C
ậu bé ăn mặc chỉn chu ngồi cạnh mẹ trên băng ghế cuối tàu điện.
“Đây là điểm dừng của mẹ con mình rồi”, người mẹ nói khi tàu điện dừng lại. Hai mẹ con xuống tàu, bắt đầu chậm rãi đi bộ lên đồi về phía ngôi trường, càng lúc họ càng chậm dần sau mỗi bước.
Harry nắm lấy tay mẹ cậu bằng một tay, trong khi dùng tay kia cầm chắc lấy một chiếc vali đã cũ sờn. Không ai trong hai mẹ con nói một lời khi họ quan sát mấy cỗ xe ngựa đẹp đẽ, cũng như vài chiếc xe hơi có tài xế riêng cứ thỉnh thoảng lại dừng ngay bên ngoài cổng trước của ngôi trường.
Những ông bố đang bắt tay với các cậu con trai, trong khi những bà mẹ mặc áo choàng lông còn mải ôm lấy các quý tử của mình trước khi dành cho các cậu một nụ hôn trên má, giống như chim mẹ cuối cùng cũng phải thừa nhận bầy con đã ra ràng của nó sắp sửa bay khỏi tổ.
Harry không muốn mẹ hôn cậu trước mặt các cậu bé khác, vì thế cậu đã buông tay mẹ ra khi hai mẹ con vẫn còn ở cách cổng trường năm mươi yard. Maisie, cảm nhận được sự không thoải mái của con trai mình, đã cúi xuống hôn nhanh lên trán cậu. “Chúc con may mắn, Harry. Hãy làm tất cả chúng ta tự hào về con”.
“Tạm biệt mẹ”, cậu bé nói, cố kìm những giọt nước mắt.
Maisie quay lại, bắt đầu bước đi xuống đồi, nước mắt tuôn ròng ròng trên hai bên má cô.
Harry tiếp tục bước tới, nhớ lại những gì mà bác cậu đã mô tả về việc leo lên khỏi chiến hào ở Ypres trước khi xung phong lao về phía chiến tuyến của kẻ thù. “Đừng bao giờ nhìn lại sau, nếu không coi như cháu đã chết”. Harry muốn ngoái lại nhìn, nhưng cậu biết nếu làm thế, cậu sẽ không thể ngừng chạy cho tới khi đã ngồi yên ổn trên tàu điện. Cậu nghiến răng và tiếp tục bước đi.
“Kỳ nghỉ của cậu tuyệt chứ, ông bạn?” một cậu bé đang hỏi một người bạn.
“Tuyệt vời”, cậu kia trả lời. “Ông bô tớ đưa tới Lord’s xem trận đấu của đội trường đại học”.
Có phải Lord’s là một nhà thờ không nhỉ, Harry thắc mắc, và nếu đúng thì thứ trận đấu gì lại có thể diễn ra trong một nhà thờ nhỉ? Cậu quả quyết bước về phía cổng trường, chợt dừng bước khi nhận ra một người đàn ông đứng bên cổng chính của trường, trên tay cầm một cái bìa cặp hồ sơ.
“Trò là ai vậy, chàng trai trẻ?” ông hỏi, dành cho Harry một nụ cười chào đón.
“Harry Clifton, thưa ngài”, cậu trả lời, bỏ mũ ra khỏi đầu đúng như thầy Holcombe đã dạy cậu làm, mỗi khi một giáo viên hay một quý bà nói chuyện với cậu.
“Clifton”, người đàn ông nhắc lại, lướt một ngón tay lần theo một danh sách dài những cái tên. “À, đây rồi”. Ông đánh dấu vào cạnh tên của Harry. “Thế hệ đầu tiên, học bổng đồng ca. Nhiệt liệt chúc mừng trò, và chào mừng trò đến với St. Bede. Tôi là Frobisher, phụ trách nhà nội trú của trò, và đây là Nhà Frobisher. Nếu trò để vali lại ngoài tiền sảnh, một trưởng lớp sẽ dẫn trò tới phòng ăn, tại đó tôi sẽ nói chuyện với tất cả các học sinh mới trước giờ ăn tối”.
