Halfborn Gunderson
CÓ KẺ ĐANG ĐỨNG NGAY BÊN NGOÀI CỬA PHÒNG. Tôi căng cứng người.
Chờ đợi. Lắng nghe.
Cộc cộc. Cộc. Cộc cộc cộc.
Là ám hiệu. Tôi mở cửa ra. “Vào đi. Nhanh.”
Alex Fierro lướt qua mặt tôi, tay ôm theo một cái khăn tắm cuộn tròn. Tôi ngó nghiêng ngó dọc hành lang rồi mới khép cửa. Vừa quay lại, tôi liền đụng phải cặp mắt trợn trắng của Alex.
“Không tin được anh lại bắt tôi dùng ám hiệu gõ cửa.” Cậu ta đưa cái khăn cho tôi, phủi phủi chiếc áo len không tay hồng cùng cái quần xanh chuối.
Tôi chìa lát pizza chèm bẹp cho cậu ta. “Hồi nãy Mallory mới đòi vào. Anh chỉ muốn đảm bảo đúng là em chứ không phải cô ấy quay lại giật sập nơi này thôi.”
“Ờ, cái mắt mèo trên cửa chắc chỉ để trưng thôi ha.”
“Ừ nhỉ. Quên mất. Mà thôi, bỏ đi.”
Tôi dẫn cậu chàng vào phòng thủ công mỹ nghệ. Đúng đó, thủ công mỹ nghệ. Tôi có nhiều tài lẻ lắm chứ không chỉ biết đánh nhau tới chết thôi đâu. Tôi đã đi từ chỗ cơ bản như vẽ tranh bằng tay không, làm mô hình bằng mì ống, làm trái tim giấy rắc kim tuyến, rồi tranh dây nghệ thuật, đồ trang trí bằng móc quần áo…, dần dần phát triển lên các hình thức thủ công phức tạp hơn.
Nhìn thấy cái công trình đang làm dở của tôi, Alex không kìm được kêu thốt lên. “Ôi chao. To thế!”
Tôi so vai. “Chơi liều ăn nhiều mà.”
Công trình này là một bức tranh ghép hình Mallory, làm từ đủ loại vật liệu có thể thu thập được: mảnh vũ khí, đá sỏi thu nhặt khắp các thế giới, mảnh thủy tinh vỡ. Alex, thợ làm gốm tầng 19 đã gom cho tôi một mớ mảnh gốm vụn, được cậu ta đích thân chế tác bằng cách ném mấy cái lọ không ưng ý vào tường.
Tôi trải cái khăn ra, săm soi mớ mảnh vỡ. “Hoàn hảo. Cảm ơn nhiều. Giờ thì chỉ cần vảy rồng Vanir nữa thôi.”
“Sao lại là rồng Vanir?” Alex thắc mắc.
“Chúng có màu đỏ, vàng, và cam, cực kì phù hợp cho màu chiến hỏa, máu và ruột gan phèo phổi. Thấy không, anh muốn miêu tả lại trận chiến đầu tiên của mình và Mallory.”
“Ây cha, Halfborn à,” Alex gãi nhẹ cằm tôi. “Anh thật là lãng mạn quá nha!”
“Mà anh bị trễ tiến độ rồi. Anh tính tặng cho cô ấy vào ngày kỷ niệm cuộc chiến tuần sau. Giờ phải đi Vanaheim gấp đặng còn về trước khi Mallory thật sự đạp cửa xông vô đây.”
Alex rút sợi dây siết cổ quanh thắt lưng ra. “Cần phụ tá không?”
“Khỏi. Anh lo được.” Tôi mở tủ đựng vũ khí, chọn trong bộ sưu tập một cây rìu và một cái khiên. “Cơ mà em ở lại đây được không? Canh chừng không để Mallory xông vào ấy?”
Alex nhăn mặt. “Chẳng thà đánh nhau với rồng còn hơn đối mặt cô bồ hung dữ của anh, nhưng được rồi, tôi sẽ trực ở đây tới khi anh về.”
“Cảm ơn. Coi như anh nợ em một lần.”
Alex mỉm cười. “Có ngày tôi đòi anh trả đấy.”
