• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Chỉ thời gian có thể cất lời
  3. Trang 9

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 8
  • 9
  • 10
  • More pages
  • 68
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 8
  • 9
  • 10
  • More pages
  • 68
  • Sau

3

M

aisie đợi cho tới khi cô nghe thấy cửa trước đóng sầm lại và tin chắc rằng bác Stan đang trên đường đi làm trước khi thông báo, “Con đã tìm được việc làm nhân viên phục vụ tại khách sạn Royal”.

Không người nào đang ngồi quanh bàn lên tiếng đáp lại, vì những cuộc trò chuyện trong bữa ăn sáng thường diễn ra theo một xu hướng quen thuộc và chẳng khiến ai ngạc nhiên. Harry có cả tá điều muốn hỏi nhưng cậu muốn đợi bà ngoại lên tiếng trước. Bà chỉ bận bịu rót cho mình thêm một tách trà nữa, như thể chưa hề nghe thấy con gái mình nói gì.

“Có ai đó làm ơn nói gì đi chứ?” Maisie lên tiếng.

“Con thậm chí còn không nhận ra là mẹ đang tìm một công việc khác”, Harry đánh bạo nói.

“Mẹ có tìm đâu”, Maisie nói. “Nhưng tuần trước có ông Frampton, giám đốc điều hành khách sạn Royal, ghé qua quán Tilly’s uống cà phê. Ông ấy quay lại thêm vài lần nữa, sau đó đề nghị dành cho mẹ một chỗ làm!”

“Mẹ nghĩ con đang thoải mái với công việc tại quán trà”, cuối cùng bà cũng lên tiếng, tham gia vào cuộc trò chuyện. “Nói cho cùng, cô Tilly trả công khá, và giờ giấc thì cũng phù hợp”.

“Đúng là con thấy thoải mái ở đó”, mẹ Harry nói, “nhưng ông Frampton đang đề nghị trả con năm bảng một tuần, cộng thêm một nửa tổng các khoản tiền boa của khách. Đến mỗi thứ Sáu, con có thể mang về nhà đến sáu bảng”. Bà ngồi đó, miệng há hốc.

“Mẹ có phải làm việc vào ban đêm không?” Harry hỏi, sau khi đã liếm sạch bát cháo của bác Stan.

“Không, mẹ sẽ không phải làm đêm”, Maisie nói, xoa đầu con trai cô, “và hơn thế, cứ nửa tháng mẹ lại được nghỉ một ngày”.

“Liệu quần áo của con có đủ tươm tất cho một khách sạn lớn như Royal không?” bà ngoại hỏi.

“Con sẽ được phát một bộ đồng phục, cùng một cái tạp dề mới trắng tinh mỗi buổi sáng. Khách sạn thậm chí còn có xưởng giặt riêng của họ”.

“Mẹ không nghi ngờ chuyện đó”, bà ngoại nói, “nhưng mẹ có thể nghĩ đến một rắc rối mà rồi tất cả chúng ta sẽ phải học cách sống chung với nó”.

“Là gì vậy hả mẹ?” Maisie hỏi.

“Như thế con sẽ kiếm được nhiều tiền hơn Stan, và anh con sẽ không thích chuyện này đâu, không một chút nào”.

“Vậy thì nó sẽ phải học cách sống với điều đó, phải không nào?” Ông ngoại lên tiếng, lần đầu tiên đưa ra ý kiến sau nhiều tuần.

*

* *

Số tiền kiếm được thêm sẽ có lúc trở nên hữu ích, nhất là sau những gì diễn ra tại nhà thờ Holy Nativity. Khi ấy, Maisie đang chuẩn bị rời khỏi nhà thờ sau buổi lễ thì cô Monday chủ động đi dọc lối đi tới chỗ cô.