Trước đó Harry chưa bao giờ ăn bữa tối. “Bữa trà chiều” là bữa ăn cuối cùng tại nhà Clifton, trước khi cậu bị xua lên giường đi ngủ khi trời vừa tối. Điện vẫn chưa hiện diện ở Still House Lane, và gia đình họ cũng không có dư dả để quá phung phí tiền vào những cây nến.
“Cảm ơn ngài”, Harry nói rồi bước qua khung cửa trước vào một gian tiền sảnh rộng ốp ván gỗ bóng loáng. Cậu để vali xuống và ngước mắt nhìn chăm chú lên bức tranh chân dung một ông già với mái tóc xám và râu má trắng rậm, mặc áo thụng dài màu đen với một tấm áo chùm đỏ khoác quanh vai.
“Tên mày là gì?” một giọng nói gắt gỏng vang lên sau lưng cậu.
“Clifton, thưa ngài”, Harry nói, quay lại và nhìn thấy một cậu thiếu niên cao lớn mặc quần dài.
“Mày không gọi tao là ngài. Mày gọi tao là Fisher. Tao là lớp trưởng, không phải là thầy”.
“Xin lỗi, thưa ngài”, Harry nói.
“Để vali của mày đằng kia rồi đi theo tao”.
Harry đặt chiếc vali rẻ tiền, cũ sờn của cậu xuống cạnh một hàng những chiếc vali da sang trọng. Vali của cậu là cái duy nhất không có các chữ cái đầu họ tên được khảm lên nó. Cậu bé đi theo cậu lớp trưởng dọc một hành lang dài treo đầy những bức ảnh chụp các đội thể thao trước đây của trường và những tủ kính xếp đầy những chiếc cúp bạc để nhắc nhở thế hệ tiếp theo về ánh hào quang của quá khứ. Khi hai người tới phòng ăn, Fisher nói, “Mày có thể ngồi bất cứ chỗ nào mày muốn, Clifton. Chỉ có điều hãy nhớ ngừng nói chuyện ngay khi thầy Frobisher bước vào phòng ăn”.
Harry do dự một lúc trước khi quyết định xem cậu sẽ ngồi xuống bàn nào trong số bốn chiếc bàn dài. Một số học sinh đã ngồi xúm lại thành từng nhóm, khe khẽ nói chuyện. Harry từ tốn bước tới góc xa nhất của căn phòng và ngồi xuống tận cuối bàn. Cậu ngước mắt nhìn lên và thấy một loạt các cậu nhóc bước vào phòng, trông cũng dè dặt hệt như cậu. Một cậu bé trong đám này tới ngồi xuống bên cạnh Harry, trong khi một cậu nhóc khác ngồi xuống đối diện với cậu ta. Hai anh chàng tiếp tục huyên thuyên với nhau như thể cậu không hề có mặt ở đó.
Không hề báo trước, một tiếng chuông vang lên, và tất cả mọi người đồng loạt ngừng nói chuyện khi thầy Frobisher bước vào phòng ăn. Ông ngồi xuống sau một bục giảng mà Harry đã không để ý thấy và giật mạnh các ve áo thụng của ông.
“Chào mừng các trò”, ông cởi cái mũ vuông khỏi đầu rồi bắt đầu nói, “hôm nay, ngày đầu tiên trong học kỳ đầu tiên của các trò tại St. Bede. Chỉ chốc lát nữa thôi, các trò sẽ thưởng thức bữa ăn đầu tiên của mình ở trường, và tôi có thể hứa với các trò rằng nó chẳng hề khá lên chút nào”. Một hai cậu bé rụt rè bật cười. “Sau khi đã ăn xong bữa tối, các trò sẽ được đưa tới khu ký túc, nơi các trò sẽ sắp xếp đồ đạc của mình ra khỏi vali. Vào lúc tám giờ, các trò sẽ nghe thấy một tiếng chuông nữa. Kỳ thực đó vẫn chỉ là một chiếc chuông, có điều được rung lên tại một thời điểm khác”. Harry mỉm cười, cho dù phần lớn các cậu bé còn lại đều không hiểu câu pha trò nho nhỏ của thầy Frobisher.