Người mặc áo thun Tough Mudder[1] (tôi ghiền mấy trò thử thách vượt chướng ngại vật của dân Midgard này lắm), lưng giắt vũ khí kĩ càng, tôi bước ra hành lang khách sạn về phía nhà bếp, tới thẳng trước cái tủ lạnh hai cửa khổng lồ đặt ở khu vực chế biến thức ăn cho yến sảnh. Con đường nhanh nhất tới Vanaheim là qua thực phẩm tươi sống. Tôi bước vào ngăn đựng khoai tây, liền rơi tòm xuống chân một ngọn đồi thoai thoải ở Folkvanger, vùng đất hậu kiếp của tộc Vanir.
Tôi đưa mắt quan sát địa hình. Phủ khắp ngọn đồi là thảm hoa dại tỏa hương ngào ngạt, bướm từng đàn chao lượn dưới bầu trời sáng ngời ấm áp. Nguồn sức mạnh của Freya, vị nữ thần cai quản Vanaheim lan tỏa khắp mọi ngóc ngách. Trên đỉnh đồi, những chiến binh được chọn của Freya nằm ườn trên mấy chiếc khăn dã ngoại, vừa cười đùa vừa nhấm nháp trà Ấn.
Tôi không khỏi nhăn mặt. Thanh bình, bươm bướm, trà Ấn: cái thế giới này đúng là kinh khủng quá thể.
Teteeeee!
Một hồi kèn đồng lanh lảnh cắt xuyên qua không gian. Thanh âm xung trận! Bản năng mãnh binh trong tôi liền bùng lên như bật công tắc. Gầm một tiếng vang dội, tôi xé toạc cái áo Tough Mudder, xồng xộc lao lên đồi.
Tất cả những gì từng kinh qua ở Asgard cũng không đủ để tôi đón đỡ cái điều tiếp theo xảy đến.
Tiếng kèn đồng lả lướt chuyển thành điệu jazz êm ái. Trống đệm khẽ khàng, trong khi đàn dương cầm, kèn clarinet và ghita bass cùng hợp tấu, tạo nên một khúc nhạc lan khắp không gian. Giai điệu du dương bao phủ lên tôi như dòng sirô ấm rưới trên chồng bánh kếp ngày Chủ nhật.
Kinh chết mất. Cây rìu rơi khỏi tay, tôi khuỵu gối xuống, bịt chặt hai tai.
“Ấy anh gì ơi! Anh có sao không?” Một cô gái tóc đen mặc áo dây, quấn xà rông nhìn sang tôi lo lắng. Cô thúc khuỷu tay vào người bạn nằm cạnh mình. “Này. Anh chàng kia coi bộ cần chút thực phẩm chức năng thảo dược đó.”
“Không cần!” Tôi loạng choạng đứng dậy. “Tôi không sao. Chỉ cần chỉ giùm đường tới Sessrumnir rồi tôi sẽ đi ngay.”
“Anh sẽ bỏ lỡ đoạn độc tấu kèn clarinet mất,” cô gái nhắc nhở.
Tôi rùng mình. “Bỏ lỡ cũng không sao.”
Cô gái so vai. “Thiệt thân ráng chịu. Cung điện của Freya ở dưới chân đồi, bên kia sân bóng chuyền ấy. Cứ thong thả vừa nghe nhạc vừa đi.”
Tôi nhanh chân rảo bước, nhưng vẫn kịp nghe người bạn của cô gái hỏi, “Ai vậy?”
“Theo mình thấy thì là một người thích…” cô ta hạ giọng, thì thào như xấu hổ, “nhạc dân vũ.”
(Cô ta đoán không sai đâu. Tôi thà nghe điệu chát chùm chát chát chùm hằng ngày còn hơn cái thể loại nhạc ở cái chốn này.)
Tôi tiếp tục hướng về Sessrumnir, chiếc thuyền lật úp kiêm cung điện bạc vàng của Freya để xin phép nữ thần cho tôi săn mấy con rồng sống trên đất bà ta. Bên trong điện, chiến binh xếp lớp dọc lối đi dẫn đến ngai vàng. Xếp lớp nằm ngủ trên võng, nói cho chính xác. Chiếc ngai của Freya trống không.
