T
rong chương này, chúng ta sẽ tìm hiểu:
- Quan niệm của chủ nghĩa Khắc kỷ cổ đại về Hạnh phúc hoàn hảo (eudaimonia) và sự hứa hẹn của triết học.
- Cách mà người Khắc kỷ thay thế những Cảm xúc không lành mạnh (hay những sự sợ hãi bệnh lý và dục vọng) bằng các Cảm xúc lành mạnh đối lập như niềm vui lý trí và lòng nhân từ, lòng yêu mến người khác.
- Các Cảm xúc không lành mạnh rốt cuộc dựa vào phát xét và hành động chủ động như thế nào, nó dẫn tới phản ứng vô thức ban đầu mà người Khắc kỷ gọi là “tiền Cảm xúc” ra sao.
“Thưa thầy Socrates, có vẻ như điều tốt không thể nghi ngờ nhất chính là Hạnh phúc.”
“Miễn là nó không bao gồm những điều tốt bị nghi ngờ, Euthydemus ạ.”
“Tại sao? Phần tử nào của Hạnh phúc có thể bị nghi ngờ?”
“Không có phần tử nào cả, trừ khi ta cho thêm vào Hạnh phúc một chút vẻ đẹp, một chút sức mạnh, của cải, danh vọng hay những thứ đại loại vậy.”
(Xenophon, Momerabilia, 4.2)
“Cảm xúc, ngươi là gì, ngươi muốn gì? Hãy nói ta biết.”
“Lý trí, ta muốn gì ư? Ta muốn làm tất cả mọi thứ ta muốn“
“Đó là một ước muốn của vua chúa; nhưng hãy nói lại ta nghe”
“Tất cả những gì ta khát khao, ta muốn nó xảy ra.”
(Cleanthes, trong On Hypocrares’ and Plato’s Doctrines của Galen, 5.6)
Tự đánh giá: Thái độ của người Khắc kỷ đối với Hạnh phúc (eudaimonia)
Trước khi đọc chương này, hãy đánh giá mức độ đồng tình của bạn với các tuyên bố sau đây, sử dụng thang điểm từ 1 đến 5 dưới đây, sau đó đánh giá lại thái độ của bạn sau khi đã đọc và hiểu nội dung.
1. Hoàn toàn không đồng ý, 2. Không đồng ý, 3. Không đồng ý cũng không phản đối, 4. Đồng ý, 5. Hoàn toàn đồng ý
1. Hạnh phúc hay cuộc sống hoàn hảo nhất là sống hợp với đức hạnh.
2. Rối loạn cảm xúc bắt nguồn từ việc gán quá nhiều giá trị vào những thứ ngoài tầm kiểm soát trực tiếp của chúng ta.
3. Mặc dù những phản ứng cảm xúc ban đầu có thể là vô thức, nhưng chúng ta có thể chọn có tiếp tục đi theo nó hay không.
Sự hứa hẹn của triết học cổ đại
Triết học Khắc kỷ đòi hỏi gì ở chúng ta? Đổi lại, nó hứa hẹn điều gì? Nguyên nhân của các rối loạn cảm xúc và khao khát phi lý mà nhiều người tìm kiếm cách chữa trị bằng triết học là gì? Các cảm xúc tích cực như vui sướng, an tĩnh và yêu thương thì sao?
Trước khi đi sâu vào lý thuyết và thực hành, đầu tiên chúng ta cần khai thác động cơ nào thúc đẩy người ta theo học triết học Khắc kỷ. Chủ nghĩa Khắc kỷ là một con đường gian khó, nhưng trong chừng mực nào đó, những lợi ích mà nó mang lại nên trở thành lẽ thường. Với chút hỗ trợ, ít nhất chúng ta có thể hiểu được một cách sơ lược về các lợi ích đó ngay từ đầu. Mặc dù chỉ có các nhà Hiền triết hoàn hảo mới hưởng được trọn vẹn eudaimonia, nhưng Seneca tuyên bố rằng nếu không theo đuổi triết học, tức sự yêu chuộng trí tuệ, thì cuộc sống này thật khó lòng chịu đựng nổi, bởi khi đó những sự rối loạn cảm xúc sẽ được tự do hoành hành. Thật vậy, dù mục tiêu sau cùng là để trở thành một con người ưu tú, thì động cơ ban đầu của hầu hết những ai theo đuổi chủ nghĩa Khắc kỷ đơn giản là để vơi đi các nỗi đau.
Vậy sự hứa hẹn của triết học bao gồm cả Hạnh phúc và sự viên mãn của nhà Hiền triết, cùng mong mỏi dần chế ngự được những khao khát và cảm xúc rối loạn (apatheia), đôi khi được gọi là “phương pháp trị liệu cảm xúc” của thuyết Khắc kỷ. Theo các nhà Khắc kỷ cổ đại: “Trường học của triết gia là phòng khám của bác sĩ”(Discourses, 3.23).
Các nhà Khắc kỷ dường như đã quy kết sự hô ủng triết học cho chính thần Zeus, người hứa hẹn sẽ cứu chúng ta khỏi nỗi đau. Musonius Rufus dạy rằng thần Zeus “ra lệnh và khuyến khích” chúng ta học triết học. Theo ông, tóm lại, luật lệ của thần Zeus lệnh cho con người phải tốt đẹp, có nghĩa phải là những triết gia, ưa chuộng trí tuệ, sống đức hạnh, hào hiệp, vượt lên mọi đau đớn và khoái lạc, thoát khỏi mọi oán thù.
