M
ục sư Samuel Oakshott, tiến sĩ tốt nghiệp trường Oxford, đứng ở chính giữa sân khấu, hai chân cách rời nhau. Ông hiền từ đưa mắt nhìn xuống bầy con chiên của mình, vì đó chắc chắn là cách thầy hiệu trưởng của St Bede nhìn nhận các học sinh.
Harry, ngồi trên hàng ghế đầu, chăm chú ngước mắt nhìn lên thân hình đáng sợ đang sừng sững tựa như một tòa tháp phía trên cậu. Tiến sĩ Oakshott cao hơn sáu foot(13), thầy có một mái tóc dày màu xám và hai bên râu má dài rậm, càng làm dáng vẻ bên ngoài của ông thêm đáng sợ hơn. Đôi mắt sâu màu xanh của ông như nhìn xuyên thấu qua bạn, và dường như ông không bao giờ chớp mắt, trong khi những nếp nhăn ngang dọc trên vầng trán thầy hiệu trưởng cho biết ẩn sau chúng là một trí tuệ kiệt xuất. Ông hắng giọng trước khi bắt đầu nói chuyện với các cậu bé.
13. 1 foot = 30,48 cm
“Hỡi các học sinh St. Bede”, thầy hiệu trưởng bắt đầu nói. “Chúng ta lại một lần nữa tập trung cùng nhau vào ngày đầu tiên của một năm học mới, và hẳn đã chuẩn bị sẵn sàng để đối diện với bất cứ thách thức nào đặt ra trước chúng ta. Với các trò năm cuối”, thầy hướng sự chú ý về phía cuối hội trường, “các trò sẽ không có một giây nào để lãng phí nếu các trò hy vọng giành được một chỗ tại trường học là lựa chọn số một của các trò. Đừng bao giờ hướng tới lựa chọn tốt thứ nhì”.
“Với các trò năm giữa”, đôi mắt thầy chuyển tới giữa hội trường, “đây sẽ là thời điểm chúng ta khám phá xem ai trong số các trò có triển vọng đạt được những điều lớn lao hơn. Khi các trò quay lại trường vào năm sau, liệu các trò sẽ là giám thị, lớp trưởng, trưởng nhà nội trú hay đội trưởng đội thể thao? Hay các trò chỉ đơn giản là một người trong số còn lại?” Có mấy cậu bé cúi đầu xuống.
“Trách nhiệm tiếp theo của chúng ta là chào đón các em học sinh mới, và làm tất cả những gì trong quyền hạn của chúng ta để giúp các trò mới cảm thấy như ở nhà. Họ sẽ lần đầu tiên được trao cho cây gậy tiếp sức khi bắt đầu cuộc đua đường dài của cuộc đời. Nếu thử thách tỏ ra quá khắc nghiệt, một hay hai người trong số các trò có thể sẽ quỵ ngã bên đường”, thầy cảnh báo, nhìn chằm chằm xuống ba hàng ghế đầu tiên. “St. Bede không phải là ngôi trường dành cho những kẻ yếu đuối. Hãy đoan chắc các trò sẽ không bao giờ quên những lời Cecil Rhodes(14) vĩ đại từng nói: 'Nếu anh đủ may mắn để được sinh ra là một người Anh, như thế có nghĩa là anh đã trúng giải độc đắc trong trò xổ số của cuộc đời’”.
14. Cecil Rhodes (1853 - 1902), chính trị gia, doanh nhân người Nam Phi gốc Anh, người sáng lập ra thuộc địa Rhodesia của Anh (ngày nay là Zambia và Zimbabwe)
Cả hội trường đồng loạt vang lên tiếng hoan hô khi thầy hiệu trưởng rời khỏi sân khấu, theo sau là một đoàn các giáo viên được ông dẫn xuống lối đi ở giữa hội trường, rời khỏi đại sảnh ra bên ngoài và bước vào trong ánh mặt trời buổi sáng.
Harry, tinh thần trở nên phấn chấn hẳn, quyết tâm sẽ không để thầy hiệu trưởng thất vọng. Cậu theo sau các học sinh lớp trên ra khỏi hội trường, nhưng ngay khoảnh khắc cậu vừa đặt chân ra ngoài, niềm hứng khởi của Harry đã bị dội một gáo nước lạnh. Một đám học sinh lớn tuổi hơn đang nấn ná lại trong góc, hai tay đút túi quần, dấu hiệu chứng tỏ bọn họ đều là các giám thị.