“Ba mươi phút sau đó, cũng chính chiếc chuông đó sẽ vang lên lần nữa, và khi đó các trò sẽ lên giường đi ngủ, nhưng không được trước khi các trò đã đánh răng rửa mặt. Các trò sẽ có ba mươi phút để đọc trước khi đèn tắt, sau đó các trò sẽ ngủ. Bất cứ trò nào bị bắt gặp nói chuyện sau khi đèn tắt sẽ bị giám thị trực ban phạt. Các trò sẽ không nghe thấy thêm tiếng chuông nào nữa”, thầy Frobisher tiếp tục nói, “cho tới sáu giờ ba mươi phút sáng mai, khi đó các trò sẽ thức dậy, rửa mặt và mặc quần áo đúng thời gian để có mặt tại phòng ăn trước bảy giờ. Bất cứ trò nào đến muộn sẽ phải nhịn bữa sáng”.
“Giờ tập trung buổi sáng sẽ diễn ra vào lúc tám giờ ở đại sảnh, tại đó thầy hiệu trưởng sẽ nói chuyện với chúng ta. Tiếp theo, giờ học đầu tiên của các trò sẽ bắt đầu lúc tám giờ ba mươi. Sẽ có ba tiết học, mỗi tiết sáu mươi phút vào buổi sáng, với mười phút giải lao giữa các tiết học, cho phép các trò có thời gian đổi phòng học. Tiếp theo sẽ là bữa trưa vào lúc mười hai giờ”.
“Vào buổi chiều sẽ chỉ có thêm hai tiết học nữa trước giờ thể thao, lúc đó các trò sẽ chơi bóng đá”. Harry mỉm cười lần thứ hai. “Giờ thể thao này là bắt buộc với tất cả các trò không phải là thành viên của ban đồng ca”. Harry cau mày. Không ai nói cho cậu biết các học viên đồng ca sẽ không được chơi bóng đá. “Sau hoạt động thể thao hay luyện tập đồng ca, các trò sẽ quay lại Nhà Frobisher để ăn tối, sau bữa tối là một giờ tự học trước khi các trò quay về giường, tại đó các trò lại có thể đọc sách cho tới khi đèn tắt - nhưng chỉ trong trường hợp cuốn sách đó đã được quản lý phê chuẩn”, thầy Frobisher nói thêm. “Tất cả những chuyện này hẳn nghe có vẻ rất đáng kinh ngạc với các trò” - Harry thầm ghi nhớ trong đầu sẽ tra nghĩa của từ “kinh ngạc” trong quyển từ điển mà thầy Holcombe đã tặng cho cậu. Thầy Frobisher lại một lần nữa giật mạnh các ve áo thụng của ông trước khi nói tiếp. “Nhưng đừng lo lắng, các trò sẽ sớm quen với truyền thống của chúng ta tại St. Bede. Đó là tất cả những gì thầy sẽ nói vào lúc này. Bây giờ, thầy sẽ để các trò thoải mái thưởng thức bữa tối. Chúc buổi tối vui vẻ, các chàng trai”.
“Chúc buổi tối vui vẻ, thưa thầy”, một vài cậu bé đủ can đảm lên tiếng trả lời khi thầy Frobisher rời khỏi căn phòng.
