• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Chỉ thời gian có thể cất lời
  3. Trang 61

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 60
  • 61
  • 62
  • More pages
  • 68
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 60
  • 61
  • 62
  • More pages
  • 68
  • Sau

49

K

hi Harry cuối cùng cũng đủ trấn tĩnh lại để mở cả đống thư rải đầy dưới sàn nhà, anh bắt gặp một lá thư do thư ký của Già Jack gửi tới từ London.

Quảng trường Soho

London

Thứ Hai, ngày 2 tháng Tám, 1939

Ông Clifton thân mến,

Có thể ông sẽ không nhận được lá thư này cho tới khi ông quay về sau kỳ nghỉ trăng mật tại Scotland, nhưng tôi đang băn khoăn không rõ liệu đại úy Tarrant có lưu lại ở Oxford sau lễ cưới hay không. Ngài đại úy đã không quay lại văn phòng vào sáng thứ Hai, và kể từ lúc đó ông chưa hề xuất hiện, vì vậy không rõ ông có biết có thể liên lạc với ngài đại úy ở đâu hay không.

Tôi rất mong nhận được hồi âm của ông.

Chân thành cảm ơn ông,

Phyllis Watson

Rõ ràng Già Jack đã quên không báo cho cô Watson biết rằng ông sẽ xuống Bristol chơi vài ngày cùng Sir Walter để cho thấy, mặc dù ông đã khiến hôn lễ bị bãi bỏ, đồng thời cũng từ chức khỏi hội đồng quản trị của công ty Barrington nhưng ông vẫn là một người bạn thân của ngài chủ tịch. Vì không có lá thư thứ hai nào của cô Watson trong chồng thư chưa mở của anh, Harry đoán hẳn Già Jack đã quay về quảng trường Soho và trở về phía sau bàn làm việc của ông.

Harry dành cả buổi sáng trả lời những lá thư anh vẫn chưa hồi đáp; có rất nhiều người tử tế bày tỏ sự thông cảm - không phải lỗi của họ nếu họ gợi lại cho anh những hồi ức bất hạnh. Đột nhiên Harry quyết định phải đi khỏi Oxford càng xa càng tốt. Anh nhấc điện thoại, nói với nhân viên tổng đài rằng anh muốn thực hiện một cuộc gọi đường dài lên London. Nửa giờ đồng hồ sau, cô này gọi lại báo cho anh biết số điện thoại này liên tục bận. Sau đó, anh thử gọi tới Barrington House cho Sir Walter, nhưng chỉ có chuông điện thoại reo mãi. Thất vọng vì không liên lạc được với cả hai người, Harry quyết định làm theo một câu tôn chỉ của Già Jack: Hãy nhấc mông dậy và làm gì đó tích cực.

Anh vớ lấy chiếc vali đã chuẩn bị sẵn cho kỳ trăng mật ở Scotland, đi qua tiền sảnh nói với người gác cửa rằng anh sẽ lên London và chỉ trở lại khi học kỳ mới bắt đầu. “Nếu Giles Barrington hỏi tôi đi đâu”, anh nói thêm, “làm ơn hãy nói với anh ấy tôi đi làm cho Già Jack”.

“Già Jack”, người gác cửa nhắc lại, ghi cái tên xuống một mảnh giấy.

Trong lúc ngồi trên chuyến tàu tới ga Paddington, Harry đọc trên tờ The Times những thông điệp mới nhất đang được trao đi gửi lại giữa Bộ Ngoại giao tại London và Bộ Ngoại giao của Đế chế tại Berlin. Anh bắt đầu nghĩ ông Chamberlain là người duy nhất còn tin vào khả năng hòa bình trong bối cảnh hiện tại. The Times tiên đoán nước Anh sẽ ở trong tình trạng chiến tranh chỉ sau ít ngày nữa và ngài Thủ tướng sẽ khó lòng hy vọng tiếp tục tại vị nếu người Đức bất chấp tối hậu thư của ông ta và tiến quân vào Ba Lan.

The Thunderer tiếp tục với việc đề xuất rằng ngay cả trong trường hợp đó, chắc hẳn một chính phủ liên hiệp sẽ được thành lập, đứng đầu là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Lord Halifax (một quân bài an toàn), chứ không phải Winston Churchill (không thể đoán trước và nóng nảy). Bất chấp sự khó chịu ra mặt mà tờ báo dành cho Churchill, Harry không tin nước Anh cần đến một “quân bài an toàn” vào thời điểm cụ thể này của lịch sử, mà là ai đó không sợ phải ra tay hung bạo với một kẻ hung bạo.

