Đ
iều tôi nhớ nhất sau khi Emma và mẹ rời khỏi nhà thờ là dường như tất cả mọi người đều có vẻ rất bình tĩnh. Không một tiếng la hét cuồng loạn, không ai ngất xỉu, thậm chí không ai to tiếng. Một vị khách có thể hoàn toàn được tha thứ vì đã không nhận ra rằng có bao nhiêu cuộc đời vừa bị tổn thương vô phương cứu chữa, thậm chí bị hủy hoại. Thật đậm chất Anh làm sao, tất cả vẻ bình thản cao ngạo đến cứng nhắc đó; không ai chịu thừa nhận rằng đời tư của họ vừa tan nát chỉ trong vòng một giờ đồng hồ duy nhất. Vậy đấy, ít nhất tôi phải thừa nhận rằng cuộc đời tôi đã tan nát.
Tôi đứng đó trong sự im lặng đờ đẫn giữa lúc các vai diễn khác thực hiện phần của họ. Già Jack đã làm đúng những gì ông coi là bổn phận của mình, không hơn không kém, cho dù vẻ tái nhợt và những nếp hằn sâu trên khuôn mặt lại cho biết điều khác hẳn. Ông hoàn toàn có thể chọn cách dễ dàng và chỉ cần đơn giản là từ chối lời mời dự đám cưới, nhưng những người được tặng thưởng Chữ thập Victoria không lẳng lặng lảng tránh.
Elizabeth Barrington như được rèn đúc nên từ kim loại khi qua thử thách đã cho thấy bà không hề thua kém bất cứ người đàn ông nào: một Portia thực thụ, song đáng buồn thay đã không lấy được một Brutus(64).
64. Portia và Brutus: Hai nhân vật trong vở Julius Ceasar của W. Shakespeare.
Trong lúc tôi nhìn quanh căn phòng thay đồ lễ để đợi vị giáo sĩ quay trở lại, tôi cảm thấy buồn nhất cho Sir Walter, người đã dẫn cháu ông tới ban thờ, không những không có thêm một đứa cháu trai mà có vẻ còn mất đi một người con trai như Già Jack đã cảnh báo với tôi từ nhiều năm trước, “không được cắt ra từ cùng thứ vải” với cha mình.
Người mẹ yêu dấu của tôi phản ứng thật rụt rè và lo lắng khi tôi cố ôm lấy bà trong vòng tay và cam đoan về tình yêu tôi dành cho bà. Rõ ràng mẹ tôi tin rằng chỉ mình bà là người đáng trách trong mọi chuyện xảy ra ngày hôm ấy.
Và Giles, bạn tôi đã trở thành một người đàn ông khi bố anh lén lút lẩn ra khỏi phòng thay đồ lễ để trốn sau một tảng đá nào đó, bỏ lại trách nhiệm cho những người khác chịu về việc làm của ông ta. Theo thời gian, những người có mặt ở đây dần nhận ra những gì xảy ra ngày hôm đó cũng đem đến hậu quả tàn khốc với Giles không kém gì với Emma.
Cuối cùng, lại là Lord Harvey. Ông là tấm gương cho tất cả chúng ta học tập về cách ứng xử trong tai hoạ. Sau khi giáo sĩ quay trở lại và giải thích những quy định pháp lý của việc có liên hệ huyết thống với chúng tôi, tất cả chúng tôi đều nhất trí rằng Lord Harvey sẽ là người đại diện cho hai bên gia đình thông báo với quan khách đang chờ đợi.
“Tôi đề nghị Harry đứng bên phải tôi”, ông nói, “vì tôi muốn tất cả mọi người có mặt đều hiểu rõ, đúng như con gái Elizabeth của tôi đã nói rất rõ ràng, là cậu ấy không hề có lỗi trong việc này”.
“Bà Clifton”, ông vừa nói vừa quay sang mẹ tôi, “tôi hy vọng bà sẽ vui lòng đứng bên trái tôi. Lòng can đảm trong nghịch cảnh của bà đã là một tấm gương cho tất cả chúng ta, nhất là cho một người trong chúng ta”.