“Tôi có thể nói chuyện riêng một lát với bà không, bà Clifton?” cô Monday hỏi, trước khi quay đi và đi ngược trở lại theo lối đi tới phòng thay đồ của ban đồng ca. Maisie hối hả chạy theo cô ta như một đứa trẻ bị hút theo Người Thổi Sáo. Cô lo sợ điều tồi tệ nhất. Lần này Harry đã gây ra chuyện gì vậy?

Maisie đi theo cô phụ trách ban đồng ca vào trong phòng và cảm thấy đôi chân như khuỵu xuống khi cô nhìn thấy mục sư Watts, thầy Holcombe và một quý ông khác đang đứng sẵn ở đó. Cô Monday lặng lẽ đóng cửa lại, Maisie bắt đầu run bần bật không sao kiểm soát được.

Mục sư Watts khoác tay lên vai cô. “Con không có gì phải lo cả, con gái của ta”, ông trấn an cô. “Ngược lại, ta hy vọng con sẽ cảm thấy chúng ta là người mang đến tin mừng”, ông nói thêm, rồi mời cô ngồi. Maisie ngồi xuống, nhưng vẫn không ngừng run rẩy.

Sau khi tất cả mọi người đã ngồi xuống, cô Monday lên tiếng. “Chúng tôi muốn trao đổi với bà về Harry, bà Clifton”, cô bắt đầu nói. Maisie cắn môi; con trai cô có thể đã làm gì để đến mức ba người quan trọng thế này phải tập trung lại?

“Tôi sẽ không vòng vo nữa”, cô phụ trách ban đồng ca nói tiếp. “Thầy phụ trách âm nhạc tại St. Bede đã tới gặp tôi và hỏi liệu Harry có muốn ghi danh đăng ký xin một suất học bổng đồng ca của họ hay không”.

“Nhưng con trai tôi đang rất hạnh phúc tại nhà thờ Holy Nativity”, Maisie hỏi. “Hơn nữa, nhà thờ St. Bede nằm ở đâu vậy? Tôi chưa bao giờ nghe nói đến nó”.

“St. Bede không phải là nhà thờ”, cô Monday trả lời. “Đó là một trường dạy đồng ca chuyên cung cấp thành viên ban đồng ca cho St. Mary Redcliff, nơi nổi tiếng vì được Nữ hoàng Elizabeth vinh danh là nhà thờ đẹp đẽ và thánh thần nhất trên thế giới”.

“Như thế tức là con trai tôi sẽ phải rời khỏi trường học của nó và cả nhà thờ nữa ư?” Maisie hỏi với vẻ không thể tin nổi.

“Hãy cố gắng nhìn nhận việc này như một cơ hội có thể làm thay đổi cả cuộc đời cậu bé, thưa bà Clifton”, thầy Holcombe nói, lần đầu lên tiếng.

“Nhưng chẳng phải như thế nó sẽ phải ở bên những cậu bé bảnh bao, thông minh sao?”

“Tôi không nghĩ tại St. Bede sẽ có nhiều cậu bé thông minh hơn Harry”, thầy Holcombe nói. “Con trai bà là cậu bé thông minh nhất mà tôi từng dạy. Cho dù chúng tôi đã từng có cơ hội gửi các cậu bé vào trường trung học phổ thông, nhưng từ trước đến nay chưa từng có học sinh nào của chúng tôi có cơ hội giành được một chỗ tại St. Bede”.

“Có một điều con nên biết trước khi quyết định”, mục sư Watts nói. Maisie trông có phần còn lo lắng hơn. “Harry sẽ phải sống xa nhà trong suốt kỳ học, vì St. Bede là trường nội trú”.

“Thế thì không được”, Maisie nói. “Con làm sao có đủ tiền được ạ”.

“Điều đó sẽ không phải là khó khăn”, cô Monday nói. “Nếu Harry được trao học bổng, nhà trường sẽ không chỉ miễn mọi khoản phí mà cậu bé còn được hưởng mức học bổng là mười bảng một học kỳ”.