Tôi đưa tay lay lay một gã trai tóc vàng mặc áo sơmi hoa hòe không cài cúc, quần đùi rách và đi dép da hiệu Birkenstock. “Dậy đi. Freya đâu rồi?”
Gã trai mơ màng chớp mắt. “Ai đấy?”
“Halfborn. Nữ thần đâu rồi?”
“Halfborn.” Gã trai lặp lại tên tôi như đang tập nói cho quen miệng. “Viết tắt cho gì vậy?”
“Không gì hết.”
Gã bật cười thích thú. “Halfborn là viết tắt cho Không Gì Hết? Công nhận có những cái tên lạ lùng ghê ha?” Gã chìa tay ra. “Tôi là Miles. Rất tiếc phải báo tin xấu cho anh, nữ thần Freya hiện không có ở đây. Nhưng tôi sẵn sàng dốc hết sức để giúp anh. Tiện nói đến sức…” gã chỉ hai bắp tay vạm vỡ cùng cơ bụng sáu múi của tôi. “Anh có được cái thể hình này nhờ ăn chay phải không?”
Tôi gạt phứt thắc mắc đó đi mà hỏi ngược lại, “Tôi phải xin phép ai để đi săn rồng ở đất các người đây? Tôi cần vài cái vảy rồng.”
Miles gãi đầu bối rối. “Săn rồng? Bạn tôi ơi, mấy con rồng đó ngủ còn say hơn chiến binh bọn tôi. Phải là chuyện gì lớn lắm bọn chúng mới chịu dậy. Anh muốn lấy vảy thì cứ tới mà nhổ ra thôi.”
Hầu hết mọi người sẽ nhẹ nhõm lắm khi một nhiệm vụ nguy hiểm chết người hóa ra lại chẳng có chút gì đe dọa tính mạng. Tôi không phải hầu hết mọi người. Tôi thích bỏ công để có được thứ mình muốn chứ không phải được dâng tận miệng. Cơ mà tôi đến đây để lấy vảy rồng, nên cũng đành dẹp nỗi thất vọng sang bên.
“Vậy thì hang của đám rồng mê ngủ đó ở đâu?”
“Hang á?” Miles cười phá lên. “Anh đúng là không phải dân ở đây nhỉ?”
“Ừ.” Tạ các thần, tôi thầm đế thêm.
Miles dang rộng hai tay, ngẩng đầu nhìn trời. “Rồng của chúng tôi đánh giấc dưới bầu trời rộng mở, tắm mình trong ánh sáng thần thánh của Freya.” Gã hạ tay xuống. “Đi nào, để tôi dẫn anh tới đó.”
“Khỏi! Chỉ đường cho tôi là được rồi.”
“Có phiền gì đâu. Theo tôi nào.”
Tôi nghiến răng. “Hết ý.”
Miles dẫn tôi về phía một hẻm núi xa xa, nơi trải dài những rặng sa thạch mang sắc đỏ vàng nhàn nhạt. “Chứ còn gì nữa! Ta hãy nhân cơ hội này tìm hiểu nhau nhé.”
“Bỏ qua đoạn này và coi như đã hiểu nhau rồi có được không?”
“Tôi trước nhé,” Miles tiếp. “Tôi thích hoa cúc nhất. Loài hoa đó tươi tắn quá chừng luôn! Còn anh thích nhất hoa gì hả Halfborn?”
“Không có.”
“Ôi thôi nào.” Gã liếc sang tôi. “Nhất định là anh thích hoa tulip. Ai cũng thích tulip hết. Biết tại sao không?”
“Không.”
“Vì không có tulip thì ta không thể hôn được!” Gã cười khục khặc, huých vai tôi. “Hiểu không? Tulip? Như two lips[2] ấy?” Gã chu mỏ làm tiếng hôn chụt choẹt.
Suýt nữa là tôi nổi cơn mãnh binh với cái tên này. Nhưng tôi chỉ bảo, “Có một loài cây mà tôi rất ngưỡng mộ. Cây bẫy kẹp.”
Miles gật gù hào hứng. “Hay đấy! Tại sao vậy?”
Tôi quay sang gã. “Vì nó có thể tấn công con mồi rồi tiêu hóa một cách chậm rãi và đau đớn.”
Gã trai nghe vậy mới chịu im mồm.
