K
hi bác Stan thức dậy vào buổi sáng, bằng cách nào đó bác luôn thành công trong việc đánh thức cả nhà dậy. Không ai phàn nàn gì cả vì bác là người kiếm tiền chính trong nhà, và dù thế nào đi nữa bác cũng rẻ tiền và đáng tin cậy hơn một cái đồng hồ báo thức.
Tiếng động đầu tiên Harry nghe thấy là tiếng cửa phòng ngủ đóng sầm lại. Tiếp theo âm thanh này là tiếng ông bác cậu rầm rầm bước đi trên lối đi bằng gỗ ọp ẹp, lao xuống cầu thang và ra khỏi nhà. Sau đó, một cánh cửa nữa sẽ đóng sầm lại khi bác biến mất vào trong nhà vệ sinh. Nếu ai đó vẫn còn ngái ngủ, tiếng nước xối ào ào khi bác Stan giật dây xích, kéo theo hai tiếng cửa đóng sầm lại nữa trước khi bác quay trở lại phòng ngủ sẽ giúp nhắc họ là bác Stan đang trông đợi bữa sáng của mình phải sẵn sàng trên bàn khi bác bước chân vào bếp. Bác chỉ rửa mặt, cạo râu vào các buổi tối thứ Bảy trước khi tới Palais hay Odeon. Bác chỉ tắm bốn lần một năm chia đều ra các quý. Sẽ không ai có thể buộc tội bác Stan phung phí những đồng tiền kiếm được đầy khó nhọc của mình vào xà phòng.
Maisie, mẹ Harry, sẽ là người tiếp theo thức dậy, rời khỏi giường chỉ tích tắc sau tiếng cửa đóng sầm đầu tiên. Sẽ có một bát cháo trên bàn ăn sẵn sàng khi bác Stan ra khỏi nhà vệ sinh. Bà ngoại cậu thức giấc ngay sau đó, và sẽ xuống bếp đến bên con gái trước khi bác Stan ngồi vào chỗ của bác ở đầu bàn. Harry cần có mặt dưới nhà trong vòng năm phút sau tiếng cửa đóng đầu tiên nếu cậu muốn có được chút gì đó để ăn sáng. Người cuối cùng xuất hiện trong bếp sẽ là ông ngoại, người đã điếc nặng đến mức thường vẫn ngủ ngon trong suốt thời gian diễn ra nghi thức sáng sớm của bác Stan. Nhịp sống thường nhật này trong gia đình Clifton không bao giờ thay đổi. Khi bạn chỉ có một nhà vệ sinh duy nhất ở bên ngoài, một chậu rửa và một chiếc khăn tắm, thứ tự trở thành điều cần thiết bắt buộc.
Khi Harry hoàn tất việc hắt vài vốc nước lạnh lên để rửa mặt, mẹ cậu cũng đã chuẩn bị xong bữa sáng trong bếp: hai lát bánh mì dày phết mỡ heo dành cho Stan, và bốn lát mỏng cho các thành viên còn lại trong nhà, chỗ bánh này sẽ được cô nướng lên nếu còn lại chút than nào trong cái bao vứt ngoài cửa trước vào mỗi ngày thứ Hai. Sau khi bác Stan đã ăn xong cháo, Harry sẽ được phép liếm bát.
Một bình trà lớn màu nâu luôn được chuẩn bị sẵn trên bếp lò, bà ngoại sẽ rót trà ra một lô cốc uống trà cọc cạch nhờ một ấm chuyên lọc trà khảm bạc mà bà được thừa kế từ mẹ mình. Trong lúc những thành viên khác của gia đình thưởng thức một cốc trà không đường - đường chỉ được dành cho những dịp long trọng và các ngày nghỉ lễ - bác Stan sẽ khui nắp chai bia đầu tiên của mình, mà thường là bác sẽ tu cạn nó chỉ trong một hơi. Sau đó, bác sẽ đứng dậy khỏi bàn ăn, ợ một hơi thật to trước khi cầm lấy hộp đồ ăn trưa mà bà ngoại đã chuẩn bị khi bác đang ăn sáng: hai miếng xăng - uých Marmite, một cái xúc xích, một quả táo, thêm hai chai bia và một gói năm điếu thuốc lá. Sau khi bác Stan rời nhà đi ra bến tàu, tất cả mọi người ngay lập tức bắt đầu nói chuyện.