“Nhưng có phải đây là một trong những ngôi trường mà các ông bố thì mặc áo vét và đeo cà vạt, và các bà mẹ thì không phải làm gì không?” Maisie hỏi.

“Còn tệ hơn nữa kia”, cô Monday nói, cố làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng. “Các thầy giáo mặc áo chùng dài màu đen và đội mũ vuông trên đầu”.

“Dẫu vậy”, mục sư Watts thêm vào, “ít nhất với Harry là sẽ không còn chuyện bị đánh bằng roi da nữa. Ở St. Bede người ta tao nhã hơn nhiều. Ở đó họ chỉ phạt gậy các cậu bé thôi”.

Chỉ có Maisie là không hề cười. “Nhưng sao thằng bé lại muốn xa nhà cơ chứ?” cô hỏi. “Nó đã yên ổn tại trường tiểu học Merrywood, và nó cũng sẽ không muốn từ bỏ vị trí thành viên dàn đồng ca lâu năm tại nhà thờ Holy Nativity”.

“Tôi phải thú thực là mất mát của tôi còn lớn hơn của cậu bé”, cô Monday nói. “Nhưng thế đấy, tôi tin chắc rằng Chúa của chúng ta không muốn tôi ngáng đường của một cậu bé tài năng như thế, chỉ đơn giản vì những mong muốn ích kỷ của riêng tôi”, cô lặng lẽ nói thêm.

“Kể cả nếu tôi đồng ý”, Maisie nói, tung ra quân bài cuối cùng của cô, “điều đó không có nghĩa là Harry cũng đồng ý”.

“Tuần trước tôi đã nói chuyện với cậu bé”, thầy Holcombe thừa nhận. “Tất nhiên nó rất sợ trước một thách thức như thế, nhưng nếu tôi nhớ không lầm, những lời chính xác của cậu bé là ‘Con cũng muốn thử xem sao, thưa thầy, nhưng chỉ khi thầy nghĩ là con đủ giỏi.’ Nhưng”, thầy nói thêm trước khi Maisie kịp phản ứng, “con trai bà cũng đã nói rõ rằng nó thậm chí sẽ không buồn cân nhắc chuyện đó trừ khi mẹ nó đồng ý”.

*

* *

Harry vừa kinh hãi vừa bị kích động trước ý nghĩ được tham gia kỳ thi đầu vào, nhưng cũng lo lắng về việc sẽ thi trượt và làm nhiều người thất vọng ngang với việc thi đỗ và phải xa nhà.

Trong suốt học kỳ tiếp theo, cậu không bao giờ vắng một tiết học nào tại trường Merrywood, và khi quay về nhà vào mỗi buổi tối, cậu đi thẳng lên phòng ngủ mà cậu chia sẻ với bác Stan, tại đó, với một cây nến, cậu học miệt mài nhiều giờ liền cho tới khi không còn ý thức về thời gian nữa. Thậm chí có những lần mẹ cậu thấy Harry ngủ say sưa trên sàn nhà, sách vở rải rác xung quanh.

Vào mỗi buổi sáng thứ Bảy, cậu bé tiếp tục tới thăm Già Jack, người dường như biết rất nhiều về St. Bede, ông tiếp tục dạy Harry về rất nhiều thứ khác, cứ như thể ông già biết thầy Holcombe đã giảng tới đâu.

Vào các chiều thứ Bảy, trước sự khinh bỉ ra mặt của bác Stan, Harry không còn đi cùng bác tới Ashton Gate để xem Bristol City thi đấu mà quay trở lại Merrywood, nơi thầy Holcombe sẽ phụ đạo thêm cho cậu. Phải nhiều năm sau Harry mới biết được thầy Holcombe cũng đã phải bỏ qua những lần ra sân cổ vũ cho đội bóng Robins ưa thích để dạy thêm cho cậu.