“Nó kia rồi”, một anh chàng trong nhóm thiếu niên nọ lên tiếng, chỉ tay về phía Harry.
“Vậy ra một đứa trẻ ranh đường phố trông như thế đấy”, một cậu khác nói.
Một người thứ ba, mà Harry nhận ra chính là Fisher, tay giám thị trực ban tối hôm trước, nói thêm, “Nó là một con vật, và trách nhiệm của chúng ta không gì khác hơn là tìm cách đưa nó trở lại đúng môi trường tự nhiên của nó càng nhanh càng tốt”.
Giles Barrington chạy theo sau Harry. “Nếu cậu tảng lờ bọn chúng đi”, cậu ta nói, “chẳng mấy chốc bọn chúng sẽ phát chán và bắt đầu chọn ai khác để sinh sự”. Harry không hề thấy được thuyết phục, và chạy một mạch đến lớp học trước rồi ngồi đợi Barrington và Deakins đến gia nhập cùng mình.
Một lát sau, thầy Frobisher bước vào phòng. Ý nghĩ đầu tiên của Harry là liệu ông có nghĩ cậu là một đứa trẻ ranh đường phố, không xứng đáng có một chỗ tại St. Bede không?
“Chúc các trò buổi sáng tốt lành”, thầy Frobisher nói.
“Chúc thầy buổi sáng tốt lành”, các cậu bé đáp lời trong khi người thầy của chúng đi tới chỗ của ông trước bảng đen. “Tiết học đầu tiên sáng hôm nay của các trò”, ông nói, “sẽ là môn lịch sử. Vì tôi rất nóng lòng muốn tìm hiểu về các trò, chúng ta sẽ bắt đầu bằng một bài kiểm tra đơn giản để xem xem các trò đã được học nhiều đến đâu, hay cũng có thể là ít đến mức nào. Vua Henry Đệ Bát(15) có bao nhiêu bà vợ?”
15. Henry VIII (1491 - 1547), vua Anh từ năm 1509 đến 1547.
Vài cánh tay giơ lên. “Abbott”, thầy giáo gọi tên, nhìn xuống bản sơ đồ trên bàn của thầy và chỉ tay vào một cậu bé ngồi ở dãy ghế đầu.
“Sáu ạ, thưa thầy”, câu trả lời lập tức được đưa ra.
“Tốt, nhưng ai có thể liệt kê được tên của họ không?” Không còn nhiều cánh tay giơ lên nữa. “Clifton?”
“Catherine xứ Aragon, Anne Boleyn, Jane Seymour và thêm một người nữa tên là Anne, em nghĩ vậy”, cậu bé nói trước khi ngừng lại.
“Anne xứ Cleves. Ai có thể nói được hai cái tên còn lại nào?” Chỉ còn lại một cánh tay đang giơ lên. “Deakins”, thầy Frobisher gọi tên sau khi kiểm tra lại sơ đồ.
“Catherine Howard và Catherine Parr. Cả Anne xứ Cleves và Catherine Parr đều sống lâu hơn Vua Henry ạ”.
“Rất tốt, Deakins. Bây giờ, chúng ta hãy vặn đồng hồ tiến lên vài thế kỷ. Ai đã chỉ huy hạm đội của chúng ta trong trận Trafalgar?” Tất cả các học sinh trong phòng cùng đồng loạt giơ tay lên. “Matthews”, thầy giáo gọi, gật đầu về phía một cánh tay đặc biệt khẩn khoản.
“Là Nelson(16) ạ, thưa thầy”.
16. Horatio Nelson (1758 - 1805), đô đốc Anh, chỉ huy hạm đội Anh trong trận đại thắng Trafalgar trước hạm đội Pháp - Tây Ban Nha ngày 21/10/1805.
“Đúng rồi. Và lúc đó ai đang là thủ tướng?”
“Công tước xứ Wellington(17), thưa thầy”, Matthews nói, giọng không còn tự tin như lần trước.
17. Arthur Wellesley, công tước Wellington (1769 - 1852), người chỉ huy liên quân Anh - Phổ đánh thắng Napoleon I trong trận Waterloo năm 1815.
