ban chiếu “tự viện, đạo quán không miễn sưu thuế và lao dịch”. Tháng Giêng năm Thuần Hy thứ năm (1178), nhà vua lại “bãi bỏ đặc chỉ miễn đại thần, quan lại, và chùa, quán thuế khóa, lao dịch”. Xưa nay, miễn đinh, miễn thuế và miễn lao dịch là đặc quyền đặc lợi của Đạo giáo và Phật giáo mà tầng lớp thống trị các triều đại phong kiến Trung Quốc dành cho, nhưng triều đình Nam Tống bãi bỏ ngay cả điều này, từ đó chúng ta có thể thấy mức độ đáng sợ của nguy cơ mâu thuẫn nội bộ tầng lớp thống trị. Cho dù là vậy, nhưng tăng ni lại có thể được hưởng một số quyền lợi khác. Ví như độ điệp vẫn có giá trị nhất định, nên căn cứ những ghi chép của Tống Hội Yếu tập cảo thì đến năm Thiệu Hưng thứ 27 (1157), các châu, huyện vẫn tồn tại việc bán độ điệp của những vị tăng đã mất mà không phải nộp tờ trình lên Từ bộ.
Đời Minh, tăng ni vẫn bảo lưu chế độ độ điệp, nhưng phạm vi sử dụng của độ điệp rõ ràng có giảm bớt, không còn hàng loạt tệ nạn như thời Lưỡng Tống. Minh sử - Thực hóa chí ghi: Năm Hồng Vũ thứ 14 (1381) thời Minh Thái Tổ, từng ban chiếu lệnh cho thiên hạ biên vào sách vàng về thuế khóa và lao dịch, quy định “tăng nhân, đạo sĩ được cấp phát độ điệp, người có ruộng thì biên vào sổ như hạng dân chúng, người không có ruộng thì ghi riêng”. Triều đình vẫn kế thừa chế độ độ điệp như các triều đại trước và đưa ra ba yêu cầu cơ bản: Một là hạn chế số người làm tăng ni; hai là tăng tục phải được phân cách; ba là phải thi cử mới cấp độ điệp. Sau khi những quy chế ấy được xác lập, trải qua bốn triều đại Kiến Văn, Vĩnh Lạc, Hồng Hy, Tuyên Đức đại thể đều tuân hành, không xuất hiện vấn đề gì quá to tát.
Nói chung, những năm đầu của triều đại nhà Minh, việc thực hiện chế độ độ điệp, tiêu trừ những tệ đoan của thời nhà Tống đã có tác dụng nhất định, thế nhưng điều này hoàn toàn chưa đủ để nói rằng chế độ độ điệp thời nhà Minh không có những vấn đề tồn tại. Từ thời Chính Thống trở về sau, tùy vào biến chuyển của thời gian, việc cấp phát độ điệp bắt đầu có dấu hiệu lan rộng, định mức ban cấp độ điệp mất hiệu lực. Để khống chế số tăng ni xuất gia, có người đề xuất thay vì ba năm tổ chức độ tăng một lần như trước, thì nay mười năm độ tăng một lần. Như Tây Viên Văn Kiến lục ghi: Năm Cảnh Thái nguyên niên (1450), Lý Hiền từng tâu “Hạng người này vừa hao tốn vừa vô ích, nên mười năm mới tổ chức một lần”. Nhưng cố gắng này vấp phải trở ngại của thế lực tôn sùng đạo Phật trong triều đình, nên đó cũng chỉ là lời tấu không thể thành hiện thực, vì vậy qua năm sau (1451), có người lại dâng tấu “Gần đây tuân phụng chiếu lệnh của hoàng hậu độ tăng ba vạn”. Tháng bảy năm ấy, triều đình đặt ra lệ nộp lúa gạo được cấp độ điệp, đây là một thay đổi lớn trong lịch sử chế độ độ điệp Trung Quốc. Đặt ra lệ ấy về sau không thể thu lại. Từ khi Tả thị lang bộ hình La Ỷ đến Tứ Xuyên đốc vận lương chở hai mươi vạn thạch tiến về Quý Châu, giữa đường thấy dân chúng vùng Xuyên lao nhọc tiều tụy quá mức, nên yêu cầu thay đổi cách thức vận chuyển bao gồm cả “tăng nhân, đạo sĩ ai nấy nộp năm thạch gạo thì được cấp độ điệp”. Năm Cảnh Thái thứ tư (1453), bộ Hộ tấu trình việc tiễu trừ “bọn làm giặc” ở Bá Châu, nhân lương hướng không đủ, dân vùng Xuyên cực nhọc khốn khó, xin chuyển văn thư đến Tứ Xuyên ra lệnh cho dân vùng này nộp đầy đủ lương thực để chuyển vận đến Bá Châu, phàm “tăng nhân, đạo sĩ ai muốn được cấp độ điệp phải nộp năm thạch gạo”. Một loạt sự việc như vậy đã xảy ra… Đến năm Thiên Thuận nguyên niên (1457), tình hình càng trở nên nghiêm trọng. Theo sử liệu ghi chép “lúc bấy giờ tại kinh thành, chùa, quán lên đến hàng trăm, hàng nghìn; tăng nhân, đạo sĩ không biết bao nhiêu mà kể. Cầu tài khất thực đầy đường nghẽn lối, treo giăng thiên thần, Phật tượng, rành lời họa phúc, mượn danh xây chùa viện, dựng đạo quán, mưu đồ tư lợi, vinh thân phì gia, ăn uống rượu thịt, qua đêm nơi kỹ viện, tiêu pha chơi bời, không gì là không làm. Lại còn có trò đốt hương nung tay, chích da cắt thịt, nhìn xem kinh hãi, xúi bậy lòng người, không chỉ tham lam, độc ác đối với dân chúng, mà còn làm tổn thương nền phong hóa bao đời nay”. Đó đều là hậu quả bất lương từ việc mua bán độ điệp tạo ra.