“Tôi hy vọng đại úy Tarrant sẽ đứng bên cạnh Harry: chỉ một kẻ ngốc mới trách móc người báo tin. Giles sẽ đứng cạnh ngài đại úy. Sir Walter, có lẽ mời ngài đứng cạnh bà Clifton, trong khi các thành viên còn lại trong gia đình sẽ đứng sau chúng ta. Cho phép tôi được làm rõ với tất cả mọi người”, ông nói tiếp, “tôi chỉ có một mục đích duy nhất trong sự cố đáng buồn này, đó là để đảm bảo tất cả mọi người có mặt tại nhà thờ này hôm nay sẽ không có chút nghi ngờ nào về sự nhất trí của chúng ta trong vấn đề này, như thế sẽ không ai có thể nói chúng ta bị chia rẽ”.
Không nói thêm một lời nào, ông dẫn nhóm người nhỏ của mình rời khỏi phòng thay đồ lễ.
Khi đám đông đang xì xào nhìn thấy chúng tôi đi thành hàng quay trở ra, Lord Harvey không cần phải lên tiếng kêu họ im lặng nữa. Mỗi người trong chúng tôi đều đứng vào vị trí đã được sắp xếp trước trên các bậc cấp của ban thờ như thể chúng tôi chuẩn bị chụp một bức ảnh gia đình sau đó sẽ được đưa vào an - bum ảnh cưới.
“Các bạn thân mến, xin cho phép tôi được mạo muội tuyên bố”, Lord Harvey bắt đầu nói, “tôi đã được ủy thác trách nhiệm báo cho các vị biết, nhân danh hai gia đình chúng tôi rằng hôn lễ giữa cháu gái tôi, Emma Barrington, và cậu Harry Clifton, thật đáng buồn, sẽ không diễn ra hôm nay, cũng như vào bất cứ ngày nào khác”. Tám từ cuối cùng mang trong chúng một âm hưởng đoạn tuyệt thật ớn lạnh khi bạn là người duy nhất có mặt vẫn còn bám lấy một tia hy vọng mong manh rằng trở ngại này, đến một ngày kia rồi sẽ được giải quyết. “Tôi đành phải xin tất cả các vị thứ lỗi”, ông nói tiếp, “nếu các vị đã bị làm phiền về bất cứ phương diện nào, điều chắc chắn đó không phải là chuyện chúng tôi mong muốn. Cho phép tôi kết thúc với lời cảm ơn các vị vì sự hiện diện tại đây hôm nay, và chúc tất cả các vị một chuyến trở về nhà an toàn”.
Tôi không dám chắc việc gì sẽ xảy đến tiếp theo, nhưng rồi một hai người trong đám đông quan khách đứng dậy khỏi chỗ của họ và bắt đầu chậm rãi rời khỏi nhà thờ; chỉ sau vài khoảnh khắc, vài người lác đác ban đầu đã trở thành một dòng người liên tục, cho tới khi cuối cùng chỉ còn lại chúng tôi đứng trên các bậc cấp của ban thờ.
Lord Harvey ngỏ lời cảm ơn vị giáo sĩ, chân thành bắt tay tôi trước khi đưa vợ ông bước xuống lối đi chính và ra khỏi nhà thờ.
Mẹ tôi quay sang tôi, cố nói gì đó, nhưng hoàn toàn bị các cảm xúc của bà khống chế. Già Jack tìm đến giúp chúng tôi, nhẹ nhàng cầm lấy tay mẹ đưa bà ra về, trong khi Sir Walter quan tâm tới Grace và Jessica. Quả thực đó không phải là một ngày mà các bà mẹ và các cô phù dâu muốn nhắc đến trong suốt phần đời còn lại của họ.