Trong khi ngày thi tới gần, Harry ngày càng trở nên lo sợ hơn về khả năng thất bại hơn là thành công.

Tới ngày thi, thầy Holcombe tháp tùng cậu học sinh ngôi sao của ông tới hội trường Colston Hall, nơi sẽ diễn ra kỳ thi kéo dài hai giờ đồng hồ. Ông để Harry lại lối vào tòa nhà với lời căn dặn, “Đừng quên đọc kỹ mỗi câu hỏi hai lần trước khi con nhấc bút lên”, một lời khuyên ông đã nhắc đi nhắc lại vài lần trong suốt tuần vừa qua. Harry mỉm cười bồn chồn, rồi bắt tay thầy Holcombe như thể hai thầy trò là những người bạn vong niên.

Cậu bước vào phòng thi và thấy chừng sáu mươi cậu bé khác đang đứng rải rác thành từng nhóm nhỏ trò chuyện với nhau. Harry có thể thấy rất nhiều trong đám trẻ này đã quen nhau từ trước, trong khi cậu không quen ai cả. Bất chấp chuyện đó, một vài cậu bé ngừng nói chuyện và đưa mắt về phía cậu trong lúc cậu bước tới trước sảnh, cố tỏ ra tự nhiên.

“Abbott, Barrington, Cabot, Clifton, Deakins, Fry...”

Harry ngồi xuống chỗ của mình tại một bàn ở hàng đầu tiên, và chỉ trong khoảnh khắc trước khi đồng hồ đổ chuông báo mười giờ, vài vị giám thị mặc áo chùng đen, đội mũ vuông bước vào, đặt đề thi trên mặt bàn cho từng thí sinh.

“Các quý ông”, một vị giám thị đứng phía trước sảnh, người không tham gia phát đề, lên tiếng, “Tên tôi là thầy Frobisher, và tôi là chánh giám thị của các trò. Các trò có hai giờ để trả lời một trăm câu hỏi. Chúc may mắn”.

Một chiếc đồng hồ mà cậu không thể trông thấy điểm chuông mười giờ. Xung quanh cậu, tiếng ngòi bút thi nhau nhúng vào lọ mực và bắt đầu hăng hái lướt đi loạt xoạt trên giấy, nhưng Harry chỉ ngồi khoanh hai cánh tay lại, tựa người lên bàn và chậm rãi đọc từng câu hỏi. Cậu là một trong những thí sinh cuối cùng cầm lấy bút.

Harry không thể biết rằng thầy Holcombe đang bồn chồn đi đi lại lại trên vỉa hè phía bên ngoài, còn lo lắng hơn cậu học trò của ông rất nhiều. Hay mẹ cậu cứ vài phút lại ngước mắt nhìn lên chiếc đồng hồ trong đại sảnh khách sạn Royal trong lúc phục vụ cà phê buổi sáng cho khách. Hay cô Monday đang quỳ gối im lặng cầu nguyện trước ban thờ tại nhà thờ Holy Nativity.

Ngay sau khi đồng hồ điểm chuông mười hai giờ, các bài thi được thu về và các cậu bé được phép rời khỏi phòng thi, một số vui vẻ, một số cau có, số khác lại trầm ngâm.

Khoảnh khắc đầu tiên khi thầy Holcombe thấy cậu, tim ông chùng xuống. “Không lẽ lại tồi đến thế?” thầy hỏi.

Harry không trả lời cho tới khi cậu tin chắc không cậu bé nào khác có thể nghe thấy lời cậu nói. “Không như những gì con đã trông đợi tí nào”, cậu nói.

“Ý con là gì?” thầy Holcombe lo lắng hỏi.

“Các câu hỏi quá dễ”, Harry trả lời.

Thầy Holcombe cảm thấy chưa bao giờ trong đời, ông nhận được một lời khen tuyệt vời hơn thế.