Epictetus theo chân người thầy của mình và thường xuyên giảng những điều tương tự với danh nghĩa thần Zeus, khởi đầu bằng bài thuyết giảng đầu tiên trong cuốn Discourses. Ông đã thật sự thoát ly khỏi cuộc trò chuyện với các môn đồ để mô tả một cuộc đối thoại tưởng tượng giữa ông và thần Zeus, người được cho là đã ban cho chúng ta một phần nhỏ của chính ngài – “năng lực kiểm soát” của chúng ta, thứ cho chúng ta sức mạnh đưa ra những quyết định và lựa chọn trong đời. Bổn phận của chúng ta là phải bảo vệ năng lực thần thánh này, đặt nó trên hết thảy, như thể đó là thứ duy nhất ta sở hữu và được cho phép toàn quyền sử dụng. Nếu chúng ta có thể học cách quý trọng sự khôn ngoan hơn hết thảy, thì “thần Zeus” quả quyết rằng chúng ta sẽ không bao giờ bế tắc, không bao giờ bực bội và phiền hà, và không bao giờ trở nên tức giận hay quỵ lụy trước bất kỳ ai khác.
Quan điểm Epictetus đưa ra là các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Khắc kỷ có thể học được từ việc chiêm nghiệm về bản chất con người. Về cơ bản, chúng là lẽ thường, bởi thần Zeus đã gieo hạt giống đức hạnh sâu trong mỗi chúng ta, do vậy mục tiêu của cuộc sống nằm trong chính bản chất chúng ta. Có lần, Epictetus hỏi học trò rằng phải chăng thần Zeus hay Tự nhiên chưa cho họ những mệnh lệnh đủ rõ ràng từ ngày họ ra đời. Tự nhiên đã cho chúng ta cái thuộc về chúng ta, đó là năng lực phán xét và ý chí, để tự do sử dụng trong sự phù hợp với đức hạnh. Tự nhiên đã đặt mọi thứ khác ngoài tầm kiểm soát của chúng ta, thành những thứ phụ thuộc vào các trở ngại và can thiệp. “Bằng mọi cách hãy bảo vệ những gì của mình. Đừng lấy những gì thuộc về người khác”.
Mặc dù ngôn từ có ít nhiều khác biệt, nhưng gần như lúc nào Epictetus cũng khắc họa thần Zeus với răn đe về cơ bản là giống với các thông điệp của người Khắc kỷ: “Nếu muốn tìm kiếm bất kỳ sự tốt đẹp nào, hãy tìm trong chính bản thân mình” (Discourses, 1.29). Tự nhiên vẫy gọi chúng ta đến với Hạnh phúc đích thực và cuộc sống tốt đẹp, thì thầm vào tai ta rằng chúng ta phải tìm nó từ bên trong mình hơn là từ những thứ bên ngoài. Epictetus nói rằng chỉ khi kiên định thực hiện điều này, chúng ta mới đạt được tự do hoàn toàn và giải phóng mình khỏi mọi đớn đau về cảm xúc.
Trong thời cổ đại, Hạnh phúc hay viên mãn được xem là “sự hứa hẹn của triết học”. Hầu hết các trường phái triết học đều đồng tình rằng đây chính là điều họ hướng tới, nhưng họ lại bất đồng về ý nghĩa của nó. Trên thực tế, chính những định nghĩa khác biệt về eudaimonia là thứ đã phân biệt trường phái này với trường phái khác. Zeno mô tả rất súc tích rằng đó là một cuộc sống “trôi êm ả” hay phẳng lặng, không bị cản trở hay phá hoại trên đường tìm kiếm những gì ta muốn đạt được. Ông nói rõ rằng, Hạnh phúc chỉ đạt được khi ta sống hòa hợp với Tự nhiên và theo đức hạnh. Tuy nhiên, “sống là tranh đấu”, và người Khắc kỷ đạt được sự an nhiên tự tại bằng cách sẵn sàng đối diện với bất kỳ sự kiện thăng trầm nào giáng lên mình, sẵn sàng đối diện với vòng quay của “bánh xe số mệnh”. Sự hứa hẹn của triết học do vậy là hứa hẹn cả về Hạnh phúc và sự vững vàng về cảm xúc để có thể duy trì Hạnh phúc trong những lúc thất bại.
Lời hứa hẹn lớn tới đâu? Thì đây: rằng triết học sẽ đảm bảo cho người tuân theo các quy luật của nó luôn được trang bị để chống lại mọi rủi ro mạo hiểm; rằng trong chính con người mình, anh ta sẽ nắm giữ và kiểm soát mọi khả năng đảm bảo một cuộc sống Hạnh phúc và viên mãn. Nói cách khác, anh ta luôn là một người Hạnh phúc.
(Cicero, Tusculan Disputations, 5.7)
Lúc khác, Cicero lại khắc họa Hạnh phúc như “pháo đài bên trong” của chủ nghĩa Khắc kỷ: “Người Hạnh phúc phải được an toàn, bất khả xâm phạm, được che chắn và củng cố, để anh ta không chỉ không sợ hãi nhiều mà còn hoàn toàn không sợ hãi” (Tusculan Disputations, 5.41). Một trong những lập luận quan trọng nhất của chủ nghĩa Khắc kỷ là không thể tượng tượng một người khôn ngoan và tốt đẹp, một người đạt được eudaimonia hoàn hảo, lại vẫn là nô lệ của những ham muốn và xúc cảm không lành mạnh. Các nhà Khắc kỷ gọi đây là những “Cảm xúc cuồng nhiệt” (pathê), họ tin rằng chúng là nguyên nhân gốc rễ cho mọi đau khổ của con người, và đương nhiên là có hại cho eudaimonia.