Cuối cùng cũng tới hẻm núi. Vách núi bị gió bào mòn, tạo thành những gờ đá lượn sóng, nhô ra ngoài như những tấm hiên che nắng. Bốn con rồng, một vàng, một đỏ, hai cam nằm ngáy o o trong ổ tít dưới đáy. Vảy chúng ánh lên dưới ánh sáng của Freya. Cánh thu lại ôm lấy tấm thân bò sát. Khói trắng từng cụm bay ra từ mũi như những cục bông gòn.
Nói cách khác, lũ rồng này chẳng có chút gì nguy hiểm. Lấy vảy trên người chúng còn dễ hơn ăn bánh.
“Ghét bánh,” tôi lầm bầm, cất bước xuống con dốc. Miles cũng lẽo đẽo theo sau, thế có vui không cơ chứ?
Cả hai mới đi được nửa đường thì từ đầu kia hẻm núi, một bóng người hùng hục lao ra.
Miles chớp mắt. “Ô kìa, là thần Thor. Ông ấy đang…Ối!”
Thor xộc thẳng qua đám rồng.
Coi bộ bị một vị thần sấm đá trúng có thể xem là chuyện gì lớn lắm. Đám rồng tỉnh giấc, khịt mũi một cái rõ to. Cả đàn cùng cất tiếng rống thất thanh. Vỗ mạnh cặp cánh đầy uy lực, bốn con rồng bay vút lên không, thét vang giận dữ.
Tôi lủi vào dưới một gờ đá.
“Ây cha, xinh quá đi!” Miles che tay ngang mắt, tay còn lại chỉ lên đám rồng.
“Bị điên hả?” Tôi gào lên. “Trốn mau!”
Miles xua tay gạt đi. “Không cần đâu bạn hiền. Lũ rồng này không bao giờ tấn công các tử sĩ danh dự của Folkvanger. Làm thế sẽ phá hỏng hòa bình của lãnh địa. Chúng chỉ bay vài vòng rồi ngủ tiếp thôi.” Bỗng một thoáng lo lắng lướt qua mặt gã. “Ờ mà anh không phải là tử sĩ được chọn của Freya. Nhỡ chúng đang đói rồi lại đánh hơi ra anh… Ô kìa. Cảnh này không phải ngày nào ta cũng được thấy đâu nha.”
“Cảnh gì?”
“Rồng phun lửa.”
Tôi giơ khiên lên chắn ngay kịp lúc hai con rồng cam lướt qua gờ đá. Luồng lửa làm tấm khiên kim loại nóng rực lên, nhưng không bắn trúng tôi. Hai con vật lướt qua rồi trở đầu cho cú bay ngược lại.
Thế này mới giống chứ, tôi thầm nghĩ.
Tôi nhảy ra khỏi chỗ nấp, đưa tay xé toạc áo. Rồi sực nhớ hồi nãy đã xé rồi, vậy nên đành trực tiếp bật chế độ mãnh binh.
Tôi phóng băng băng xuống đáy hẻm núi. Một con rồng cam đáp xuống kế bên. Chỉ bằng vài cú vung rìu chuẩn xác, con rồng đã hạ đài vĩnh viễn. Thụp người tránh luồng lửa của con rồng cam còn lại, tôi lao vọt tới, chém lìa đầu con vật.
“Dập lửa này!” Tôi thét lên.
“Ơ này!” Miles quýnh quáng bỏ chạy khỏi hẻm núi. “Anh dễ lên cơn dữ ha!”
“Biết chứ!”
Con rồng màu đỏ gạch rít lên cuồng nộ, từ trên cao lao thẳng xuống tôi. Gần sát đến nguy hiểm. Nguy hiểm cho nó. Tôi táng cho nó một khiên giữa mũi, gục ngay đơ, sau đó vung rìu bổ sọ nó làm đôi.
“Tới luôn đi!” Tôi rống to.