*

* *

“Hai bộ vét, thưa bà, màu xám. Một quần dài, màu xanh hải quân. Năm áo sơ mi trắng. Năm cổ cồn hồ cứng màu trắng. Sáu đôi tất dài tới ngang bắp chân, màu xám. Sáu bộ đồ lót, màu trắng. Và một chiếc cà vạt St. Bede”. Người phụ việc của cửa hàng cẩn thận kiểm tra lại danh sách. “Tôi nghĩ thế là đủ mọi thứ rồi đấy. Ồ, không, cậu bé còn cần một cái mũ của trường nữa”. Anh ta cúi người xuống dưới quầy, mở một cái ngăn kéo ra, cầm lên một chiếc mũ lưỡi trai màu đỏ và đen rồi đội lên đầu Harry. “Vừa như in”, anh ta tuyên bố. Maisie mỉm cười nhìn con trai cô, không khỏi cảm thấy tự hào. Harry trông đã ra dáng một học sinh của St. Bede đến từng chân tơ kẽ tóc. “Tất cả là ba bảng, mười shiling(11) và sáu penny(12), thưa bà”.

11. 1 shiling thời này bằng 1/20 bảng.

12. 1 penny thời này bằng 1/240 bảng

Maisie cố không tỏ ra quá choáng váng. “Có thể mua được món nào trong số này là đồ cũ không?” cô khẽ nói.

“Không, thưa bà, đây không phải là cửa hàng bán đồ cũ”, người phụ việc nói, anh ta cũng đã đi đến quyết định rằng vị khách này sẽ không được phép mở một tài khoản.

Maisie mở ví của cô, lấy ra bốn bảng đưa cho anh ta và đợi lấy tiền trả lại. Cô cảm thấy thật nhẹ nhõm vì trường St. Bede đã ứng trước học bổng cho học kỳ đầu tiên, nhất là khi cô vẫn còn cần phải mua hai đôi giày da màu đen có buộc dây, hai đôi giày tập thể thao màu trắng có buộc dây, và một đôi dép dùng để đi trong phòng ngủ.

Người phụ việc khẽ hắng giọng. “Cậu bé sẽ còn cần hai bộ đồ ngủ và một cái áo choàng mặc ngày lễ”.

“Vâng, tất nhiên rồi”, Maisie nói, hy vọng cô vẫn còn đủ tiền trong ví để trả cho những món này.

“Và theo như tôi hiểu, cậu bé là học sinh được học bổng đồng ca?” người phụ việc hỏi, chăm chú nhìn kỹ hơn vào bản danh sách của anh ta.

“Vâng, đúng thế”, Maisie tự hào trả lời.

“Thế thì cậu ấy sẽ còn cần đến một cái áo chùng đỏ, hai áo thụng trắng, và một huy chương St. Bede.” Maisie chỉ muốn chạy ra khỏi cửa hàng. “Những thứ này sẽ được nhà trường cung cấp khi cậu bé tham dự buổi tập đồng ca đầu tiên”, người phụ việc nói thêm trước khi đưa tiền thừa lại cho cô. “Bà còn cần thêm gì nữa không, thưa bà?”

“Không, cảm ơn ông”, Harry nói, tay cầm lấy hai cái túi, nắm lấy cánh tay mẹ cậu và hối hả kéo cô ra khỏi cửa hàng của T.C. Marsh - Thợ may Danh tiếng.

*

* *

Harry dành buổi sáng thứ Bảy trước khi cậu phải có mặt để trình diện tại St. Bede cùng Già Jack.

“Cháu có hồi hộp về việc sắp chuyển tới trường mới không?” Già Jack hỏi.

“Không, cháu không hồi hộp”, Harry trả lời đầy thách thức. Già Jack mỉm cười. “Mà cháu sợ lắm”, cậu bé thú nhận.