Khi Harry bước xuống tàu tại ga Paddington, anh bắt gặp cả một rừng những bộ quân phục đủ màu sắc ùa về phía mình từ mọi hướng. Anh đã quyết định xong mình sẽ gia nhập binh chủng nào khi chiến tranh nổ ra. Một ý nghĩ ảm đạm thoáng lướt qua tâm trí Harry trong lúc anh lên xe buýt tới Piccadilly Circus: nếu anh bị giết trong khi phụng sự tổ quốc mình, chuyện đó sẽ giải quyết hết mọi rắc rối của gia đình Barrington - ngoại trừ một người. Khi chiếc xe buýt tới Piccadilly, Harry nhảy xuống và bắt đầu lách đi qua giữa những chú hề tạo nên các gánh xiếc khu West End, qua khoảng đất của rạp xiếc, những nhà hàng đặc quyền và hộp đêm đắt đỏ, tất cả có vẻ như đều quyết tâm tảng lờ bất cứ biểu hiện nào liên quan tới chiến tranh. Hàng của những người phải bỏ nhà cửa đi di tản đi ra đi vào tòa nhà trên quảng trường Soho có vẻ còn dài hơn, nhếch nhác hơn so với lần đầu Harry ghé thăm. Thêm một lần nữa, khi anh leo cầu thang lên lầu ba, một số người tị nạn đứng tránh sang bên, đoán rằng anh chắc phải là một nhân viên của văn phòng. Anh hy vọng mình sẽ như vậy trong vòng một giờ nữa.

Khi lên tới lầu ba, Harry hướng thẳng tới phòng làm việc của cô Watson. Anh thấy bà đang bận rộn điền các biểu mẫu, phân phát giấy bảo lãnh đi tàu, thu xếp nơi ở và cung cấp những khoản tiền mặt nhỏ cho những người lâm vào cảnh tuyệt vọng. Khuôn mặt bà sáng lên khi bà nhìn thấy Harry. “Hãy cho tôi biết rằng đại úy Tarrant đi cùng cậu nhé”, là những lời đầu tiên bà nói.

“Không đâu, ông ấy không đi cùng tôi”, Harry nói. “Tôi đoán ông ấy đã trở về London, và vì thế mà tôi có mặt tại đây. Tôi không biết bà có cần thêm người giúp nữa hay không”.

“Cậu thật tử tế, Harry”, bà thư ký nói, “nhưng điều hữu ích nhất cậu có thể làm giúp tôi lúc này là tìm đại úy Tarrant. Nơi này sắp rối tung lên khi vắng mặt ông ấy rồi”.

“Lần cuối cùng tôi nghe được tin về đại úy, thì ông ấy đang ở nhà Sir Walter Barrington tại Bristol”, Harry nói, “nhưng chuyện đó cũng từ cách đây ít nhất nửa tháng trước rồi”.

“Chúng tôi chưa hề thấy ông ấy kể từ ngày ông ấy tới Oxford dự lễ cưới của cậu”, cô Watson nói trong lúc cố tìm cách an ủi hai người nhập cư không thể nói được nổi một từ tiếng Anh.

“Đã có ai thử gọi điện tới căn hộ xem ông ấy có ở đó chưa?” Harry hỏi.

“Ông ấy không có điện thoại”, cô Watson nói, “và tôi hầu như chưa đặt chân về nhà của chính mình trong suốt hai tuần vừa qua”, bà nói thêm, hất hàm về phía một hàng dài người đến hút tầm mắt.

“Vậy bà nghĩ sao nếu tôi tới đó kiểm tra, và báo lại cho bà?” “Cậu sẵn lòng chứ?” cô Watson hỏi trong khi hai cô bé con bắt đầu khóc. “Đừng khóc, mọi thứ rồi sẽ ổn cả thôi”, bà an ủi hai đứa trẻ trong khi quỳ xuống đưa một cánh tay ôm lấy chúng. “Ông ấy sống ở đâu?” Harry hỏi.

“Số hai mươi ba, Prince Edward Mansions, Lambeth Walk. Hãy đi xe buýt số mười một đến Lambeth, sau đó cậu sẽ phải hỏi đường. Và cảm ơn cậu, Harry”. Harry quay lại đi về phía cầu thang. Có điều gì đó không ổn, anh nghĩ. Già Jack sẽ không bao giờ rời khỏi vị trí của ông mà không báo trước lý do với cô Watson.

“Tôi quên không hỏi”, cô Watson lớn tiếng gọi với theo chàng trai, “kỳ trăng mật của cậu thế nào?”

Harry cảm thấy anh đã cách đủ xa để không nghe thấy bà.