Harry không hề động đậy trong lúc mấy người phụ nữ mặc tạp dề đi đi lại giữa các dãy bàn và đặt những bát súp trước mặt mỗi học sinh. Cậu chăm chú quan sát cậu bé ngồi đối diện với mình cầm lên một chiếc thìa có hình thù kỳ lạ, nhúng vào bát súp của cậu ta rồi đưa nó ra xa khỏi người trước khi đưa thìa lên miệng. Harry thử bắt chước thao tác này, nhưng chỉ dẫn đến kết quả làm rớt vài giọt súp lên mặt bàn, và kể cả khi cậu thành công trong việc đưa được chỗ súp còn lại vào miệng, thì phần lớn chúng lại chảy xuống dưới cằm. Cậu dùng tay áo lau miệng. Cử chỉ này không thu hút mấy sự chú ý, nhưng khi cậu húp xì xụp thành tiếng với mỗi thìa súp đầy, một vài cậu bé ngừng ăn và đưa mắt nhìn cậu chằm chằm. Bối rối, Harry đặt thìa xuống bàn và để cho chỗ súp còn lại của cậu nguội lạnh.
Món thứ hai là món bánh cá khoai tây, và Harry không động đậy cho tới khi cậu thấy được cậu bé ngồi đối diện với mình dùng chiếc nĩa nào để lấy bánh. Cậu lấy làm ngạc nhiên khi thấy cậu bé kia đặt dao ăn và nĩa của cậu ta xuống đĩa giữa mỗi lần lấy đồ ăn, trong khi Harry nắm chặt dao hay dĩa của cậu trong tay như thể chúng là những cây đinh ba xỉa rơm.
Một cuộc trò chuyện bắt đầu được khơi mào giữa cậu bé ngồi đối diện với cậu và anh chàng ngồi cạnh cậu ta, về chủ đề cưỡi ngựa đi theo chó săn. Harry không tham gia vào câu chuyện, một phần cũng là vì kinh nghiệm gần nhất với cưỡi ngựa mà cậu từng trải qua là một lần cưỡi lừa với giá nửa penny vào một buổi chiều trong chuyến đi chơi dã ngoại tới Weston-super-Mare.
Sau khi những cái đĩa đã được mang đi, và được thay thế bằng những cái bánh pudding, thứ mẹ cậu vẫn gọi là món đại tiệc, bởi vì không mấy khi cậu được thưởng thức chúng. Lại thêm một cái thìa khác, thêm một lần nếm thử, và lại thêm một sai lầm nữa. Harry không hề biết rằng một quả chuối thì không giống như một quả táo, vì thế trước sự kinh ngạc của tất cả mọi người đang ngồi quanh mình, cậu đã cố thử ăn cả phần vỏ. Với những cậu bé còn lại, giờ học đầu tiên của họ hiển nhiên sẽ là vào lúc tám giờ ba mươi phút sáng hôm sau, nhưng giờ học của Harry thì đã bắt đầu rồi.
Sau khi bữa tối đã được dọn đi, Fisher quay trở lại, và với tư cách giám thị trực ban, anh ta dẫn đám học sinh do mình phụ trách lên một cầu thang gỗ rộng tới các phòng nội trú trên lầu một. Harry bước vào một căn phòng có ba mươi chiếc giường được sắp xếp một cách thẳng thớm thành ba hàng, mỗi hàng gồm mười chiếc giường. Mỗi chiếc giường đều có một cái gối, hai tấm ga trải giường và hai cái chăn. Harry chưa bao giờ có đến hai món của bất cứ thứ gì.
“Đây là phòng ngủ dành cho học sinh mới nhập trường”, Fisher nói với vẻ khinh khỉnh. “Đây là nơi các cậu sẽ phải ở cho tới khi đã được cải tạo văn minh. Các cậu sẽ tìm thấy tên mình theo thứ tự abc, ở phía cuối mỗi chiếc giường”.
Harry ngạc nhiên khi thấy vali của cậu nằm trên giường và tự hỏi ai đã để nó lại đó. Cậu bé ở cạnh giường cậu đã bắt tay vào lấy đồ từ trong vali ra.