“Tất cả những tay mới đến, như cháu sẽ được gọi, đều thế cả thôi. Hãy cố coi tất cả chuyện này như thể cháu sắp khởi hành chuyến phiêu lưu tới một thế giới mới, nơi mọi người đều khởi đầu bình đẳng như nhau”.

“Nhưng ngay khi những đứa khác nghe thấy cháu nói, bọn nó sẽ nhận ra cháu không hề ngang hàng với chúng”.

“Có thể lắm, nhưng ngay khi các học sinh khác nghe cháu hát, họ sẽ nhận ra họ không thể ngang hàng với cháu”.

“Phần lớn các học sinh khác đều là con em gia đình giàu có, với kẻ hầu người hạ”.

“Điều đó sẽ chỉ là sự an ủi cho những kẻ ngu ngốc hơn mà thôi”, Già Jack nói.

“Và một số đứa trong chúng sẽ có anh em trai ở trường, thậm chí từng có bố hay ông đã từng học ở đó trước chúng nữa”.

“Bố cháu là một người đàng hoàng”, Già Jack nói, “và không ai trong số bọn chúng có một người mẹ tốt hơn mẹ cháu, về chuyện này ta có thể cam đoan với cháu”.

“Ông biết bố cháu ạ?” Harry hỏi, không thể giấu nổi sự ngạc nhiên của cậu.

“Nói là biết thì hơi quá”, Già Jack nói, “nhưng ta đã quan sát bố cháu từ xa, như ta từng quan sát nhiều người khác làm việc tại bến tàu. Bố cháu là một người tử tế, can đảm, biết kính Chúa”.

“Nhưng ông có biết bố cháu chết như thế nào không ạ?” Harry hỏi, nhìn thẳng vào mắt Già Jack, hy vọng cuối cùng cậu cũng có được một đáp án trung thực cho câu hỏi đã làm cậu băn khoăn bấy lâu nay.

“Cháu đã được kể những gì rồi?” Già Jack thận trọng hỏi.

“Rằng bố cháu đã tử trận trong Cuộc chiến Vĩ đại. Nhưng vì cháu ra đời vào năm 1920, ngay cả cháu cũng có thể đoán được điều đó là không thể”.

Già Jack không nói gì suốt một hồi lâu. Harry vẫn ngồi yên trên mép ghế của cậu.

“Chắc chắn bố cháu đã bị thương nặng trong chiến tranh, nhưng cháu nói đúng, đó không phải là nguyên nhân gây ra cái chết của bố cháu”.

“Vậy thì bố cháu đã chết như thế nào?” Harry hỏi.

“Nếu ta biết, ta đã nói với cháu rồi”, Già Jack nói. “Nhưng có quá nhiều tin đồn lan truyền vào thời gian đó và ta không dám chắc nên tin ai. Tuy nhiên, có vài người, và cụ thể là ba người, chắc chắn biết sự thật về chuyện xảy ra tối hôm đó”.

“Bác Stan của cháu chắc hẳn phải là một trong số đó”, Harry nói, “nhưng hai người còn lại là ai vậy?”.

Già Jack do dự trước khi trả lời, “Là Phil Haskins và ông Hugo”.

“Ông Haskin? Ông đốc công ư?” Harry hỏi. “Ông ấy sẽ chẳng bao giờ cho cháu lảng vảng trước mặt mình. Thế còn ông Hugo là ai ạ?”

“Hugo Barrington, con trai của Sir Walter Barrington”.

“Chính là gia đình sở hữu công ty tàu biển đúng không ạ?”

“Đúng thế”, Già Jack đáp, sợ rằng ông đã đi quá xa.

“Và họ cũng là những người tử tế, can đảm, biết kính Chúa đúng không ạ?”

“Sir Walter là một trong những con người đáng kính nhất ta từng biết”.

“Nhưng con trai ông ấy, ông Hugo, thì sao ạ?”

“Không được cắt ra từ cùng một mảnh vải, ta e là vậy”, Già Jack nói mà không giải thích gì thêm.