Giles và tôi là những người cuối cùng ra về. Cậu đã bước vào nhà thờ với tư cách là phù rể cho tôi, và giờ đây rời đi với băn khoăn tự hỏi liệu cậu có phải là em trai cùng cha khác mẹ với tôi hay không. Có một số người bên bạn vào những giờ phút đen tối nhất của bạn, trong khi những người khác ngoảnh mặt bước đi; chỉ một số ít ỏi bước về phía bạn và trở thành những người bạn còn thân thiết hơn nữa.
Sau khi chúng tôi đã chào từ biệt mục sư Styler, người dường như không biết nói sao để bày tỏ sự buồn bã của ông, Giles và tôi uể oải bước đi trên con đường lát gạch và quay trở lại trường của chúng tôi. Hai chúng tôi không nói với nhau lời nào trong khi leo lên những bậc cầu thang bằng gỗ về phòng của mình, ngồi phịch xuống những chiếc ghế tựa bọc da cũ kỹ và sự im lặng phiền muộn mới mẻ.
Chúng tôi ngồi bên nhau trong khi ngày dần chuyển sang đêm. Thỉnh thoảng nói vài câu trò chuyện vô nghĩa không đầu không đuôi. Khi những cái bóng trải dài đầu tiên xuất hiện, kẻ báo hiệu của bóng tối vẫn thường giúp những cái lưỡi được thả lỏng, Giles hỏi tôi một câu hỏi mà bản thân tôi không hề nghĩ tới suốt nhiều năm qua.
“Cậu còn nhớ lần đầu tiên cậu và Deakins tới thăm Manor House không?”
“Làm sao tớ quên được? Hôm ấy là sinh nhật mười hai tuổi của cậu, và bố cậu đã từ chối bắt tay tớ”.
“Cậu có bao giờ tự hỏi vì sao không?”
“Tớ nghĩ hôm nay chúng ta đã biết lý do”, tôi nói, cố không tỏ vẻ quá vô cảm.
“Không, chưa đâu”, Giles khẽ nói. “Điều chúng ta phát hiện ra hôm nay là khả năng Emma có thể là em gái cùng cha khác mẹ với cậu. Giờ đây tớ hiểu ra lý do bố tớ giữ bí mật về lần quan hệ với mẹ cậu suốt bao năm qua là vì ông lo sợ hơn nhiều việc cậu có thể biết được rằng cậu là con trai ông ấy”.
“Tớ không hiểu sự khác biệt”, tôi nói, tròn mắt nhìn cậu ta.
“Vậy thì việc cậu cần nhớ lại là câu hỏi duy nhất bố tớ hỏi hôm ấy nó đặc biệt quan trọng”.
“Ông ấy hỏi sinh nhật tớ là khi nào”.
“Đúng thế, và khi ông ấy biết cậu chỉ hơn tớ có mấy tuần, bố tớ lập tức rời đi mà không nói thêm lời nào nữa. Và sau đó, khi bọn mình phải quay trở lại trường, ông ấy đã không ra khỏi phòng làm việc để tới tạm biệt, cho dù hôm ấy là ngày sinh nhật tớ. Mãi tới tận hôm nay tớ mới hiểu ra ý nghĩa của những hành động ấy”.
“Làm thế nào một biến cố nho nhỏ như vậy vẫn còn quan trọng sau bấy nhiêu năm được?” tôi hỏi.
“Bởi vì chính vào khoảnh khắc ấy bố tớ hiểu ra rất có thể cậu là con trai cả của ông, và khi ông qua đời, có thể sẽ là cậu, chứ không phải tớ, là người thừa kế tước hiệu của gia đình, công việc kinh doanh, và tất cả tài sản của ông ấy”.
“Nhưng chắc chắn bố cậu có thể để lại tài sản của ông ấy cho bất cứ ai mà ông thích, và chắc chắn người đó không phải là tớ rồi”.