“Sai rồi”, thầy Frobisher nói, “không phải là Wellington, cho dù ông đúng là người sống cùng thời với Nelson”. Ông nhìn quanh lớp, nhưng chỉ còn hai cánh tay của Clifton và Deakins là đang còn giơ lên. “Deakins nào”.
“Pitt Trẻ(18), từ năm 1783 đến 1801, và từ năm 1804 đến 1806”.
18. William Pitt (1759 - 1806), thủ tướng trẻ nhất trong lịch sử Anh, nhậm chức năm 24 tuổi (1783).
“Đúng rồi, Deakins. Và Công tước Sắt(19) làm thủ tướng vào thời gian nào?”
19. Biệt danh của công tước Wellington.
“1828 đến 1830, và một lần nữa năm 1834”, Deakins nói.
“Và có trò nào có thể cho tôi biết chiến thắng nổi tiếng nhất của ông là trận đánh nào không?”
Lần đầu tiên Barrington giơ tay lên.”Waterloo, thưa thầy!” cậu ta lớn tiếng trước khi thầy Frobisher kịp có thời gian lựa chọn ai khác.
“Phải rồi, Barrington. Và Wellington đã đánh bại ai tại Waterloo?” Barrington tiếp tục im lặng.
“Napoleon”, Harry thì thầm.
“Napoleon ạ, thưa thầy”, Barrington lên tiếng đầy tự tin.
“Đúng rồi, Clifton”, thầy Frobisher mỉm cười nói. “Và có phải Napoleon cũng mà một công tước không?”
“Không, thưa thầy”, Deakins lên tiếng, sau khi không có học sinh nào khác muốn thử trả lời câu hỏi. “Ông ta đã lập nên Đế chế Thứ nhất tại Pháp, và tự phong mình làm Hoàng đế”.
Thầy Frobisher không mấy ngạc nhiên trước câu trả lời của Deakins, vì cậu bé này được học bổng toàn phần, nhưng ông thực sự thấy ấn tượng trước hiểu biết của Clifton. Xét cho cùng, cậu ta là học sinh được học bổng đồng ca, và sau nhiều năm dạy học, ông đã học được rằng các giọng ca đầy năng khiếu của ban đồng ca, cũng giống như các vận động viên thể thao tài năng, hiếm khi vươn rộng được sự xuất sắc ra ngoài lĩnh vực của họ. Clifton đã chứng minh cậu là một ngoại lệ so với quy luật ấy. Ông Frobisher thực sự muốn biết ai đã dạy dỗ cậu bé này.
Khi tiếng chuông báo tiết học kết thúc vang lên, thầy Frobisher thông báo, “Tiết học tiếp theo của các trò sẽ là môn địa lý với thầy Henderson, và ông không phải là một thầy giáo thích phải chờ đợi học sinh. Tôi khuyên các trò trong thời gian nghỉ giải lao hãy tìm xem lớp học của ông ở đâu, và ngồi đúng vào chỗ của mình trước khi thầy bước vào lớp”.
Harry bám sát lấy Giles, cậu bạn dường như biết mọi thứ nằm ở đâu. Trong lúc hai cậu bé cùng nhau đi qua sân trong của trường, Harry để ý thấy những cậu học sinh khác hạ giọng xuống khi họ đi ngang qua, và một hay hai anh chàng thậm chí còn quay sang nhìn cậu chằm chằm.
Nhờ vào vô số buổi sáng thứ Bảy trải qua cùng Già Jack, Harry có thể có được vị trí nổi bật trong tiết học địa lý, nhưng đến môn toán, tiết học cuối cùng của buổi sáng, thì không ai có thể theo kịp Deakins, và thậm trí cả thầy giáo cũng phải trổ hết trí tuệ của ông để theo kịp cậu học trò.
Khi ba cậu bé ngồi vào bàn ăn trưa, Harry có thể cảm thấy cả trăm con mắt đang chăm chú theo dõi từng cử chỉ của cậu. Cậu làm bộ như không để ý thấy, và chỉ đơn giản bắt chước theo tất cả những gì Giles làm. “Thật dễ chịu khi biết vẫn còn thứ gì đó tớ có thể dạy cậu”, Giles vừa nói vừa gọt một quả táo bằng con dao của cậu ta.