Quay lại Piccdilly Circus, anh lên một chiếc xe buýt hai tầng chật cứng binh lính. Chiếc xe chạy tới Whitehall, nơi này đông nghịt sĩ quan, và tiếp tục qua Quảng trường Quốc hội, nơi một đám đông nghe ngóng đang chờ đợi bất cứ mẩu tin tức nào có thể lọt ra từ Hạ viện. Chiếc xe buýt tiếp tục lộ trình của nó qua cầu Lambeth, và Harry xuống xe khi nó đi tới kè Albert.

Một cậu bé bán báo đang lớn tiếng rao “Nước Anh chờ đợi câu trả lời của Hitler” bảo Harry hãy đi theo con phố thứ hai bên trái, sau đó là con phố thứ ba bên phải, và nói thêm cho ăn chắc, “Em cứ nghĩ là ai cũng biết Lambeth Walk ở đâu chứ”.

Harry bắt đầu chạy trối chết và không dừng lại cho tới khi anh đến bên một khu chung cư trông tàn tạ đến mức Harry chỉ còn biết tự hỏi rằng nó đã được đặt tên theo Hoàng tử Edward nào. Anh đẩy một cánh cửa sẽ không trụ trên mấy cái bản lề thêm được bao lâu nữa và vội vàng bước lên cầu thang, nhanh nhẹn bước chân qua những đống rác đã nhiều ngày chưa được dọn.

Khi anh lên tới lầu hai, Harry dừng lại bên ngoài phòng số 23 và gõ mạnh lên cửa, song không có ai trả lời. Anh gõ cửa lần nữa, mạnh hơn, nhưng vẫn không có trả lời. Anh chạy xuống cầu thang đi tìm ai đó làm việc trong tòa nhà, và khi xuống tới tầng trệt anh tìm thấy một ông lão đang ngồi ủ ê trên một cái ghế thậm chí trông còn già nua hơn, hút một điếu thuốc lá cuốn và lật qua từng trang tờ Daily Mirror.

“Gần đây ông có gặp đại úy Tarrant không?” Harry nghiêm giọng hỏi.

“Trong vài tuần vừa qua thì không, thưa ông”, ông già nói, nhổm người dậy và gần như đứng nghiêm khi nghe thấy giọng của Harry.

“Ông có chìa khóa dự phòng có thể mở cửa căn hộ đó không?” Harry hỏi.

“Tôi có, thưa ông, nhưng tôi không được phép dùng đến ngoại trừ trường hợp khẩn cấp”.

“Tôi có thể cam đoan với ông đây là một trường hợp khẩn cấp”, Harry nói, rồi lập tức quay người lại hối hả lao lên cầu thang, không đợi ông già trả lời.

Ông già đi theo sau anh ngay lập tức, cho dù không được nhanh bằng. Sau khi tới nơi, ông lão mở cửa ra. Harry hối hả đi từ phòng này sang phòng khác, nhưng không thấy bóng dáng Già Jack đâu. Cánh cửa cuối cùng anh tìm đến bị đóng kín. Anh khẽ gõ lên cửa, thầm sợ điều tồi tệ nhất. Không có tiếng trả lời, anh thận trọng bước vào, và tìm thấy một chiếc giường được dọn gọn gàng và không thấy bóng dáng ai. Hẳn ông lão vẫn còn ở chỗ Sir Walter là ý nghĩ đầu tiên xuất hiện trong đầu Harry.

Anh cảm ơn người gác cửa, quay xuống cầu thang và ra phố trong lúc cố sắp xếp lại các suy nghĩ trong đầu. Anh vẫy một chiếc taxi vì không muốn mất thêm thời gian trên xe buýt tại một thành phố xa lạ.

“Tới ga Paddington. Tôi đang vội”.

“Dạo gần đây ai cũng có vẻ vội vàng”, Tài xế lái xe vừa nói vừa phóng xe đi.

Hai mươi phút sau, Harry đang đứng trên đường ke số 6, nhưng phải mất năm mươi phút nữa đoàn tàu mới chuyển bánh đi Temple Meads. Anh dùng thời gian này dùng vội một chiếc xăng - uých và một tách trà - “Chỉ có pho mát thôi, thưa ông” - rồi gọi điện cho cô Watson báo cho bà hay Già Jack vẫn chưa quay về căn hộ của ông. Nếu anh để ý đúng thì, nghe giọng bà thư ký có vẻ còn bồn chồn hơn cả lúc trước. “Tôi đang trên đường đi Bristol”, anh nói với bà. “Tôi sẽ gọi cho bà ngay khi tôi gặp được đại úy”.