Con rồng cuối cùng cũng là con lớn nhất. Nó bay vù tới kết liễu tôi, lớp vảy hoàng kim lóng lánh đến lóa cả mắt. Tôi bước tránh sang bên, nhảy phóc lên lưng con vật rồi hiên ngang cưỡi nó lượn qua bầu trời ngập tràn thứ ánh sáng Freya đẹp tới nhức đầu. Con rồng co giật, vùng vẫy, vặn vẹo, tìm mọi cách hất tôi xuống. Tôi đặt lưỡi rìu ngang họng nó, giật mạnh về sau. Nó khò khè kêu lên, bấu lấy cán rìu, nhưng tôi vẫn giữ chặt. Qua một hồi, nó thôi vùng vẫy, chầm chậm rơi xuống hẻm núi lại.
Ầm! Cái xác rồng làm dậy lên cả một đám mây cát bụi.
“Aaaaaaa!” Gầm lên thắng lợi, tôi nhảy xuống, đập rìu vào khiên ầm ầm.
“Ôi chao.”
Tôi ngẩng đầu lên, thấy Miles đang sững sờ há hốc miệng nhìn xuống mình. Vây quanh gã là một nhóm binh sĩ Vanaheim. Vài người thì thầm to nhỏ với nhau vẻ bất an.
Cô gái tóc đen mặc áo dây hồi nãy bước tới. “Chúng…chết rồi.” Giọt nước mắt lăn dọc má cô.
Đến lúc này tôi mới nhận ra mặc dù cô gái kia, Miles và toàn bộ những kẻ được chọn của Freya trên lí thuyết đều là binh sĩ, nhưng họ có lẽ chưa từng chứng kiến bất kì cuộc chiến nào, chứ đừng nói là tham dự vào đó.
“Chậc, ừ, chúng chết rồi,” tôi lựa lời đáp. “Nhưng nếu bọn chúng mà thành công nướng chín rồi làm thịt tôi thì tôi mới là người chết. Chết không gì cứu được.”
Cô gái ngơ ngác nhìn tôi.
“Vì tôi là linh sĩ.”
Cô ta vẫn bày ra bộ mặt chẳng hiểu gì.
“Nếu tôi chết bên ngoài Valhalla thì tôi sẽ chết luôn. Không như mấy con rồng này. Chúng là sinh vật thần thoại, chúng chỉ tan biến vào Ginnungagap rồi tái sinh vào một ngày nào đó.”
Cô gái giờ đã vỡ lẽ. “Lũ rồng sẽ được tái sinh sao?” Cô ta nắm tay bạn mình, vừa nhảy cẫng lên vừa rú vang. “Tụi mình sẽ được nuôi rồng con đó. Dễ thương quá điiii!” Cô ta cười rạng rỡ với tôi. “Cảm ơn anh đã giết chúng nha!”
“Ờ. Không có chi.”
Miles lúc này mới bước tới. Gã nhìn mấy cái xác rồng bầm dập đang tan thành tro bụi, rồi sang cây rìu và bộ ngực trần lấm lem máu lẫn mồ hôi của tôi. Sau đó gã nhìn xuống cái cơ thể còi cọc của mình, đoạn ngó thêm cái xác lần nữa. Cuối cùng gã gật gù như nghiệm ra điều gì.
“Thì ra…bí quyết của anh là chế độ dinh dưỡng kiểu người tiền sử[3] chứ không phải ăn chay sao?”
Tôi vỗ ngực cái thịch. “Cứ chế độ dinh dưỡng người tiền sử làm tới đi bạn trẻ. Cơ giờ thì xin phép nhé.” Tôi cầm rìu lóc vảy trên thân mỗi con rồng, bỏ vô khiên. “Tôi còn một bức tranh ghép cần phải hoàn thành.”
[1] Được xem là "một trong những sự kiện khắc nghiệt nhất hành tinh", Tough Mudder là một cuộc thi thử thách thể lực mà người tham gia phải vượt qua các vòng như chạy qua bùn, lội nước đá, trèo tường hay nhảy qua vòng lửa…
[2] Two lips: hai bờ môi, đọc gần giống với tulip
[3] Chế độ dinh dưỡng dựa trên quan điểm nếu ta ăn những gì tổ tiên nguyên thủy từng ăn thì sẽ phù hợp với hệ thống gen và có lợi cho sức khỏe. Khẩu phần ăn của chế độ này chỉ gồm những món mà người tiền sử ngày xưa có thể săn bắn hái lượm được như thịt, cá, rau quả (không có các loại hạt hay sữa).