Bà ngoại luôn muốn biết những ai đã ghé vào tiệm trà nơi con gái mình làm phục vụ bàn: họ ăn những gì, mặc ra sao, ngồi ở đâu; từng chi tiết về những món ăn nấu trên bếp trong một căn phòng được chiếu sáng nhờ những bóng đèn điện không để lại chút sáp nến nào, đó là chưa nói tới những vị khách thỉnh thoảng để lại một đồng ba penny làm tiền bo, khoản tiền mà Maisie sẽ phải chia đôi với người đầu bếp.
Maisie lại bận tâm hơn nhiều với việc tìm hiểu xem Harry đã làm gì ở trường ngày hôm trước. Cô yêu cầu con trai phải báo cáo mỗi ngày, một việc có vẻ dường như không làm bà ngoại quan tâm mấy, có lẽ vì bà chưa bao giờ đến trường. Mà nếu nghĩ cho cùng, bà cũng chưa bao giờ đặt chân tới một tiệm trà.
Ông ngoại hiếm khi bình luận gì, vì sau bốn năm liên tục nạp đạn rồi tháo vỏ đạn cho một khẩu pháo dã chiến cả sáng, trưa, chiều và tối, ông đã điếc đặc đến mức đành phải hài lòng với việc quan sát môi những người còn lại mấp máy và thỉnh thoảng lại gật gù. Vẻ bề ngoài này có thể làm người lạ có ấn tượng ông lão là một kẻ ngớ ngẩn, điều mà các thành viên còn lại của gia đình đều biết là không phải sau khi tự thân đã trả giá.
Nhịp sinh hoạt buổi sáng chỉ thay đổi đôi chút vào cuối tuần. Các ngày thứ Bảy, Harry sẽ bám theo ông bác rời khỏi bếp, luôn lui lại sau vài nhịp chân trong lúc ông bác cậu tới cầu tàu. Đến Chủ nhật, mẹ Harry sẽ đưa cậu bé tới nhà thờ Holy Nativity, tại đó, từ hàng ghế cầu nguyện thứ ba, cô sẽ có một quãng thời gian đắm mình trong ánh hào quang của cậu con trai, giọng sô - lô bè cao trong ban đồng ca của nhà thờ.
Nhưng hôm nay là thứ Bảy. Trong suốt quãng đường hai mươi phút đi bộ tới cầu tàu, Harry không bao giờ mở miệng trừ khi bác cậu lên tiếng. Mỗi lần như thế, câu chuyện lại bất di bất dịch quay lại đúng cuộc trò chuyện mà hai bác cháu đã nói với nhau vào thứ Bảy tuần trước.
“Khi nào cháu định rời khỏi trường và làm việc hàng ngày, hả chàng trai trẻ?” luôn là câu mở màn của bác Stan.
“Cháu không được phép rời khỏi trường cho tới năm mười bốn tuổi”, Harry nhắc nhở bác cậu. “Luật quy định như thế”.
“Thứ luật mắc dịch ngu ngốc, nếu cháu muốn biết ý kiến của bác. Bác đã chuồn khỏi trường và làm việc ở bến tàu từ khi bác mười hai tuổi”, Stan sẽ tuyên bố như thể Harry chưa bao giờ nghe qua lời nhận xét rất mực sâu sắc này. Harry chẳng buồn trả lời, vì cậu đã biết trước câu nói tiếp theo của bác cậu sẽ là: “Và hơn thế nữa, bác đã đăng ký gia nhập quân đội của Kitchener(5) trước ngày sinh nhật thứ mười bảy của bác”.