Trong khi đoàn tàu rời khỏi thủ đô, đi qua các đường phố mù sương của thành phố tới vùng không gian thoáng đãng của đồng quê, Harry quyết định anh không còn lựa chọn nào khác ngoài đi thẳng tới phòng làm việc của Sir Walter tại bến tàu, cho dù điều đó đồng nghĩa với việc phải chạm mặt Hugo Barrington. Tìm ra Già Jack rõ ràng quan trọng hơn mọi điều khác.

Khi đoàn tàu dừng bánh tại Temple Meads, Harry biết hai chuyến buýt anh cần phải đi mà không cần hỏi cậu nhóc bán báo đang đứng ở góc đường lấy hết sức hét to “Nước Anh chờ đợi câu trả lời của Hitler”. Cùng đầu đề, nhưng lần này là bằng thổ âm Bristol. Ba mươi phút sau, Harry đã có mặt trước cổng bến tàu.

“Tôi có thể giúp gì ông?” người bảo vệ không nhận ra anh hỏi.

“Tôi có cuộc hẹn gặp với Sir Walter”, Harry nói, hy vọng cái cớ này không bị vặn vẹo.

“Tất nhiên rồi, thưa ông. Ông biết đường tới văn phòng chủ tịch rồi chứ ạ?”

“Vâng, cảm ơn ông”, Harry nói. Anh bắt đầu chậm rãi đi về phía tòa nhà anh chưa một lần đặt chân vào. Anh bắt đầu nghĩ xem mình sẽ làm gì nếu đối mặt với Hugo Barrington trước khi tới được văn phòng của Sir Walter.

Anh rất mừng khi thấy chiếc Rolls-Royce đậu ở vị trí quen thuộc của nó, và thậm chí còn thấy nhẹ nhõm hơn khi không thấy bóng dáng chiếc Bugatti của Hugo Barrington đâu. Anh vừa định bước vào Barrington House thì liếc mắt về phía toa xe lửa ở ngoài xa. Liệu có thể nào không? Anh đổi hướng và bước về phía toa xe lửa hiệu Pullman, như Già Jack vẫn hay mô tả về nó sau ly uýt - ky thứ hai.

Khi Harry bước tới toa xe, anh gõ nhẹ lên khung cửa kính như thể đây là một ngôi nhà lớn. Không có người quản gia nào xuất hiện, vậy là anh tự mở cửa bước vào. Anh đi dọc lối đi tới khoang hạng nhất, và ông lão đang ở đó, ngồi trên chiếc ghế quen thuộc của ông.

Đây là lần đầu tiên Harry từng thấy Già Jack đeo Chữ thập Victoria.

Harry ngồi xuống chiếc ghế đối diện với bạn anh, nhớ lại lần đầu tiên anh ngồi tại đây. Có lẽ lúc đó anh mới chừng năm tuổi và đôi chân anh còn chưa chạm được tới sàn. Sau đó, anh nghĩ tới lần anh chạy trốn khỏi St Bede, và ông lão cao thượng tinh tế đã thuyết phục anh quay về trường vừa kịp giờ ăn sáng. Anh nhớ lại lúc Già Jack tới nghe anh hát sô lô tại nhà thờ, cái lần anh bị vỡ giọng. Già Jack đã gạt chuyện đó sang một bên như một biến cố nhỏ nhặt. Rồi đến ngày anh biết mình đã không giành được học bổng của Bristol Grammar School, một biến cố nghiêm trọng. Bất chấp thất bại của anh, Già Jack vẫn tặng anh chiếc đồng hồ hiệu Ingersoll mà anh vẫn đeo cho tới tận hôm nay. Nó chắc đã buộc ông lão phải bỏ ra đến đồng penny cuối cùng. Vào năm cuối Harry học ở trường, Già Jack đã từ London lặn lội xuống để xem anh vào vai Romeo, và Harry đã giới thiệu ông với Emma lần đầu tiên. Và anh sẽ không bao giờ quên ngày trao thưởng cuối năm học cuối cùng, khi Jack ngồi trên sân khấu trong hội đồng quản trị ngôi trường cũ ông từng học, chứng kiến Harry được trao tặng giải thưởng Anh văn.

Và lúc này đây, Harry sẽ không bao giờ còn có thể cảm ơn ông về không biết bao nhiêu cử chỉ đong đầy tình cảm trong suốt bao năm qua và không thể đền đáp được. Anh nhìn chăm chăm vào người đàn ông anh yêu quý và từng nghĩ sẽ không bao giờ chết. Trong khi họ ngồi đó cùng nhau trong khoang hạng nhất, mặt trời lặn xuống trên cuộc đời trẻ trung của chàng trai.