“Tớ là Deakins”, cậu ta nói, đẩy cặp kính trên mũi lên cao hơn để có thể nhìn Harry rõ hơn.
“Tớ là Harry. Tớ đã ngồi cạnh cậu trong các kỳ thi mùa hè năm ngoái. Tớ không thể tin nổi là cậu trả lời được hết tất cả câu hỏi chỉ trong có hơn một giờ”.
Deakins đỏ bừng mặt.
“Điều đó giải thích vì sao cậu ta là một học giả”, cậu bé ở sát giường Harry bên đối diện lên tiếng.
Harry ngoảnh lại. “Cậu cũng là một học giả à?” cậu hỏi.
“Lạy Chúa lòng lành, không”, cậu nhóc kia vừa trả lời vừa tiếp tục lấy đồ ra khỏi vali. “Lý do duy nhất người ta cho phép tớ vào học ở St. Bede là vì bố và ông nội tớ từng học ở trường này trước đây. Tớ sẽ là thế hệ thứ ba theo học tại đây. Liệu bố các cậu có tình cờ từng học ở đây không?”
“Không”, Harry và Deakins cùng đồng thanh nói.
“Thôi tám chuyện đi!” Fisher gắt lên, “và tập trung vào sắp xếp đồ của các cậu đi”.
Harry mở vali của cậu ra và bắt đầu xếp quần áo ngăn nắp vào hai ngăn kéo ngay cạnh giường mình. Mẹ cậu đã để một thanh sô cô la Fry’s Five Boys lẫn vào trong chồng áo sơ mi của cậu. Harry giấu thanh kẹo xuống dưới gối.
Tiếng chuông vang lên. “Đã đến giờ thay quần áo!” Fisher thông báo. Harry chưa bao giờ cởi quần áo ra trước mặt một cậu bé khác, chứ chưa nói gì trong một căn phòng đầy ắp những cậu nhóc trạc tuổi mình. Cậu quay mặt vào tường, chậm rãi cởi quần áo ra và hối hả mặc bộ pyjama của cậu lên người. Sau khi đã thắt đai lưng áo ngủ, cậu đi theo các cậu bé khác sang phòng vệ sinh. Thêm một lần nữa, cậu quan sát cẩn thận trong lúc họ rửa mặt trước khi đánh răng. Harry chẳng hề có khăn mặt hay bàn chải đánh răng. Cậu bé ở giường bên cạnh lục lọi trong túi đựng đồ vệ sinh cá nhân của cậu ta và lấy ra đưa cho Harry một cái bàn chải mới nguyên với một tuýp thuốc đánh răng. Harry không muốn cầm lấy chúng cho tới khi cậu kia nói, “Mẹ tớ luôn chuẩn bị sẵn mỗi thứ hai cái”.
“Cảm ơn cậu”, Harry nói. Cho dù đánh răng rất nhanh, cậu vẫn nằm trong số những học sinh cuối cùng quay trở lại phòng ngủ. Cậu trèo lên giường, với hai tấm ga trải giường sạch, hai cái chăn và một cái gối. Cậu vừa liếc mắt nhìn sang bên và thấy Deakins đang đọc cuốn Tiếng Latinh sơ cấp của Kennedy thì cậu bé còn lại ở cạnh giường cậu nói, “Cái gối này cứng như cục gạch ấy”.
“Cậu có muốn đổi với của tớ không?” Harry hỏi.
“Tớ nghĩ cậu sẽ thấy tất cả chúng đều giống hệt nhau thôi”, cậu kia vừa nhe răng ra cười vừa nói, “nhưng rất cảm ơn cậu”.
Harry lấy thanh sô cô la của mình từ dưới gối ra và bẻ thành ba phần. Cậu đưa một phần cho Deakins, một phần nữa cho cậu bé đã cho cậu bàn chải và thuốc đánh răng.