Khả năng vượt qua nỗi sợ hãi và khao khát thiếu lành mạnh gọi là “apatheia”, nghĩa là “không Cảm xúc” hay đúng hơn là không có sự say mê đối với những gì không lành mạnh. Đó chính là nguồn gốc của từ “apathy” (lãnh đạm, thờ ơ trong tiếng Anh) nhưng về nghĩa thì có khác biệt. Như Keith Seddon, một cây bút viết về chủ nghĩa Khắc kỷ hiện đại, nói: “Người khắc kỷ là người apathês, không có sự cuồng nhiệt (không phải họ thờ ơ, mà là bình thản), nhưng không phải hoàn toàn không có cảm xúc” (Seddon, 2006, tr. 140). Chính vì vậy, những người Khắc kỷ nhắc về nhà Hiền triết như những người đã đạt tới “sự an tĩnh” (ataraxia) và được “tự do” (eleutheria), thoát khỏi “tình trạng nô lệ” của những Cảm xúc cuồng nhiệt.
Tuy nhiên, nỗ lực vượt qua những Cảm xúc cuồng nhiệt đã gây nhiều sự nhầm lẫn và dẫn tới quan niệm sai lầm phổ biến rằng người Khắc kỷ là những người khô khan và có xu hướng kìm nén cảm xúc. Điều này chủ yếu dựa trên những hiểu lầm liên quan tới dịch thuật và diễn giải – đơn giản là ý của họ không phải như vậy. Việc diễn giải sai ý đã được chính các nhà Khắc kỷ cổ đại đề cập nhiều lần. Vậy, ta hãy chậm lại một chút để suy ngẫm những gì họ thật sự đã nói…
Họ [những nhà sáng lập chủ nghĩa Khắc kỷ] nói rằng người khôn ngoan cũng là người không có Cảm xúc (apathê) vì anh ta không dễ bị những Cảm xúc đó tổn thương. Còn người xấu được gọi là “không Cảm xúc” lại theo một nghĩa khác, nó đồng nghĩa với “lòng dạ sắt đá” và “vô cảm”.
(Lives, 7.117)
Ý của Zeno là người khôn ngoan không lệ thuộc vào các cảm xúc sợ hãi hay ham muốn của mình và chúng ra đã được biết chắc chắn rằng điều đó không đồng nghĩa với “lòng dạ sắt đá” và “vô cảm”. Đây là ấn tượng sai lầm của nhiều người ngày nay về chủ nghĩa Khắc kỷ. Nhiều thế kỷ sau, Cicero đã mô tả triết gia Khắc kỷ La Mã Laelius nói rằng sai lầm to lớn nhất là loại bỏ những cảm xúc tự nhiên và lành mạnh, như tình bằng hữu, vì ngay cả động vật cũng có tình cảm với con mình. Người Khắc kỷ coi điều này là nền tảng của tình yêu thương con người và tình bằng hữu (Cicero, On Friendship, 13).
Theo Laelius, loại bỏ những tình cảm tự nhiên như vậy không chỉ làm chúng ta mất tính người, mà còn hạ ta xuống thấp hơn bản chất con vật, chỉ còn như một khúc cây hay hòn đá. Vậy, chúng ta nên giả điếc khi nghe ai đó nói khi nói đến tình cảm con người với quan niệm rằng để có một cuộc sống tốt thì đòi hỏi phải “cứng như sắt đá”. Epictetus cũng dạy học trò của mình không nên loại bỏ Cảm xúc (apathê) theo nghĩa vô tri, vô cảm như tượng đá, bởi người Khắc kỷ thật sự quan tâm đến gia đình và anh em, bạn bè của họ vì họ có tình cảm yêu mến tự nhiên và một tình cảm ruột thịt hay “thân thuộc”. Tương tự, Seneca có nói:
Có những tai ương giáng xuống hiền nhân như nỗi đau thân xác, ốm yếu, bệnh tật, mất bạn bè, con cái, hay tai họa khi chiến tranh xảy đến với đất nước họ, nhưng dĩ nhiên những thứ này không tước hết năng lực của họ. Tôi đảm bảo họ nhạy cảm với những điều này và vì vậy chúng ta không được quy cho họ là những con người sắt đá. Chẳng có đức hạnh gì khi chịu đựng cái mà mình không cảm nhận được.
(On the Constancy of the Sage, 10.4)
Ở đây, Seneca chỉ rõ là sẽ không chính xác nếu chúng ta thật sự cho rằng nhà Hiền triết Khắc kỷ hoàn toàn không có cảm xúc. Điều này gợi nhớ một câu chuyện về nhà khuyển nho Diogenes. Ông đã rèn luyện mình bằng cách cởi trần, ôm bức tượng đồng giữ trời đông giá rét và một người Sparta theo chủ nghĩa quân phiệt đã hỏi ông có thấy lạnh không. Diogenes đáp ông không thấy lạnh và người Sparta nói: “Vậy thì việc ông làm có gì ấn tượng chứ?”.
Dường như theo Seneca, các đức tính can đảm và kỷ luật tự giác của người Khắc kỷ đưa đến giả định rằng thật ra nhà hiền triết trải nghiệm điều gì đó gần với nỗi sợ hãi và khát khao – nếu không thì anh ta đâu có cảm xúc để phải vượt qua. Người can đảm không phải là người không bao giờ biết lo âu, người can đảm là người hành động bất chấp cảm giác sợ hãi. Tương tự như vậy, một người có đức tính kỷ luật tự giác hay tự chủ cao không phải chưa bao giờ có những dao động trước khao khát của mình mà thật ra đó là người vượt qua được những ham muốn bằng cách tránh xa chúng.
