Chế độ an cư đầu tiên xuất phát từ Bà la môn giáo thời Ấn Độ cổ đại, về sau được Phật giáo sử dụng. Theo kinh Du hành ghi chép, trong khoảng thời gian bốn mươi chín năm thuyết pháp truyền giáo của đức Phật, Ngài đã nhiều lần dẫn dắt đệ tử đến an cư ở nhiều nơi khác nhau. Thông thường người ta cho rằng địa điểm đức Phật an cư đầu tiên là tại Vườn Nai (Lộc Dã uyển). Về sau an cư kết hạ (người Việt Nam thường gọi là “kiết hạ”) ba tháng tại tinh thất Ca-na-da trên núi Chi-đề-na ở Tích Lan (nay là Sri Lanka). Đến nay, các quốc gia theo Phật giáo Nam truyền như Tích Lan vẫn duy trì những quy định của luật tắc mà thực hành chế độ an cư, và có tên là “kết hạ an cư”.
Kết hạ An cư còn gọi là “Hạ an cư” hay “vũ cư”. Lý do là vì mùa mưa của Ấn Độ cổ đại kéo dài trong ba tháng, đức Phật quy định là cấm chỉ tăng ni không được đi ra ngoài, Ngài cho rằng vào thời kỳ ấy vạn vật sinh nở, ra ngoài đi lại rất dễ giẫm đạp làm thương tổn đến côn trùng, cây cỏ, nên phải ở yên một chỗ, ngồi thiền tu học, tiếp nhận cúng dường. Đây là thời gian gọi là “kỳ an cư”.
Theo những điều nói trong “Tứ Phần luật”, an cư chỉ dành cho năm giới xuất gia gồm tỳ khưu, tỳ khưu ni, thức xoa ma na, sa di và sa di ni thực hành; còn nam cư sĩ [ưu bà tắc] và nữ cư sĩ [ưu bà di] có thể không thực hành an cư. Ngoài ra, trong năm giới xuất gia ấy, tỳ khưu, sa di an cư tu hành với nhau, tỳ khưu ni, sa di ni, thức xoa ma na an cư tu hành với nhau.
Địa điểm an cư thường ở dưới gốc cây, trong ngôi nhà nhỏ, trong thạch thất, nơi bộng cây, trên ghe thuyền, nơi thôn xóm... Hoặc có thể an cư nơi nhà người chăn trâu, người ép dầu, người đẵn gỗ… Nhưng không được an cư ở nơi không có người cứu hộ, nghĩa địa, hay ngoài đường đi lại. Trước khi an cư, phải sửa sang phòng ốc, đồng thời phân phối phòng ốc, đồ dùng sinh hoạt cho đại chúng một cách công bằng. Khi vào an cư, đối ứng với nơi và người y chỉ để cùng an cư, vị tỳ khưu có đức hạnh trình bày mục đích an cư rồi mới được vào an cư, như vậy gọi là “đối thủ an cư” [tức là hai bên ngồi đối mặt nhau trong kỳ an cư]; nếu không có người để y chỉ cùng an cư, thì tự trong tâm mình trình bày mục đích an cư, rồi sau đó mới vào an cư, như vậy gọi là “tâm niệm an cư” [tức tự mình nghĩ trong tâm mà an cư, không có người đối ứng].
Trong thời kỳ an cư, thông thường cấm không được đi ra ngoài, nếu không sẽ bị vi phạm giới luật. Nhưng nếu đi và trở về trong ngày thì có thể được phép; trường hợp đặc biệt, và được tăng già đồng ý, cũng có thể ra ngoài, thời gian hạn định trong khoảng một tuần, hoặc mười lăm ngày. Nếu phạm luật đi ra ngoài, phạm tội làm việc ác, thì bị truy là tội “phá an cư” hoặc “phá hạ”, người vi phạm sẽ bị tước quyền tiếp nhận sự phân phối vật dụng trong mùa an cư. Nếu vì gặp những sự chuyện như rắn độc, thú dữ, hỏa hoạn, thủy tai, chính biến, trộm cướp, đói kém, người thân ngăn trở… thì không bị kết tội.