“Tớ ước gì mọi sự đơn giản như thế”, Giles nói, “nhưng như ông nội tớ vẫn thường xuyên nhắc, bố của ông, Sir Joshua Barrington, được nữ hoàng Victoria phong tước hiệp sĩ năm 1877 vì những cống hiến cho ngành công nghiệp hàng hải. Trong di chúc của mình, cụ đã nói rõ toàn bộ tước vị, danh hiệu và tài sản của cụ phải được để lại cho người con trai lớn nhất còn sống tới lúc trưởng thành, và tiếp tục như thế trong các thế hệ sau”.
“Nhưng tớ không có chút hứng thú nào với việc đòi hỏi những thứ rõ ràng chẳng phải của tớ”, tôi nói, cố trấn an cậu.
“Tớ chắc là không rồi”, Giles nói, “nhưng có lẽ cậu sẽ không có lựa chọn nào khác trong vấn đề này, vì đến thời điểm nào đó, luật pháp sẽ yêu cầu cậu nhận lấy vị trí người đứng đầu của gia đình Barrington”.
*
* *
Giles chia tay tôi sau nửa đêm để lái xe tới Gloucestershire. Cậu hứa sẽ tìm hiểu xem Emma có sẵn lòng gặp tôi hay không, vì hai chúng tôi đã chia tay nhau mà thậm chí chưa kịp nói lời tạm biệt, và nói cậu sẽ quay lại Oxford ngay khi có được bất cứ tin tức nào.
Tối hôm ấy tôi không hề chợp mắt. Có quá nhiều suy nghĩ đang vùn vụt lao qua tâm trí tôi, và trong một khoảnh khắc, chỉ một khoảnh khắc thôi, thậm chí tôi đã nghĩ tới chuyện tự sát. Nhưng tôi không cần đến Già Jack để nhắc nhở mình rằng đó là lối thoát dành cho những kẻ hèn nhát.
Tôi không rời khỏi phòng mình trong suốt ba ngày sau đó. Tôi không trả lời những cái gõ cửa khe khẽ. Tôi không nhấc máy khi điện thoại đổ chuông. Tôi không mở ra xem những lá thư được nhét dưới khe cửa. Có thể tôi đã thật vô tâm khi không hồi đáp những người chỉ có thiện ý, nhưng đôi khi quá nhiều sự thông cảm còn kinh khủng hơn cả sự cô độc.
Giles quay về Oxford vào ngày thứ tư. Cậu ấy không cần phải nói chuyện với tôi để tôi nhận ra rằng tin cậu mang về sẽ không đem đến bất cứ sự an ủi nào. Hóa ra thực tế còn ảm đạm hơn những gì tôi lường trước. Emma và mẹ đã tới ở tại lâu đài Mulgerie, nơi chúng tôi định trải qua kỳ trăng mật, với không người thân nào được lại gần dưới mười dặm. Bà Barrington đã yêu cầu các luật sư bắt đầu thủ tục ly hôn, nhưng họ không thể chuyển bất cứ giấy tờ nào tới chồng bà vì không ai nhìn thấy ông ta kể từ khi ông lén trốn ra khỏi phòng thay đồ lễ. Lord Harvey và Già Jack đều đã từ chức khỏi hội đồng quản trị của công ty Barrington, nhưng vì tôn trọng Sir Walter, cả hai người đều không công bố công khai lý do của họ - song chuyện này cũng chẳng ngăn nổi những kẻ ngồi lê đôi mách có một ngày tưng bừng mở hội. Mẹ tôi đã rời khỏi Câu lạc bộ đêm Eddie’s và chuyển sang làm nhân viên phục vụ bàn tại khách sạn Grand.
“Emma thế nào rồi?” tôi hỏi. “Cậu đã hỏi cô ấy...”
“Tớ thậm chí còn chẳng có cơ hội nói chuyện với nó”, Giles nói. “Mẹ tớ và nó đã lên đường đi Scotland trước khi tớ đến nơi. Nhưng em gái tớ để lại cho cậu một lá thư trên bàn ngoài tiền sảnh”. Tôi có thể cảm thấy tim mình đập nhanh hơn khi cậu ta đưa cho tôi chiếc phong bì mang nét chữ viết tay quen thuộc của cô. “Nếu lát nữa cậu thấy muốn ăn tối, thì tớ sẽ chờ trong phòng tớ”.