5. Lord Kitchener, bộ trưởng chiến tranh Anh thời thế chiến thứ nhất.
“Hãy kể cho cháu nghe về chiến tranh đi, bác Stan”, Harry nói, biết chắc chuyện này sẽ làm ông bác cậu bận bịu trong suốt mấy trăm yard(6) tiếp theo.
6. 1 yard = 0,9144 m
“Bác và bố cháu gia nhập Trung đoàn Hoàng gia Gloucestershire cùng một ngày”, bác Stan nói, đưa tay lên chiếc mũ vải của bác như thể đang chào một hồi ức xa xăm. “Sau mười hai tuần huấn luyện cơ bản ở trại Taunton, bọn bác được chở bằng tàu thủy tới Wipers để đánh nhau với bọn Boche(7). Khi tới nơi, phần lớn thời gian bọn bác ngồi ru rú trong các chiến hào nhung nhúc chuột, chờ tới khi được một tay sĩ quan mặt mày vênh váo ra lệnh rằng khi kèn hiệu nổi lên, bọn bác sẽ phải xông ra khỏi chiến hào, lưỡi lê giương sẵn, súng bắn liên tục trong lúc tiến tới chiến tuyến quân địch”. Sau những lời này là một khoảng im lặng thật lâu, rồi bác Stan sẽ nói thêm, “Bác là một trong số những người may mắn. Trở về nước Anh yêu dấu nguyên vẹn như lúc ra đi, vẫn còn nguyên chất Bristol”. Harry đoán trước được câu tiếp theo chính xác từng từ một, nhưng cậu vẫn im lặng. “Quả thực cháu không biết cháu may mắn đến thế nào đâu, chàng trai. Bác đã mất hai người anh trai, là bác Ray và bác Bert của cháu, còn bố cháu không chỉ mất một người anh trai, mà cả bố của ông ấy, tức là ông nội cháu, người cháu chưa bao giờ biết mặt. Một người đàn ông đúng nghĩa, có thể uống cạn một vại(8) bia nhanh hơn bất cứ công nhân cầu tàu nào khác bác từng được gặp qua.”
7. Cách gọi khinh miệt quân Đức thời Thế chiến thứ nhất.
8. 1 pint = 473,2 ml
Nếu bác Stan cúi xuống, hẳn bác đã nhìn thấy cậu nhóc lẩm nhẩm theo từng lời của mình, nhưng ngày hôm nay, trước sự ngạc nhiên của Harry, bác Stan lại nói thêm một câu bác chưa bao giờ nói ra trước đây. “Và bố cháu chắc vẫn còn sống đến tận hôm nay, nếu ông quản lý chịu nghe lời bác”.
Harry đột nhiên trở nên chăm chú. Cái chết của bố cậu vẫn luôn là chủ đề của những câu trò chuyện thì thào khe khẽ và những tiếng suỵt. Nhưng bác Stan chợt câm như hến, như thể bác nhận ra mình đã đi quá xa. Có thể là tuần sau, Harry thầm nghĩ, đuổi theo bác cậu và giữ nhịp bước đều đặn với bác như thể hai bác cháu là hai người lính đang đi duyệt binh.
“Vậy chiều nay City đá với đội nào vậy?” Bác Stan hỏi, lên tiếng trở lại.
“Charton Athletic”, Harry trả lời.
“Bọn họ là một đám thợ giày già khú”.
“Mùa trước họ đã hành chúng ta ra bã đấy”, Harry nhắc bác cậu. “May mắn chết tiệt, nếu cháu hỏi ý kiến của bác”, bác Stan nói, và rồi không mở miệng thêm nữa. Khi hai bác cháu tới lối vào khu bến cảng, bác Stan chấm công trước khi đi tới bãi cảng nơi bác đang làm việc cùng một nhóm công nhân bến tàu khác, không ai trong họ dám cho phép mình đến muộn dù chỉ một phút. Tỷ lệ thất nghiệp đang ở mức cao kỷ lục từ trước đến nay và đang có vô khối cậu thanh niên trẻ tuổi chầu chực ngoài cổng, sẵn sàng chờ để thế chỗ họ.