“Tớ thấy là mẹ cậu nhạy cảm hơn mẹ tớ nhiều”, cậu này nói sau khi cắn một miếng. Lại một tiếng chuông vang lên. “Nhân tiện đây, tên tớ là Giles Barrington. Tên cậu là gì vậy?”
“Clifton. Harry Clifton”.
Harry không thể ngủ được quá nhiều hơn mấy phút mỗi lần, và không chỉ vì cái giường của cậu quá êm ái dễ chịu. Có thể nào Giles lại có quan hệ họ hàng với một trong số ba người đàn ông biết được sự thật về việc bố cậu đã chết như thế nào? Và nếu đúng như thế, liệu cậu ta được cắt ra từ cùng một thứ vải như bố cậu ta, hay như ông nội cậu ta?
Đột nhiên Harry cảm thấy thật cô đơn. Cậu mở nắp tuýp thuốc đánh răng Barrington vừa đưa cho cậu và bắt đầu mút nó cho tới lúc ngủ thiếp đi.
*
* *
Khi tiếng chuông - lúc này đã trở nên quen thuộc - reo lên lúc sáu giờ ba mươi phút sáng hôm sau, Harry lờ đờ trèo ra khỏi giường, cảm thấy mệt rã rời. Cậu đi theo Deakins vào phòng vệ sinh, và thấy Giles đang thử nước trong đó. “Các cậu nghĩ là liệu nơi này đã từng bao giờ nghe nói tới nước nóng chưa?” cậu này hỏi.
Harry vừa định trả lời thì người giám thị quát lớn tiếng, “Không được nói chuyện trong phòng vệ sinh!”
“Anh ta còn tệ hơn cả một viên tướng Phổ”, Barrington nói, dập hai gót chân vào nhau. Harry bật cười.
“Ai vừa nói đấy?” Fisher hỏi, gườm gườm liếc mắt về phía hai cậu nhóc.
“Em ạ”, Harry trả lời ngay lập tức.
“Tên?”
“Clifton”.
“Cứ thử mở cái mồm của mày ra lần nữa, Clifton, và tao sẽ cho mày ăn dép”.
Harry không hiểu ăn dép là gì, nhưng cậu có cảm giác đó không phải là chuyện hay ho gì. Sau khi đã đánh răng xong, cậu hối hả quay lại phòng ngủ mặc quần áo mà không nói thêm một lời nào nữa. Sau khi đã thắt xong cà vạt - một thứ cậu vẫn chưa thành thạo lắm - cậu đuổi theo và bắt kịp Barrington cùng Deakins trong lúc hai cậu kia đang bước xuống cầu thang tới phòng ăn.
Không ai nói một lời nào, vì các cậu bé không dám chắc họ có được phép trò chuyện trên cầu thang hay không. Khi cả ba đã yên vị trong phòng ăn để ăn sáng, Harry ngồi vào giữa hai người bạn mới quen của cậu, chăm chú quan sát trong lúc những bát cháo được đặt xuống trước mặt từng học sinh. Cậu thở phào nhẹ nhõm khi thấy chỉ có một cái thìa duy nhất trước mặt mình, vậy là lần này cậu không thể nhầm được nữa.
Harry húp một hơi bát cháo của cậu cứ như thể cậu sợ rằng bác Stan sẽ xuất hiện và giật nó khỏi tay cậu. Cậu là học sinh đầu tiên ăn xong, và không hề dành lấy một giây để suy nghĩ, Harry đặt thìa xuống bàn, cầm bát của cậu lên và bắt đầu liếm nó. Mấy cậu học sinh khác tròn mắt nhìn cậu kinh ngạc như thể không tin nổi, một số chỉ trỏ, trong khi một số khác cười khẩy. Harry đỏ bừng mặt và đặt cái bát trở lại xuống bàn. Chắc hẳn cậu đã òa khóc, nếu Barrington không cầm bát của cậu ta lên và bắt đầu liếm.