Đến năm đầu đời Thành Hóa, Minh Hiến Tông lên ngôi, ông cảm thấy vấn đề mua bán độ điệp vô cùng nghiêm trọng. Ông nghe theo những kiến nghị của triều thần, trực tiếp ra tay giải quyết vấn đề, hạ lệnh tuyên bố cùng thiên hạ, trước tiên xử lý những tăng ni, đạo sĩ không có độ điệp:
Tăng nhân các nơi tuổi từ hai mươi trở lên, người nào không có độ điệp, theo chiếu thư này đến ngày hạn định phải hoàn tục, nếu có người man khai tuổi tác hay trốn tránh không chịu hoàn tục, phát hiện được, kể cả bổn sư cũng bị hỏi tội không tha.
Thế nhưng do từ thời Chính Thống đến nay, tăng ni phát triển tràn lan đã hình thành trào lưu lớn mạnh, nên trong khoảng thời gian ngắn khó có thể chuyển biến ngược lại được, còn khôi phục như những năm đầu triều nhà Minh là bất khả thi. Thứ nữa, tự thân triều đình lại đi theo lối khác, tức là chính vua Hiến Tông nghe theo lời cầu thỉnh của hoàng thân quốc thích, tăng nhân, đạo sĩ, nếu xin ban cấp độ điệp thì một mực chấp thuận, từ đó dẫn đến việc phát hành một số lượng lớn độ điệp, thêm vào đó lúc bấy giờ trong nước tự nhiên xảy ra những tai họa nghiêm trọng, một số lớn lưu dân xuất hiện, đi lang thang khắp nơi, chính quyền địa phương phải dùng phương cách bán độ điệp để lấy tiền cứu trợ. Như vậy, chiếu lệnh của triều đình chẳng qua chỉ như một tờ giấy trắng không có cách gì thực hành được.
Nhân đó, thời Thành Hóa (1465-1485) không những biện pháp xử lý tăng ni không có độ điệp không đạt hiệu quả nào đáng kể, mà hành vi mua bán độ điệp lại có tăng không có giảm, cơ bản tạo thành cục diện suy đồi hoang phế. Đặc biệt là việc nộp lúa gạo để được cấp độ điệp hầu như là chuyện thường tình, và độ điệp bắt đầu trở thành một trong những nguồn thu nhập tài chính của vương triều nhà Minh. Có lúc độ tăng ngoài hạng mức thường thường là vạn người hoặc nhiều hơn cả số vạn. Năm Thành Hóa thứ ba (1477), Tả phó đô ngự sử Hà Nam là Trương Tuyên, nhân Hà Nam bị lụt lội tàn hại, ông đưa ra mười điều kiến nghị cứu đói, trong đó có mục tăng, đạo miễn thi mà chỉ nộp tiền là được cấp độ điệp, nhà vua chấp thuận, có điều năm ấy không phải là năm thuộc chương trình mười năm cấp độ điệp một lần như chiếu lệnh đã ban trước đó. Năm Thành Hóa thứ 20 (1484), triều đình cấp một vạn tờ khống chỉ dùng vào việc cấp độ điệp. Tháng 12 năm ấy lại dự trù độ tăng, đạo trong toàn quốc sáu vạn người; rồi độ thêm sáu vạn nữa cho những ai nạp 12 lượng bạc. Sau đó đúng là mười năm độ tăng, đạo một lần, và như vậy trước sau độ bảy vạn người. Đến năm Thành Hóa thứ 22 (1486), theo thống kê của bộ lễ lúc bấy giờ, số tăng nhân, đạo sĩ trên toàn quốc lên đến mười một vạn người, bộ lễ dâng tấu sớ xin đình chỉ độ tăng, đạo, nhà vua mới đồng ý, việc cấp phát độ điệp giảm thiểu. Nhưng tố chất của toàn bộ tăng ni cũng đã sớm có dấu hiệu xuống cấp.