Harry không đi theo bác cậu, vì cậu biết nếu ông Haskin bắt gặp cậu lảng vảng quanh bãi hàng, cậu sẽ bị véo tai đến đỏ lừ, sau đó phải nhận thêm một cú đá vào mông từ ông bác vì tội làm ông đốc công khó chịu. Thay vì làm thế, cậu cất bước đi theo hướng ngược lại.
Đích đến đầu tiên của Harry vào mỗi sáng thứ Bảy là Già Jack Tar, người sống trong một toa xe lửa bỏ không ở tít đầu kia của bến tàu. Cậu chưa bao giờ kể với bác Stan về những chuyến ghé thăm đều đặn của mình, vì bác cậu đã cảnh cáo cậu cần tránh xa ông già bằng mọi giá.
“Có lẽ lão ấy không tắm cả bao nhiêu năm nay rồi”, ông bác mỗi quý tắm một lần của cậu nói, và cũng chỉ chịu đi tắm sau khi mẹ Harry phàn nàn về mùi của bác.
Nhưng sự tò mò từ lâu đã chiếm phần thắng với Harry, và một buổi sáng nọ cậu rón rén bò tới gần toa xe lửa bằng hai tay và đầu gối, nhổm người dậy và ngó vào qua một khung cửa sổ. Ông già đang ngồi ở ghế hạng nhất và đọc một quyển sách.
Già Jack quay lại đối diện với cậu và nói, “Vào đi, chàng trai”. Harry nhảy xuống, cắm đầu cắm cổ chạy một mạch cho tới khi về đến trước cửa nhà mình.
Ngày thứ Bảy tiếp theo, Harry lại một lần nữa leo lên toa xe lửa và ngó vào trong. Già Jack dường như đang ngủ say, nhưng rồi Harry nghe thấy ông nói, “Sau cháu không vào đi, chàng trai? Ta không cắn đâu”.
Harry xoay cái tay nắm cửa nặng nề bằng đồng thau và dè dặt kéo mở cửa toa xe, nhưng cậu không bước vào trong. Cậu chỉ nhìn chăm chăm vào ông lão đang ngồi giữa toa xe. Thật khó có thể nói chính xác ông bao nhiêu tuổi, vì khuôn mặt ông bị lấp dưới bộ râu màu muối tiêu cắt tỉa gọn gàng, bộ râu làm ông lão trông giống như người thủy thủ trên vỏ bao Players Please(9). Nhưng ông lão nhìn Harry với sự ấm áp trong ánh mắt, một điều mà bác Stan chưa bao giờ làm được.
9. Tên một loại thuốc lá.
“Có phải ông là Già Jack Tar không?” Harry đánh bạo hỏi.
“Người ta gọi ông như thế đấy”, ông lão trả lời.
“Và ông sống ở chỗ này ạ?” Harry hỏi, đưa mắt nhìn quanh toa xe, đôi mắt cậu bé dừng lại ở một chồng báo cũ chất cao trên cái ghế đối diện.
“Phải rồi”, ông lão đáp. “Nơi này đã trở thành nhà của ta trong hai mươi năm qua. Sao cháu không đóng cửa lại và ngồi xuống, chàng trai?”
Harry cân nhắc một lát về lời mời trước khi cậu nhảy xuống khỏi toa tàu và thêm một lần nữa cắm đầu cắm cổ chạy.
Đến ngày thứ Bảy tiếp theo, Harry có đóng cửa lại, nhưng tay vẫn đặt trên tay nắm, sẵn sàng tháo chạy nếu ông lão chỉ cần nhúc nhắc chân tay. Hai người nhìn nhau chằm chằm một lúc trước khi Già Jack hỏi, “Tên cháu là gì?”.
“Harry”.
“Và cháu học trường nào?”
“Cháu không đi học.”
“Vậy cháu sẽ làm gì với cuộc đời mình, chàng trai?”
“Tới làm việc ở bến tàu cùng bác cháu, tất nhiên rồi”, Harry trả lời.
“Sao cháu lại muốn làm việc đó?” ông lão hỏi.