Harry thực sự thích thú với giờ hóa học đầu tiên của cậu vào buổi chiều hôm đó, nhất là khi thầy giáo cho phép cậu châm một cây đèn ga. Nhưng cậu bé không thể nổi bật được trong môn tự nhiên, tiết học cuối cùng của ngày hôm ấy, vì Harry là cậu bé duy nhất trong lớp sống trong một ngôi nhà mà không có vườn.
Khi tiếng chuông báo hết giờ học vang lên, các bạn còn lại của lớp ra sân chơi thể thao, trong khi Harry phải có mặt tại nhà nguyện để tham gia buổi luyện tập đồng ca đầu tiên. Thêm một lần nữa, cậu để ý thấy tất cả mọi người đều đang chăm chú nhìn mình, nhưng lần này hoàn toàn vì những lý do tích cực.
Nhưng vừa rời khỏi nhà nguyện, cậu lại trở thành đối tượng cho những lời châm biếm như lúc trước từ những cậu thiếu niên đang quay về sau giờ thi đấu thể thao.
“Chẳng phải kia là thằng nhóc đường phố nhãi ranh của chúng ta sao?” một đứa lên tiếng.
“Thật tội nghiệp, đến một cái bàn chải nó cũng chẳng có”, một giọng khác thêm vào.
“Tớ còn nghe người ta kể là nó vẫn ngủ vạ vật ngoài cầu cảng vào ban đêm đấy”, một giọng thứ ba vang lên.
Harry không thấy Deakins và Barrington đâu trong lúc cậu đi một mạch về nhà ký túc của mình, tránh mọi nhóm học sinh tụ tập trên đường đi.
Trong thời gian diễn ra bữa tối, những cặp mắt săm soi trâng tráo đã bớt lộ liễu hơn, nhưng chỉ vì Giles đã làm rõ với tất cả các học sinh ngồi xung quanh đó rằng Harry là bạn của cậu ta. Nhưng Giles không thể giúp gì được khi tất cả các học sinh cùng đi lên phòng ngủ sau giờ tự học và trông thấy Fisher đứng cạnh cửa, rõ ràng là đang chờ sẵn Harry.
Khi các cậu bé bắt đầu thay quần áo, Fisher lớn tiếng thông báo, “Tôi rất lấy làm tiếc về mùi khó ngửi, thưa các quý ông, nhưng một người trong các vị đến từ một ngôi nhà không có nhà tắm”. Một hay hai cậu nhóc cười khẩy, hy vọng lấy được cảm tình của Fisher. Harry tảng lờ anh ta. “Không những anh chàng bụi đời này không có nhà tắm, cậu ta thậm chí còn chẳng có bố nữa cơ”.
“Bố tôi là một người đàng hoàng từng chiến đấu cho đất nước này trong chiến tranh”, Harry tự hào nói.
“Điều gì khiến cậu nghĩ tôi đang nói về cậu, hả Clifton?” Fisher nói. “Tất nhiên, trừ khi cậu cũng chính là anh chàng có mẹ là” - anh ta dừng lại - “những người phục vụ khách sạn”.
“Một người”, Harry nói, chỉnh lại anh chàng giám thị.
Fisher vớ lấy một chiếc dép. “Đừng có bao giờ cãi trả lại tao, Clifton”, anh ta tức giận nói. “Cúi xuống, chống tay vào cuối giường.” Harry làm theo, và Fisher đánh cậu sáu lần một cách hung tợn đến mức Giles phải quay mặt đi. Harry trèo lên giường, cố gồng mình lên để nước mắt không trào ra.
Trước khi Fisher tắt đèn, anh ta nói thêm, “Tôi hy vọng sẽ được gặp lại tất cả các cậu vào tối mai, khi tôi sẽ tiếp tục câu chuyện kể bên giường ngủ về Nhà Clifton ở Still House Lane. Hãy đợi cho đến khi các cậu được nghe kể về ông bác Stan”.
Tối hôm sau, lần đầu tiên Harry được biết bác cậu từng trải qua mười tám tháng trong tù về tội ăn cắp. Tình tiết mới này còn tồi tệ hơn cả chuyện bị đánh bằng dép. Harry trèo lên giường, thầm tự hỏi liệu có phải bố cậu vẫn còn sống nhưng đang ở trong tù, và đó chính là nguyên nhân thực sự khiến cho không ai ở nhà chịu nói gì về ông.