Nhà Hiền triết chế ngự các Cảm xúc của mình bằng cách trở nên mạnh mẽ hơn chúng chứ không loại bỏ dấu vết những cảm xúc trong cuộc sống. Do vậy, lý tưởng của người Khắc kỷ không phải là “không có Cảm xúc” theo nghĩa thờ ơ, cứng rắn, thiếu nhạy cảm hay “cứng như sắt đá”. Thay vào đó, lý tưởng của họ là trải nghiệm tình cảm tự nhiên với bản thân, với những người thân yêu và những người khác, cũng như đề cao cuộc sống hòa hợp với Tự nhiên. Điều này được cho là sẽ giúp chúng ta mở lòng để trải nghiệm những phản ứng cảm xúc tự nhiên nhất định trước mất mát hay thất vọng.
Người Khắc kỷ gọi đây là trạng thái “tiền xúc động” hay “động thái đầu tiên” của cảm xúc, chúng ta sẽ xem xét thêm điều này ở phần sau. Nhà Hiền triết cũng cảm nhận được sự xuất hiện của những cảm xúc này nhưng không bị cuốn theo chúng hay bị những cảm xúc đó đeo đẳng như với người thường. Do vậy, một lần khác Seneca đã giải thích rằng trong khi có người nhắc đến apateia khi muốn ám chỉ “một trí óc miễn nhiễm với cảm xúc”, thì thật ra đó là cách hiểu hoàn toàn ngược lại với ý nghĩa đúng của từ này theo chủ nghĩa Khắc kỷ. “Đây là điều khác biệt giữa người Khắc kỷ và người theo chủ nghĩa Epicurus; người khôn ngoan vượt qua mọi nỗi buồn bực nhưng vẫn cảm nhận được chúng, trong khi người theo chủ nghĩa Epicurus thậm chí còn không cảm thấy chúng” (Letters, 9). Đức hạnh của nhà Hiền triết nằm trong năng lực chịu đựng cảm giác đau đớn và vượt lên trên chúng, trong khi vẫn tiếp tục duy trì các mối quan hệ và tương tác với thế giới, quan tâm một cách thích đáng tới bản thân và người khác, đối diện với nỗi đau, nhưng không quá tới mức để thành ra lo lắng một cách thiếu lành mạnh. Nhà Hiền triết yêu quý người khác nhưng không bị xáo trộn bởi tình cảm đó.
Trên thực tế, các tác phẩm Khắc kỷ thời kỳ đầu định nghĩa những Cảm xúc mà họ tìm cách vượt qua gồm các dạng khao khát và sợ hãi phi lý, thái quá và không lành mạnh. Chúng được cho là “phi tự nhiên” với ý nghĩa có thể phương hại tới việc mưu cầu sự mãn nguyện trong cuộc sống. Có một điều ít được biết đến hơn là những cảm xúc này trái ngược với một loạt những “Cảm xúc lành mạnh” (eupatheiai), những thứ mà các nhà Khắc kỷ dẫu không trực tiếp truy tầm nhưng vẫn coi là điều “xảy đến bất ngờ”, như một dạng phần thưởng phụ thêm cho việc sống đức hạnh.
Như nhiều học giả hàn lâm hàng đầu về chủ nghĩa Khắc kỷ nhấn mạnh: “Việc đưa ‘các cảm xúc tốt’ vào vốn liếng tinh thần cho thấy chủ nghĩa Khắc kỷ không tán thành loại bỏ mọi cảm xúc” (Long, 2002, tr. 245). Thật vậy, các cảm xúc lành mạnh như tình yêu và lòng yêu mến một cách tự nhiên với người khác đóng một vai trò quan trọng (nhưng thường bị xem nhẹ) trong thuyết Khắc kỷ. Khi Marcus Aurelius mô tả lý tưởng Khắc kỷ là thoát khỏi mọi Cảm xúc nhưng vẫn đầy tình thương”, ông ngụ ý rõ ràng rằng từ “Cảm xúc” ở đây ám chỉ những cảm xúc không tốt hoặc không lành mạnh, cần phân biệt với điều mà người Khắc kỷ gọi “lòng yêu mến một cách tự nhiên” hay tình yêu có lý trí dành cho người khác.
Hiển nhiên có một kiểu trị liệu tâm lý đã được tích hợp vào Chủ nghĩa Khắc kỷ trong vấn đề Cảm xúc. Thật vậy, chủ đề eudaimonia đã kết nối một cách tự nhiên Đạo đức học Khắc kỷ và liệu pháp trị liệu tâm lý. Hầu hết các trường phái triết học cổ đại đánh đồng khái niệm “tốt” trong cuộc sống với những gì “tốt cho chúng ta”, “có lợi” hay “có ích” (ôphelimos) theo nghĩa có đóng góp vào sức khỏe và hạnh phúc cơ bản của chúng ta – không phải về thể chất mà về tinh thần và đạo đức, liên quan tới tính cách chúng ta. Vì vậy, bạn cũng có thể nói rằng “tự lực” là một khía cạnh không thể tách rời của Đạo đức học Khắc kỷ. Nó không chỉ giống với phương pháp trị liệu hiện đại mà còn được các tác gia cổ đại trình bày kỹ càng như một phương thuốc hay một liệu pháp trị liệu cho trí óc.