“Sao lại không?” Harry nóng mặt. “Ông nghĩ cháu không đủ tốt để làm việc đó chắc?”
“Cháu quá tốt là đằng khác”, Già Jack đáp. “Khi ta ở vào tuổi cháu”, ông nói tiếp, “ta đã muốn nhập ngũ, và dù bố ta có nói gì hay làm gì cũng không thể thuyết phục được ta từ bỏ ý định ấy”. Trong một giờ đồng hồ tiếp theo, Harry đứng đó, mê mẩn, trong khi Jack Già hồi tưởng về các bến cảng, về thành phố Bristol, và về những miền đất bên kia biển lớn mà cậu chưa được dạy trong các bài học về địa lý.
Ngày thứ Bảy tiếp theo, và nhiều ngày thứ Bảy nữa mà cậu bé không thể nhớ được hết, Harry tiếp tục đến thăm Già Jack Tar. Nhưng cậu không hề kể gì với bác hay mẹ mình, vì sợ hai người sẽ cấm không cho cậu được tiếp tục tới thăm người bạn thật sự đầu tiên của cậu.
*
* *
Khi Harry gõ cửa toa xe lửa vào sáng thứ Bảy đó, Già Jack rõ ràng là đang chờ cậu, vì quả táo giống Cox’s Orange Pippin quen thuộc của ông đã được để trên chiếc ghế đối diện. Harry cầm quả táo lên, cắn một miếng rồi ngồi xuống.
“Cảm ơn ông Tar”, Harry vừa nói vừa chùi nước táo trên cằm. Cậu chưa bao giờ hỏi những quả táo từ đâu tới; việc này chỉ góp thêm vào vẻ bí ẩn của ông lão vĩ đại.
Ông thật khác biết bao so với bác Stan, người luôn lặp đi lặp lại mãi vài điều ít ỏi mà bác biết, trong khi Già Jack giới thiệu cho Harry những từ mới, những trải nghiệm mới, thậm chí cả những thế giới mới mỗi tuần. Cậu thường tự hỏi tại sao ông Tar không phải là một thầy giáo - ông lão dường như thậm chí còn biết nhiều hơn cả cô Monday, và nhiều gần như chẳng kém gì thầy Holcombe. Harry hoàn toàn bị thuyết phục rằng thầy Holcombe biết mọi thứ, bởi vì thầy chưa bao giờ đầu hàng bất cứ câu hỏi nào mà Harry đặt ra cho thầy. Già Jack mỉm cười nhìn cậu, nhưng không nói gì cho tới khi Harry đã ăn xong quả táo và ném cái lõi qua cửa sổ.
“Cháu đã học được những gì ở trường tuần này”, ông lão hỏi, “mà cháu đã không biết vào tuần trước đó?”.
“Thầy Holcombe nói với cháu rằng có những đất nước khác nằm bên kia đại dương là một phần của Đế chế Anh, và tất cả những đất nước này đều do nhà vua trị vì”.
“Thầy của cháu nói đúng đấy”, Già Jack nói. “Cháu có thể kể tên được nước nào trong số những đất nước này không?”
“ Úc. Canada. Ấn Độ”. Cậu ngần ngừ. “Và Mỹ nữa ạ”.
“Không, nước Mỹ thì không”, Già Jack nói. “Đúng là đã từng như thế, nhưng giờ thì không, vì một vị thủ tướng nhu nhược và một ông vua ốm yếu”.
“Ai là ông vua, và ai là vị thủ tướng ạ?” Harry giận dữ hỏi.
“Vua George III đang ngồi trên ngai vàng vào năm 1776,” Già Jack nói, “nhưng nói cho công bằng thì nhà vua là một người ốm yếu, trong khi huân tước North, thủ tướng của ông ấy, thì đơn giản là tảng lờ những gì đang diễn ra tại các thuộc địa, vậy là thật đáng buồn, cuối cùng chính những người đồng bào của chúng ta lại cầm súng chống lại chúng ta”.
“Nhưng hẳn là chúng ta đã đánh bại họ chứ ạ?” Harry hỏi.