Đã ba đêm rồi mà Harry hầu như không ngủ chút nào, và không có sự thành công nào trong các tiết học hay sự ngưỡng mộ giành được ở nhà nguyện có thể giúp cậu thôi không nghĩ tới cuộc chạm trán không thể tránh khỏi tiếp theo với Fisher. Bất cứ lý do nhỏ nhặt nào, một giọt nước làm rớt xuống sàn nhà vệ sinh, một cái gối để không ngay ngắn, một cái tất để tụt xuống sát mắt cá chân đều đảm bảo chắc chắn rằng Harry sẽ phải chờ đợi sáu cú đòn mạnh hết cỡ từ tay giám thị trực ban; một hình phạt sẽ được thi hành trước mặt các học sinh còn lại trong phòng, nhưng chỉ sau khi Fisher đã kể thêm một đoạn nữa của “Câu chuyện dài kỳ về gia đình Clifton”. Tới buổi tối thứ năm, Harry đã cảm thấy quá đủ, và thậm chí cả Giles và Deakins cũng không thể an ủi cậu được nữa.
Trong giờ tự học tối thứ Sáu, trong khi những cậu bé khác đang miệt mài giở các trang sách trong cuốn Tiếng Latinh sơ cấp của Kennedy, Harry bỏ qua Hoàng đế Caesar và những người Gaul để ngẫm nghĩ về một kế hoạch đảm bảo Fisher sẽ không bao giờ quấy rầy cậu được nữa. Cho đến khi cậu leo lên giường buổi tối hôm ấy, sau khi Fisher phát hiện ra một mảnh giấy gói kẹo sô cô la ở cạnh giường của Harry và dùng dép đánh cậu lần nữa, kế hoạch của Harry đã đâu vào đấy. Cậu nằm thao thức trên giường rất lâu sau khi đèn tắt, và nằm im không cựa quậy cho tới khi đoan chắc tất cả các cậu bé khác đều đã ngủ say.
Harry không biết lúc đó là mấy giờ khi cậu chuồn ra khỏi giường. Cậu lặng lẽ mặc quần áo mà không gây ra một tiếng động nào, sau đó lách đi giữa những chiếc giường cho tới khi cậu đến đầu phía bên kia của căn phòng. Cậu mở cửa sổ, và một luồng không khí lạnh ùa vào làm cậu bé nằm trên chiếc giường gần cửa sổ nhất trở mình. Harry leo ra lối thoát hiểm phòng hỏa hoạn rồi từ tốn đóng cửa sổ lại trước khi leo xuống đất. Cậu đi men theo rìa bãi cỏ, tận dụng bất kỳ bóng tối nào để tránh khỏi ánh sáng của trăng tròn dường như đang chiếu thẳng xuống cậu chẳng khác gì một ngọn đèn pha.
Harry kinh hoàng phát hiện ra cổng trường bị khóa. Cậu lom khom lần theo bờ tường bao, tìm kiếm một vết nứt hay vết lõm dù nhỏ nhất cho phép cậu có thể trèo qua tường và tìm về với tự do. Cuối cùng, Harry tìm thấy một chỗ bị khuyết mất một viên gạch và có thể leo lên cho tới khi cậu có thể vắt được chân qua phía bên kia tường. Cậu hạ thấp người mình xuống phía bên kia, các đầu ngón tay bám chặt vào rìa tường, thầm cầu nguyện, rồi buông tay. Cậu nặng nề ngã phịch xuống đất, nhưng dường như cậu không bị gãy xương ở đâu cả.
Sau khi đã trấn tĩnh lại, Harry bắt đầu chạy xuống dọc theo con đường, thoạt đầu còn từ tốn, nhưng rồi cậu tăng dần tốc độ và không chịu dừng lại cho tới khi đã ra tới bến cảng. Những người làm ca đêm vừa tan ca và Harry thở phào nhẹ nhõm khi thấy bác cậu không có trong đó.
Sau khi người công nhân bến tàu cuối cùng đã đi khuất khỏi tầm mắt, cậu bé chậm rãi đi men theo cầu tàu, ngang qua một dãy những con tàu đang buông neo chạy dài đến hút tầm mắt. Cậu nhìn thấy trên một trong các ống khói ngạo nghễ ngự trị một chữ B, và chợt nhớ tới cậu bạn lúc này hẳn đang say ngủ của mình. Liệu có lúc nào đó cậu ta... ý nghĩ của cậu bị gián đoạn khi cậu dừng chân bên ngoài toa xe lửa của Già Jack.