Chính vì vậy, hơn bất kỳ trường phái nào khác, chủ nghĩa Khắc kỷ tập trung vào thực hành triết học như một lối sống. Họ nghiên cứu những phương cách cụ thể để rèn luyện nhằm vượt qua những Cảm xúc không lành mạnh và tiến tới lý tưởng cao quý của đức hạnh. Một số người cho rằng chủ nghĩa Khắc kỷ đơn thuần chỉ là một nhánh triết học nhấn mạnh vào đạo đức và không nên bị nhầm lẫn với một phương pháp trị liệu tâm lý. Tuy nhiên, Zeno và các tín đồ của ông coi hai điều này là tương đương. Chủ nghĩa Khắc kỷ kết hợp một cách chặt chẽ giữa đạo đức, tự cải thiện và các phương pháp trị liệu tâm lý.
Điển cứu: Lựa chọn của Hercules
Zeno, người sáng lập chủ nghĩa Khắc kỷ, đã có cảm hứng theo đuổi triết học sau khi đọc cuốn sách thứ hai của Xenophon, cuốn Memorabilia (tạm dịch: Những sự kiện đáng nhớ), tập hợp các bài giảng của Socrates. Cuốn sách này mở đầu bằng một chương mà trong đó Socrates kể lại câu truyện ngụ ngôn nổi tiếng của Prodicus, có tên “Lựa chọn của Hercules”. Các nhà Khắc kỷ, cũng giống như các nhà khuyển nho tiền bối, coi Hercules, người con trai vĩ đại nhất của thần Zeus, là một hình mẫu sáng chói thể hiện đức tính kỷ luật tự giác và đức tính chịu đựng mà một triết gia cần có. Bản thân Zeno có lẽ cũng được so sánh với Hercules. Chúng ta được biết rằng người nối nghiệp Zeno là Cleanthes cũng được phong là “Hercules thứ hai” nhờ tính tự chủ của mình. Câu chuyện này tượng trưng cho thách thức lớn lao của việc quyết định ta thật sự muốn trở thành ai trong đời, ta muốn sống kiểu nào, cũng như sự hứa hẹn của triết học và sức cám dỗ của cái xấu.
Chúng ta được nghe kể rằng khi Hercules còn trẻ đã từng ngồi giữa một ngã ba đường hiu quạnh. Chàng ngồi và suy ngẫm về tương lai, không biết nên chọn ngã rẽ nào thì thấy trước mặt xuấ hiện hai nữ thần. Một nữ thần rất đẹp và quyến rũ tên là Kakia, dù nàng bảo rằng bạn bè gọi nàng là Hạnh phúc (Eudaimonia). Nàng tiến lên phía trước để giành nói trước, hứa hẹn với Hercules rằng con đường của nàng sẽ “dễ dàng và dễ chịu nhất”, rằng có một lối tắt để đi tới hạnh phúc. Nàng tuyên bố rằng chàng có thể tránh được khó khăn gian khổ và hưởng thụ cuộc sống xa hoa vượt khỏi mọi ước mơ rồ dại nhất của con người, một cuộc sống như ông hoàng, được người khác phục dịch.
Sau đó, nữ thần thứ hai tiến tới. Nàng tên là Aretê, một người phụ nữ khiêm nhường, ăn mặc xoàng xĩnh nhưng có một vẻ đẹp tự nhiên. Thật ngạc nhiên, nàng nói con đường của nàng đòi hỏi chàng làm việc vất vả, là con đường “dài và khó khăn”. Chàng sẽ phải đối diện với hiểm nguy, sẽ bị thử thách bởi nhiều gian khổ, có lẽ hơn bất kỳ người nào từng sống trên đời, chàng sẽ phải chịu đựng mất mát và đau khổ trên đường. “Các vị thần chẳng ban cho con người điều gì thật sự tốt đẹp và đáng ngưỡng mộ mà không đòi hỏi nỗ lực và làm việc”, Aretê nói. Tuy nhiên, trên con đường này Hercules sẽ có cơ hội đối diện với mỗi tai ương bằng lòng can đảm và đức tính kỷ luật, chứng tỏ trí tuệ và sự công bằng dẫu hiểm nguy vô cùng. Chàng sẽ đạt được hạnh phúc đích thực bằng cách hoàn thiện tiềm năng trở thành một người hùng vốn có trong mình, và bằng cách thể hiện những hành động đáng ca ngợi và đáng kính của chàng.
Hercules đã chọn con đường của Aretê “Nữ thần Đức hạnh”, và không bị Kakia “Nữ thần Xấu xa” quyến rũ. Chàng liên tục đối diện với những hành hạ của nữ thần Hera và bị buộc phải thực hiện mười hai kỳ công, bao gồm giết chết quái vật Hydra và cuối cùng vào địa ngục để tay không bắt chó ba đầu Cerberus. Hercules đã chết trong đau đớn tột cùng, bị đầu độc bởi chiếc áo tẩm máu Hydra. Tuy nhiên, thần Zeus vô cùng cảm phục tâm hồn vĩ đại của Hercules và tôn chàng lên địa vị một vị thần bất tử.
Không biết việc đọc câu chuyện thần thoại đặc biệt này có gợi cảm hứng cho Zeno chuyển biến sang cuộc đời của một triết gia hay không, nhưng câu chuyện chắc chắn đã ảnh hưởng tới các thế hệ triết gia Khắc kỷ sau này. Họ coi đây là một phép ẩn dụ cho một cuộc sống tốt đẹp: Thà rằng đối diện với gian khổ, vượt qua chúng và từ đó tỏa sáng, còn hơn bám vào một cuộc sống dễ dàng và an nhàn khiến tâm hồn mình co lại và méo mó.
Thực hành: Khát khao và ca ngợi
Đây là một bài luyện đơn giản “làm sáng tỏ các giá trị” giúp bạn bắt đầu suy ngẫm về triết lý sống của mình. Những câu hỏi dưới đây chỉ nhằm giúp bạn nhìn mọi thứ dưới các góc độ khác nhau (giả sử không có câu trả lời đúng hay sai).