Thời hạn an cư thông thường là ba tháng gọi là “nhất hạ cửu tuần” chín tuần hạ, theo Ấn Độ thì mỗi tuần là mười ngày. Ngày an cư bắt đầu từ ngày 16 tháng tư âm lịch và kết thúc vào ngày 15 tháng bảy âm lịch; ngày tiếp theo là ngày “tự tứ”, gọi là “tiền an cư” [an cư đợt đầu]; nếu bắt đầu từ ngày 16 tháng năm và kết thúc vào ngày 15 tháng tám gọi là “an cư đợt giữa” [trung an cư]; còn nếu lấy ngày 16 tháng sáu là ngày bắt đầu thì gọi là “an cư đợt cuối” [hậu an cư].
Thông thường người ta nói ngày đầu tiên an cư gọi là “kết hạ” (vào hạ), ngày kết thúc viên mãn gọi là “giải hạ” (ra khỏi kỳ hạ ẩn cư), “quá hạ” (đã trải qua kỳ hạ an cư), “An cư cánh” (chấm dứt kỳ an cư). Trong khoảng thời gian giữa kết hạ và giải hạ được gọi là “bán hạ”. Sau kỳ an cư viên mãn, đại chúng ai nấy cần phải tự mình nhìn lại những hành vi của mình trong kỳ an cư, nếu có sai phạm thì tự mình phải nói ra, để cùng sám hối, gọi là “Tự tứ” (tứ nghĩa là buông thả, phóng túng, tự tứ tức là tự mình đã có những hành vi buông lung, sai trái trong kỳ an cư), ngày đó gọi là ngày Tự tứ hay ngày Phật hoan hỷ. Kết thúc kỳ an cư phải bãi bỏ quy định cấm chỉ đi ra ngoài. Lại nữa, sau kỳ an cư, tỳ khưu, tỳ khưu ni đều được tăng tuổi một pháp lạp (hạ lạp). Pháp lạp là tiêu chuẩn quy định thứ tự lớn nhỏ của người xuất gia.
Do an cư phần lớn được cử hành vào mùa hạ, nên có thói quen gọi là “hạ tọa” hay “tọa hạ”, nghĩa là tọa thiền tĩnh tu trong mùa hạ. Nhưng cũng có an cư vào mùa đông, và gọi là “đông an cư”, như vùng Tây bộ Trung Quốc, hay ở Nhật Bản phần nhiều có chế độ này. Sớm nhất vào thời Diêu Tần (384 - 417), do việc dịch truyền giới luật (như Thập tụng luật, Quảng luật…) mà Trung Quốc bắt đầu thực hành chế độ an cư. Dù chế độ ấy có nguồn gốc từ Ấn Độ, nhưng do khác biệt về phong thổ, dân tình, giới Phật giáo Trung Quốc không tiếp nhận toàn bộ phương cách của Ấn Độ, mà thay đổi một vài chỗ cho phù hợp với thực tế, như vào ngày tự tứ, tỳ khưu Ấn Độ dùng cỏ tranh (là cỏ cát tường) kết thành đệm ngồi, rồi tự mình ngồi trên đó để tự tứ, Trung Quốc thì hoàn toàn chưa từng làm như vậy. Đời Tống, tăng lữ của một tự viện ở Giang Nam vào ngày giải hạ thay nhau lấy cỏ tranh tặng cư sĩ.
Ngoài ra, người Trung Quốc còn có chủ trương tùy ý tùy nơi mà thực hành an cư, chứ không giới hạn thời kỳ an cư, cho nên không xem ba tháng an cư là việc tất yếu phải thực hành. Trong “Bách Trượng thanh quy” cũng không ghi chép gì về thực hành an cư. Cho dù như vậy, tự viện của một số địa phương ở Trung Quốc vẫn thực hành chế độ an cư theo định kỳ mãi cho đến ngày nay.
Chọn đất xây chùa