Cậu băn khoăn không biết liệu lúc này ông lão đã ngủ chưa. Câu hỏi của cậu được trả lời khi một giọng nói cất lên, “Đừng có đứng đực ở ngoài đó thế chứ, Harry, vào trong này trước khi cháu làm mình chết cóng vì lạnh đi nào”. Harry mở cửa toa xe và thấy Già Jack đang châm diêm và cố thắp một cây nến. Harry gieo mình ngồi phịch xuống chiếc ghế đối diện với ông lão. “Có phải cháu đã bỏ chạy khỏi trường không?” Già Jack hỏi.
Harry bị câu hỏi trực tiếp của ông làm sững sờ đến mức cậu không trả lời được ngay. “Vâng, đúng thế ạ”, cuối cùng thì cậu lí nhí trả lời.
“Vả hắn là cháu tới để kể cho ta biết vì sao cháu đưa ra quyết định đột ngột này”.
“Cháu đâu có đưa ra quyết định”, Harry nói. “Người ta đã quyết định cho cháu rồi”.
“Do ai vậy?”
“Tên anh ta là Fisher”.
“Một thầy giáo hay học sinh?”
“Giám thị phòng nội trú của cháu”, Harry vừa nói vừa nhăn nhó. Sau đó, cậu kể lại cho Già Jack nghe tất cả mọi chuyện đã xảy đến với cậu trong tuần đầu tiên tại St. Bede.
Thêm một lần nữa, ông già lại làm cậu phải ngạc nhiên. Khi Harry kết thúc câu chuyện của cậu, Già Jack nói, “Ta thật đáng trách”.
“Tại sao ạ?” Harry hỏi. “Ông làm sao có thể giúp cháu nhiều hơn thế được nữa ạ.”
“Có, có thể đấy”, Già Jack nói. “Đáng ra ta phải giúp cháu sẵn sàng đối diện với một đám người hợm hĩnh mà không một quốc gia nào khác trên trái đất này có thể sản sinh ra được. Đáng ra ta nên dành nhiều thời gian hơn để kể cho cháu nghe về tầm quan trọng của những mối liên hệ truyền thống cũ kỹ, và ít thời gian hơn cho địa lý và lịch sử. Thế mà ta lại cứ hy vọng rằng mọi thứ có lẽ sẽ thay đổi sau cuộc chiến đã kết thúc mọi cuộc chiến(20), nhưng rõ ràng là tại St. Bede chúng chưa hề thay đổi”. Ông lão chìm vào dòng suy tư trong im lặng một hồi trước khi hỏi, “Vậy tiếp theo đây cháu định làm gì, chàng trai?”
20. Ám chỉ thế chiến thứ nhất.
“Chạy trốn ra biển ạ. Cháu sẽ lên bất cứ con tàu nào chịu chấp nhận cháu”, Harry nói, cố tỏ vẻ hào hứng.
“Một ý tưởng mới hay ho làm sao”, Già Jack nói. “Tại sao cháu không trực tiếp đối mặt với Fisher?”
“Ý ông là sao cơ ạ?”
“Chỉ là sẽ không có gì khiến Fisher khoái trá hơn là việc có thể ba hoa với bạn bè của anh ta rằng thằng nhãi ranh đường phố kia là kẻ nhát như cáy, nhưng thế đấy, các cậu còn trông đợi gì từ đứa con trai của một tay công nhân bến tàu và có mẹ làm nhân viên phục vụ cơ chứ?”
“Nhưng Fisher nói đúng mà ạ. Cháu không ở cùng một đẳng cấp với anh ta”.
“Không, Harry ơi, vấn đề là ở chỗ Fisher đã nhận ra rằng anh ta không ở cùng đẳng cấp với cháu, và sẽ chẳng bao giờ đạt được điều đó”.
“Có phải ông đang nói cháu nên quay lại cái nơi kinh khủng đó không ạ?” Harry nói.
“Nói cho cùng, chỉ cháu là người có thể đưa ra quyết định đó”, Già Jack nói, “nhưng nếu cháu cứ bỏ chạy mỗi khi bắt gặp phải một gã Fisher của thế giới này, cháu sẽ lại kết thúc giống như ta, một người trong số còn lại, theo như lời thầy hiệu trưởng của cháu”.