1. Lấy một tờ giấy và vẽ một bảng có hai cột.
2. Trên đầu cột thứ nhất, viết ra từ “khao khát”. Bên dưới bạn hãy liệt kê tất cả những thứ mà bạn khao khát nhất trong đời. Xem xét những điều cho bạn nhiều niềm vui nhất, những thứ bạn sợ mất đi nhất cũng như những thứ bạn tốn nhiều thời gian và sức lực theo đuổi nhất.
3. Sau khi điền xong cột thứ nhất, bạn chuyển sang cột hai. Viết chữ “ca ngợi” vào đầu cột. Bên dưới, bạn liệt kê ra những điều bạn thấy đáng ca ngợi hoặc đáng ngưỡng mộ nhất ở người khác. Xem xét các nhân vật anh hùng – có thật hay hư cấu, còn sống hay đã chết, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp của bạn,…
4. Cuối cùng hãy hỏi mình hai cột này khác nhau thế nào. Những điều bạn khát khao và tìm kiếm trong đời có giống những thứ bạn thấy đáng ca ngợi nhất ở người khác không? Tại sao chúng lại không giống nhau?
Nhận thức của bạn về bản thân có thể bị tác động thế nào nếu bạn khát khao và đạt được những thứ mà nhìn chung bạn thấy không đáng ca ngợi? Có thể bạn nên thử hình dung điều gì sẽ xảy ra nếu bạn khát khao bản thân làm được những điều mà bạn thấy đáng ca ngợi nhất ở người khác.
Quan niệm của người Khắc kỷ về Hạnh phúc (eudaimonia)
Eudaimonia là sự hứa hẹn của triết học từ thời cổ đại. Từ eudaimonia thường được dịch là Hạnh phúc mặc dù nó chưa lột tả hết ý nghĩa triết học của từ này. Nó đề cập nhiều về chất lượng tổng thể của cuộc sống một người hơn là về tâm trạng của người đó. Do vậy, cách dịch hiện đại còn bao gồm “may mắn”, “sung sướng”, “hạnh phúc”, “thăng hoa”,... Một cuốn từ điển thuật ngữ triết học cổ đại được cho là của Plato, nhưng có lẽ do các môn đồ của ông viết, đã định nghĩa từ này như sau:
- Cái tốt bao gồm mọi điều tốt
- Một năng lực đủ để đáp ứng việc sống tốt
- Sự hoàn hảo về đức hạnh
- Những điều có ích đủ cho một sinh vật sống (Definitions, Eudaimonia)
Về cơ bản, eudaimonia bao hàm trạng thái hạnh phúc, phấn khởi của một người có một cuộc đời tốt đẹp. Trong khi đối với các trường phái triết học khác, một người có cuộc đời tốt đẹp có thể ám chỉ một người hưởng thụ vận may đến từ bên ngoài, thì với các nhà Khắc kỷ thì một người tốt và người có một cuộc sống tốt đồng nghĩa với nhau. Những thứ thuộc về thể xác và thế giới bên ngoài vì vậy mà không liên quan (không quan trọng) gì với eudaimonia. Hạnh phúc và bất hạnh đều nằm ở chỗ chúng ta phản ứng với các sự kiện thế nào và tận dụng chúng ra sao.
Xét về nghĩa đen, từ eudaimonia mang ý nghĩa “có daimon tốt”, nghĩa là có đóm lửa thần thánh hay tinh thần ở bên trong – ngày nay chúng ta vẫn còn nói về việc “có tinh thần tốt”. Theo ngôn ngữ thần học, Chrysippus diễn giải eudaimonia là cuộc đời trôi êm ả xuất phát từ việc ta có daimon – tinh thần tốt từ sâu bên trong – hoàn toàn hòa hợp với ý chí của thần Zeus, bằng cách đưa ra những phán xét phù hợp với số mệnh. Nhiều thế kỷ sau, Marcus Aurelius giải nghĩa từ này theo cách tương tự, đề cập tới sự hoàn hảo của đóm lửa thần thánh bên trong hay năng lực kiểm soát, phù hợp với Tự nhiên.
Xét về mặt triết học, eudaimonia là một tình trạng trong đó một người có tính cách ưu tú sẽ sống tốt nhất, tỏa sáng, làm những điều đáng ngưỡng mộ, luôn tận hưởng trạng thái tinh thần tốt nhất mà một con người có thể có. Đặc biệt, các nhà Khắc kỷ cho rằng hầu như không thể đạt được trọn vẹn điều kiện này, nhưng dẫu sao đó vẫn là điều đáng nỗ lực đến nỗi không một người nào nắm bắt được những điểm hấp dẫn của nó mà lại mong muốn dừng lại ở mức ít hơn.
(Long, 2002, tr. 193)
Trên thực tế, người ta nói những nhà Hiền triết hoàn hảo, người đã đạt được eudaimonia, hiếm như chim phượng hoàng châu Phi, loài chim mà theo truyền thuyết mỗi 500 năm mới có một sinh linh mới chào đời. Mặt khác, các nhà Khắc kỷ tin rằng Tự nhiên muốn chúng ta tỏa sáng và hoàn thiện mình, Tự nhiên đã trao chúng ta một cuộc sống mà ta phải hoàn thiện nó trong sự hoà hợp với đức hạnh. Tự nhiên đã gieo trong mỗi chúng ta khả năng mơ ước và dự báo về một con người lý tưởng gọi là nhà Hiền triết, hay như các nhà Khắc kỷ gọi là “người khôn ngoan”, và từ đó lèo lái chúng ta hướng về mục tiêu xa xôi đó.