“Cảm ơn cậu”, tôi khẽ nói.
Tôi ngồi xuống chiếc ghế đang kê cạnh khung cửa sổ nhìn xuống sân trong của khu nhà Cobb, không muốn mở một lá thư tôi biết sẽ không đem tới cho tôi dù chỉ một tia hy vọng. Cuối cùng tôi cũng xé phong bì và lấy ra ba trang giấy kín nét chữ viết tay gọn gàng của Emma. Ngay cả khi ấy, phải mất một lúc tôi mới có thể đọc những lời cô viết
Manor House
Chew Valley
Gloucestershire
Ngày 29 tháng Bảy, 1939
Harry yêu dấu của em,
Bây giờ đang là nửa đêm, và em đang ngồi trong phòng ngủ của mình viết cho người đàn ông duy nhất em sẽ mãi yêu.
Nỗi căm hận bố, người em sẽ không bao giờ có thể tha thứ, đã được thay thế bằng một tâm trạng bình an đột ngột, vì thế em cần phải viết ra những dòng này trước khi những cảm xúc cay đắng quay trở lại nhắc nhở em rằng con người tráo trở ấy đã làm hai ta mất mát nhiều đến thế nào.
Em chỉ mong chúng mình được chia tay nhau như những người yêu, chứ không phải như hai kẻ xa lạ trong một căn phòng đông đúc, vì số mệnh đã quyết định chúng ta sẽ không bao giờ được nói ra những lời ‘cho tới khi cái chết chia lìa chúng ta’, cho dù em biết chắc em sẽ xuống mồ mà chỉ yêu một người duy nhất.
Em sẽ không bao giờ chịu hài lòng chỉ với ký ức về tình yêu của anh, vì nếu còn một tia hy vọng dù nhỏ nhất rằng Arthur Clifton là bố anh, hãy tin em, anh yêu, rằng em sẽ mãi thủy chung.
Mẹ em tin rằng một khi cùng với thời gian, ký ức về anh, giống như mặt trời lúc hoàng hôn, sẽ phai nhạt dần, và cuối cùng tan biến, trước khi báo hiệu một bình minh mới. Không lẽ mẹ đã quên rằng bà từng nói với em vào ngày diễn ra đám cưới của em rằng tình yêu chúng ta dành cho nhau thật trong sáng, đơn thuần và hiếm có đến mức chắc chắn nó sẽ vượt qua được thử thách của thời gian, điều mẹ thừa nhận rằng bà chỉ có thể ghen với em, vì bà chưa bao giờ được trải nghiệm một niềm hạnh phúc như thế.
Nhưng cho tới khi em có thể trở thành vợ anh, anh yêu dấu, em đã quyết định chúng ta phải tạm xa nhau, trừ khi, và chỉ cho tới khi, chúng ta có thể được liên hệ với nhau một cách hợp pháp. Không ai khác có thể hy vọng dành lấy vị trí của anh, và nếu cần, em sẽ sống độc thân còn hơn chấp nhận yên vị bên một kẻ thay thế nào đó.
Em không rõ liệu rồi sẽ có ngày em không đưa tay ra, trông đợi có anh ở bên em, và liệu có lúc nào đó em có thể thiếp đi mà không thầm gọi tên anh.
Em sẵn sàng hy sinh phần đời còn lại của mình để có thêm một năm nữa giống như năm chúng mình vừa có bên nhau, và không luật lệ nào do Chúa hay con người tạo ra có thể thay đổi điều đó. Em sẽ vẫn cầu nguyện rồi đến một ngày kia khi chúng mình có thể được kết hợp cùng nhau dưới sự chứng kiến của Đức Chúa và những con người kia, nhưng cho tới lúc đó, anh yêu quý, em sẽ vẫn luôn là người vợ yêu dấu của anh, chỉ trừ trên danh nghĩa.
Emma.