“Không, chúng ta đã không thắng”, Già Jack nói. “Không những lẽ phải thuộc về phía họ - cho dù đây không hẳn là một điều kiện tiên quyết cho chiến thắng...”
“Điều kiện tiên quyết nghĩa là gì ạ?”
“Là điều kiện cần đến trước tiên”, Già Jack nói, sau đó tiếp tục như thể ông chưa hề bị ngắt lời. “Mà họ còn được lãnh đạo bởi một vị tướng xuất sắc”.
“Tên ông ấy là gì ạ?” “George Washington”.
“Tuần trước ông có kể với cháu Washington là thủ đô của nước Mỹ. Có phải ông ta được đặt tên theo thành phố đó không ạ?”
“Không, mà là thành phố đó được đặt theo tên ông ấy. Nó được xây dựng lên tại một vùng đồng lầy có tên là Columbia, nơi có sông Potomac chảy qua”.
“Có phải Bristol cũng được đặt tên theo một người không ạ?”
“Không”, Jack Già bật cười, thích thú trước cách cái đầu ham học hỏi của Harry có thể nhanh chóng chuyển từ chủ đề này sang chủ đề khác. “Thoạt đầu Bristol có tên là Brigstowe, nghĩa là nơi có một cây cầu”.
“Vậy thì nó trở thành Bristol từ khi nào ạ?”
“Các nhà sử học có phần khác nhau trong quan điểm của họ”, Già Jack nói, “cho dù tòa lâu đài Bristol được Robert xứ Gloucester xây vào năm 1109, khi ông ta nhận thấy cơ hội buôn bán lông cừu với người Ireland. Sau đó, thành phố đã phát triển thành một cảng biển thương mại. Kể từ đó, nó đã trở thành một trung tâm của ngành đóng tàu trong hàng trăm năm, và thậm chí còn phát triển nhanh hơn nữa khi hải quân cần mở rộng quy mô vào năm 1914”.
“Bố cháu đã chiến đấu trong Cuộc chiến Vĩ đại(10)”, Harry nói đầy tự hào. “Ông cũng thế phải không ạ?”
10. Tức Thế chiến thứ nhất.
Lần đầu tiên Già Jack do dự trước khi trả lời một câu hỏi của Harry. Ông chỉ đứng đó, không nói một lời. “Cháu xin lỗi, ông Tar”, Harry nói. “Cháu không có ý tọc mạch”.
“Không, không”, Già Jack nói. “Chỉ là đã nhiều năm qua không có ai hỏi ta câu hỏi đó”. Không nói thêm lời nào, ông lão xòe bàn tay ra để lộ một đồng sáu penny.
Harry cầm lấy đồng xu bạc nhỏ xíu và thử cắn nó, một việc cậu đã từng thấy bác mình làm. “Cháu cảm ơn ông”, cậu nói trước khi bỏ đồng xu vào túi.
“Hãy đi mua cho mình ít cá và khoai tây rán ở chỗ quán cà phê gần cầu cảng, nhưng đừng nói gì với bác của cháu, vì thế nào bác cháu cũng hỏi cháu lấy tiền ở đâu ra”.
Kỳ thực, Harry chưa bao giờ nói với bác cậu bất kỳ điều gì liên quan tới Già Jack. Cậu từng có lần nghe thấy bác Stan nói với mẹ cậu, “Lão khùng đó đáng ra phải bị nhốt lại”. Cậu đã hỏi cô Monday xem lão khùng là gì, vì cậu không thể tìm thấy từ đó trong từ điển, và khi cô nói cho cậu biết, lần đầu tiên cậu nhận ra bác Stan chắc chắn phải ngốc đến mức độ nào.
“Không hẳn là ngốc”, cô Monday đính chính, “chỉ đơn giản là không có thông tin đúng đắn, từ đó trở nên định kiến. Ta không hề nghi ngờ, Harry”, cô nói thêm, “rằng con rồi sẽ gặp thêm nhiều người như thế trong đời mình, một số người trong số họ còn ở những vị trí cao quý hơn nhiều so với bác con”.