Vậy liệu có điểm khác biệt nào giữa eudaimonia và đức hạnh trong triết học Khắc kỷ không? Người Khắc kỷ chắc chắn xem đức hạnh là điều kiện cần và đủ choeudaimonia. Tuy nhiên, Chrysippus đã nói ngay cả khi ai đó hành động bằng sự khôn ngoan và đức hạnh thì cuộc đời anh ta chưa hẳn đã hạnh phúc, nhưng hạnh phúc sẽ “xảy đến bất ngờ” khi các hành động này của anh ta trở nên vững chắc và nhất quán, nhờ vào tri thức đã được nắm bắt kỹ càng (Stobaeus, 5.907).
Như chúng ta sẽ thấy, người Khắc kỷ cũng nói tới một số “Cảm xúc lành mạnh” nhất định, những thứ sẽ tự động theo cùng đức hạnh. Người ta tin rằng Zeno đã nói rằng điều tốt bao gồm nhiều đức hạnh khác nhau, trong một số trường hợp có cả các Cảm xúc lành mạnh (eupatheiai) như “niềm vui, tinh thần tốt, sự tự tin và thiện chí tốt lành”. Nhiều thế kỷ sau, Musonius Rufus dạy rằng khi chúng ta hành động có đức hạnh và theo bản chất của mình thì “tính khí vui vẻ và niềm vui chắc chắn sẽ tự động tới” (Lectures, 17). Có thể một số người sẽ ngạc nhiên khi biết rằng Chủ nghĩa Khắc kỷ về cơ bản là một triết lý sống vui vẻ và hân hoan!
Tư tưởng chính: Chủ nghĩa Khắc kỷ như một nghệ thuật Hạnh phúc hay eudaimonia
Cuốn sách này nói về chủ nghĩa Khắc kỷ như một nghệ thuật sống, xét về mặt triết học hay nghệ thuật đạt được hạnh phúc. Hạnh phúc không phải là từ mà người ta có xu hướng gắn với chủ nghĩa Khắc kỷ, vậy nên có thể có thể nhiều người sẽ ngạc nhiên biết khi nó chính là sự hứa hẹn của triết học, là mục tiêu bao quát của toàn bộ hệ thống triết học này. Như chúng ta đã thấy, eudaimonia là một từ đặc biệt khó dịch, mặc dù các triết gia cổ đại đều thống nhất rằng nó là mục tiêu của cuộc sống. Eudaimonia là Hạnh phúc hay sự viên mãn tối thượng mà con người có thể đạt được, là trạng thái cao quý, thậm chí có tính chất thánh thần. Ở đây, chúng ta sử dụng từ Hạnh phúc viết hoa, vì khi viết thường nó không phải là một từ đồng nghĩa hoàn hảo. Đôi khi chúng ta để nguyên không dịch, và vì vậy nó có đôi chút giống như từ nirvana (tiếng Phạn) trong kinh sách Phật giáo. Nirvana thật ra có thể coi là đồng nghĩa với eudaimonia, vì eudaimonia cũng mang ý nghĩa là trạng thái phấn khởi vô song của con người, nó là thành tựu cao nhất trong đời và là mục tiêu của mọi trường phái triết học.
Tuy nhiên, từ này không chỉ nói về cảm xúc, và chủ nghĩa Khắc kỷ khó có thể gọi là một trường phái triết học về “cảm giác tốt đẹp”. Theo truyền thống, nó được định nghĩa là tổng thể của mọi điều tốt, cần cho “cuộc đời tốt đẹp”, hay cần để “sống tốt”. Tuy nhiên, các nhà Khắc kỷ lại khăng khăng cho rằng một khi đã trải qua sự “chuyển hóa” triết học (epistrophê), chúng ta sẽ nhìn qua tấm gương mờ (tuphos) của các giá trị quy ước và biết cách xem eudaimonia hoàn toàn ngang hàng với một cuộc đời đức hạnh, vượt lên trên mọi may rủi bên ngoài. Zeno cũng đã gọi đó là một cuộc sống trôi đi êm ả, một cuộc sống thanh bình và tự do mà một nhà Hiền triết lý tưởng đạt được. Đối với các nhà Khắc kỷ, là một người khôn ngoan và một người tốt là điều kiện cần và đủ để có một cuộc sống tốt nhất, tức đạt được eudaimonia, bất kể may rủi trong đời. Chúng ta có thể nói “Hạnh phúc đích thực xuất phát từ bên trong”, hay như Epictetus từng nói: “Nếu muốn bất kỳ sự tốt đẹp nào, hãy tìm trong chính bản thân mình”.
Thực hành: Bài đánh giá về sự kiểm soát
Hãy làm một thí nghiệm đơn giản có thể gọi là “đánh giá sự kiểm soát”. Hãy nhớ rằng các nhà Khắc kỷ quan tâm tới các khía cạnh cuộc sống nằm trong tầm kiểm soát trực tiếp của chúng ta, những điều chúng ta luôn luôn kiểm soát được, trong phạm vi mà các quyết định của chúng ta không bao giờ bị gián đoạn.
1. Chọn một tình huống hoặc một vấn đề đang khiến bạn buồn phiền.
2. Vẽ hai cột, ghi tiêu đề “Kiểm soát được” và “Không kiểm soát được”.
3. Liệt kê các khía cạnh của tình huống nằm trong tầm kiểm soát của bạn ở cột “Kiểm soát được”
4. Liệt kê các khía cạnh của tình huống không nằm trong tầm kiểm soát của bạn ở cột “Không kiểm soát được”
5. Suy nghĩ kỹ về điều này. Xem lại nếu cần. Người Khắc kỷ thì sẽ nói rằng chỉ những thứ thật sự nằm trong tầm kiểm soát của chúng ta (tùy thuộc vào chúng ta) mới là những suy nghĩ và mục đích mà ta chủ động hành động. Mọi điều khác đều có khả năng đi ngược lại mong muốn của chúng ta.