“Nhưng ông là một người vĩ đại mà”, Harry nói.
“Ta có thể như thế lắm”, Già Jack nói, “nếu ta không bỏ chạy vào khoảnh khắc ta chạm trán với gã Fisher của ta. Nhưng ta đã chọn con đường dễ dàng, và chỉ nghĩ đến bản thân ta”.
“Nhưng liệu còn ai để nghĩ đến nữa ạ?”
“Trước hết là mẹ cháu”, Già Jack nói. “Đừng quên tất cả những sự hy sinh mà mẹ cháu đã làm để cho cháu có được một bước khởi đầu trong cuộc đời tốt hơn tất cả những gì mẹ cháu từng mơ là có thể. Và rồi còn thầy Holcombe nữa, khi biết được cháu đã trốn chạy thì ông ấy hẳn sẽ chỉ tự trách móc bản thân.”
“Và đừng quên cô Monday, người đã kêu gọi mọi mối quen biết, nhờ cậy, thuyết phục và dành ra hàng giờ đồng hồ để đảm bảo chắc chắn cháu đủ khả năng giành được suất học bổng đồng ca đó. Và khi cháu cân nhắc giữa được và mất, Harry, ta khuyên cháu hãy đặt Fisher lên một bên đĩa cân, và bên kia là Barrington cùng Deakins, vì ta ngờ ràng Fisher rồi đây sẽ nhanh chóng tan biến thành vô nghĩa, trong khi Barrington và Deakins chắc chắn sẽ là những người bạn thân thiết trong suốt phần đời còn lại của cháu. Nếu cháu bỏ chạy, các cậu ấy sẽ buộc phải lắng nghe Fisher liên tục nhắc đi nhắc lại với chúng rằng cháu không phải là con người như họ từng nghĩ”.
Harry im lặng một lúc lâu. Cuối cùng, cậu bé từ từ đứng dậy. “Cảm ơn ông”, cậu nói. Rồi không nói thêm một lời nào, cậu mở cửa toa xe lửa và bước ra ngoài.
Harry chậm rãi bước đi dọc theo cầu tàu, thêm một lần nữa ngước mắt nhìn lên những con tàu chở hàng khổng lồ, tất cả chẳng bao lâu nữa đều sẽ lên đường tới các hải cảng xa xôi. Cậu tiếp tục bước đi cho tới khi ra tới cổng bến tàu, đến đây cậu bé vùng chạy và hối hả quay trở lại thành phố. Khi cậu về tới cổng trường, cánh cổng đã mở rộng, và chiếc đồng hồ trong đại sảnh chuẩn bị điểm bảy hồi chuông.
Bất chấp cuộc điện thoại nhận được, thầy Frobisher vẫn sẽ phải đi bộ tới ngôi nhà của thầy hiệu trưởng và báo cáo rằng một trong các học sinh của ông đã vắng mặt. Khi thầy đưa mắt nhìn ra ngoài qua cửa sổ phòng làm việc của mình, ông chợt nhìn thấy bóng Harry thấp thoáng đi qua giữa các thân cây khi cậu đang thận trọng đi về phía ngôi nhà. Harry dè dặt mở cửa trước đúng lúc tiếng chuông cuối cùng lặng hẳn, và đang đứng mặt đối mặt với thầy giáo phụ trách nhà ký túc của cậu.
“Tốt hơn hết trò nên khẩn trương lên, Clifton”, thầy Frobisher nói, “nếu không thì trò sẽ lỡ mất bữa sáng đấy”.
“Vâng, thưa thầy”. Harry nói, và hối hả chạy xuống hành lang. Cậu tới phòng ăn vừa kịp trước khi cánh cửa đóng lại, và tìm đến chỗ ngồi giữa Barrington và Deakins.
“Tớ vừa mới nghĩ là có khi sáng nay tớ sẽ là anh chàng duy nhất liếm bát của mình cơ đấy”, Barrington nói. Harry bật cười.
Cậu không gặp mặt Fisher ngày hôm đó, và rất ngạc nhiên khi thấy một giám thị khác đã thay thế anh ta trực ban tại phòng nội trú vào tối hôm ấy. Lần đầu tiên trong tuần đó, Harry được ngủ bình yên.