Sau khi Minh Hiếu Tông lên ngôi, khoảng những năm Hoằng Trị (1488-1502) là thời kỳ tương đối tỏ rõ việc hạn chế cấp phát độ điệp của triều nhà Minh, nhưng nếu nói khôi phục được như thời kỳ đầu nhà Minh là điều bất khả thi. Quả nhiên, đến thời kỳ Chính Đức bắt đầu lại chế độ độ tăng, đạo và khôi phục quy chế mười năm cấp độ điệp một lần, cơ bản đạt đến cục diện của thời Thành Hóa, nghĩa là số hạng mức bán độ điệp rất lớn, lại thêm việc cấp phát độ điệp cho tăng nhân phái Lạt Ma cũng rất nhiều.
Thời trung diệp Gia Tĩnh trở về sau, việc bán độ điệp bắt đầu trở thành chính sách có tính liên tục, là hạng mục thu nhập tài chính theo lệ thường của triều đình, tinh thần của những quy chế đầu đời Minh hoàn toàn bị bãi bỏ. Như vậy, việc phát triển tăng, đạo hầu như mất hẳn sự khống chế của chính quyền. Thời Gia Tĩnh trở về trước thường có những cuộc tranh luận không dứt về vấn đề cấp phát độ điệp; thời Gia Tĩnh giữa và về sau thì không còn là đối tượng tranh luận nữa, sau này các triều Mục Tông, Thần Tông, Quang Tông, Hy Tông dù có tấu sớ kêu gọi hạn chế số lượng tăng nhân, đạo sĩ, nhưng việc cấp phát độ điệp thì không được ghi chép một cách liên tục, trong đó tình hình thế nào không nói cũng nhận ra.
Triều Thanh đại để cũng kế thừa thực thi quy chế của triều Minh, trước khi nhập quan, họ đã thực hiện chế độ độ điệp, họ chỉ chú tâm vào việc cai trị xã hội, chứ ít chú tâm đến những quy tắc về tôn giáo, Thế Tổ Thuận Trị năm thứ tám (1651), tăng, đạo được cấp độ điệp mà miễn nộp tiền. Sau đó gộp thuế điền (tức thuế ruộng đất) và thuế đinh (tức thuế đầu người) thành một loại thuế gọi là “địa đinh”. Lấy đất quy vào đầu người, không cần báo điệp miễn dịch. Nhưng để hạn chế số lượng tăng ni tăng vọt, vẫn phải thực hiện nghiêm túc chế độ cấp phát độ điệp.
Năm Khang Hy thứ sáu (1667), bộ lễ đã làm thống kê số lượng chùa viện và tăng ni lúc bấy giờ, ở các tỉnh, chùa công loại lớn có sáu nghìn lẻ bảy mươi ba ngôi, chùa công loại nhỏ có sáu nghìn lẻ bốn mươi chín ngôi; đồng thời còn có chùa tư, loại lớn có tám nghìn bốn trăm năm mươi tám ngôi, loại nhỏ có năm vạn tám nghìn sáu trăm tám mươi hai ngôi, cả hai hợp lại là bảy vạn chín nghìn sáu trăm hai mươi hai ngôi. Nói một cách khác, chùa viện Phật giáo không kể chùa công hay chùa tư cũng xấp xỉ tám vạn ngôi; còn số lượng tăng nhân có mười một vạn lẻ bảy trăm chín mươi hai người và ni chúng có tám nghìn sáu trăm mười lăm người, tổng cộng mười một vạn tám nghìn chín trăm lẻ bảy người, tức gần mười hai vạn người. Đó là những con số trên sách sử Trung Quốc chưa được chính xác cho lắm, nhưng những con số ấy cũng khiến cho triều đình nhà Thanh không thể không chú ý đến vấn đề chùa tư tự độ tăng ni, tức là cần khống chế việc cấp phát độ điệp. Hoàng đế Khang Hy từng ban bố chiếu thư hạ lệnh, trước tiên hạn chế số lượng chùa, quán và tăng ni, đạo sĩ để bảo đảm nguồn thu nhập tài chính quốc gia.
Thời Ung Chính, do buông lỏng quản lý tăng nhân, đạo sĩ, nên độ điệp mất đi hiệu lực. Những năm đầu thời Càn Long lại khôi phục chế độ độ điệp. Biện pháp này kéo dài mãi đến năm Càn Long thứ 39 (1778) nhà vua ban bố chỉ dụ ra lệnh cấm chỉ: “Độ điệp của tăng, đạo vốn không thuộc những việc quan yếu, nhưng điều tra tội trạng thì khớp với tội quấy rối trị an, cho nên vĩnh viễn cấm chỉ”. Từ đó, chế độ độ điệp lưu truyền cả nghìn năm trong giới Phật giáo Trung Quốc kết thúc.
Thời Dân Quốc trở về sau, không còn việc ban cấp độ điệp nữa, chỉ còn lại chế độ giới điệp. Giới điệp do Hiệp hội Phật giáo thống nhất Trung Quốc thẩm định cấp phát, nó trở thành giấy tờ chứng minh thân phận của tăng nhân trong phạm vi nhất định nào đó.
Nghĩa Tịnh dịch kinh