Hãy tưởng tượng bạn đang vẽ một vòng tròn quanh phạm vi kiểm soát của mình, xác định đường biên giới ý chí của bạn – bên trong phạm vi này nơi sự tự do và sức mạnh của bạn tồn tại dưới mọi tình huống. Bạn mất bao nhiêu thời gian lo nghĩ về những khía cạnh không nằm trong tầm kiểm soát của mình? Điều gì xảy ra nếu bạn tập trung nhiều hơn vào những khía cạnh nằm trong tầm kiểm soát, và làm hết khả năng của mình? Điều gì xảy ra nếu bạn chấp nhận rằng những thứ ngoài tầm kiểm soát có thể hoặc không xảy ra như bạn kỳ vọng? Hãy áp dụng bài tập này trong nhiều tình huống khác nhau. Bạn rút được những bài học chung gì?
Lý thuyết Khắc kỷ về những Cảm xúc
Chủ nghĩa Khắc kỷ có một học thuyết tâm lý rất cụ thể, vì vậy đây là một lĩnh vực mà việc sử dụng biệt ngữ Hy Lạp là không thể tránh khỏi. Nhất là là từ “Cảm xúc” được sử dụng dưới một nghĩa đặc biệt. Nhân vật Cato của Cicero, chật vật với việc dịch chủ nghĩa Khắc kỷ sang tiếng Latinh, nói rằng những “Cảm xúc ” khiến cuộc đời của hầu hết mọi người trở nên khốn khổ. Ông muốn dịch thuật ngữ này là “bệnh” nhưng rồi cho rằng “rối loạn cảm xúc” hoặc “sự xáo trộn” có nghĩa tổng quát hơn (De Finibus, 3.35). Trên thực tế, thuật ngữ hiện đại “bệnh học” (pathology), khoa học nghiên cứu về những sự đau đớn, có nguồn gốc từ “passion”, một từ hiện vẫn bao hàm nghĩa nỗi đau như trong The Passion of Christ (tạm dịch: Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu).
Khi các nhà Khắc kỷ nói về những “Cảm xúc” thông thường mà số đông trải qua, họ hàm ý những khao khát gây xáo trộn, những cảm xúc theo kiểu phi lý trí, thiếu lành mạnh và thái quá. Chúng đối lập với những cảm xúc lành mạnh của nhà Hiền triết. Tuy nhiên, các nhà Khắc kỷ La Mã có vẻ chấp nhận những các nhà Khắc kỷ nhiệt huyết đang trong quá trình học tập có thể trải qua những khao khát và cảm xúc lành mạnh thoáng qua, dẫu còn thiếu trí tuệ hoàn hảo.
Tuy thế, đại đa số quần chúng thường bị các nhà Khắc kỷ gán cho những từ như “bệnh”, “mất trí” vì cuộc đời chúng ta lụi tàn bởi những nỗi sợ hãi và khao khát độc hại. Người Khắc kỷ nói cơ thể bệnh tật, trí óc ốm yếu và những sự suy đồi về đạo đức đều đến từ việc có những phán xét sai lầm về giá trị. Chẳng hạn, các nhà Khắc kỷ quy kết việc phán xét một cách sai lầm về những thứ ngoại thân – cho chúng là tốt đẹp, là có ích, là đáng khao khát – chính là cơ sở của những thèm muốn lạc thú, của cải, danh vọng,…
Chúng ta cũng có thể chịu đau khổ từ những phán xét phi lý trí về việc thế nào là xấu, là có hại hay đáng kinh tởm, chẳng hạn như sợ hãi hay thù hận những thứ thực chất “không quan trọng” đối với hạnh phúc sau cùng, bao gồm đau đớn, gian khổ, đói nghèo, sự nhục mạ,… Nói cách khác, đa số mọi người thường không có được tự tại và thanh thản bởi vì các giá trị của họ bị lẫn lộn và xung đột từ bên trong. Chúng ta phung phí cuộc đời để theo đuổi ảo tưởng về Hạnh phúc, dựa trên sự nhầm lẫn Hạnh phúc với chủ nghĩa khoái lạc, chủ nghĩa vật chất và chủ nghĩa cái tôi trung tâm – các giá trị điên rồ và mang tính tự hủy, được hấp thụ từ thế giới vô minh quanh ta.
Do vậy, những Cảm xúc này có liên quan mật thiết, thậm chí còn đồng nhất, với cách phán xét và khuynh hướng hành vi của chúng ta. Chẳng hạn, tính tham lam, ham muốn quá độ đối với của cải, là do sự phán xét rằng tiền bạc là thứ vốn dĩ tốt đẹp, kết hợp với mong muốn sở hữu nó. Các nhà Khắc kỷ thời kỳ đầu mô tả ba khía cạnh liên quan chặt chẽ với nhau của những Cảm xúc gây xáo trộn này:
1. Những phán xét phi lý về cái tốt và cái xấu.
2. Hoạt động tinh thần trái tự nhiên (hoặc không lành mạnh)
3. Sự thôi thúc hành động thái quá, hay mong muốn có được cái tốt và tránh cái xấu
Con người thường biện hộ cho đủ loại hành vi bệnh lý hay đáng trách bằng cách nói rằng cảm nhận như thế hoặc làm như thế “cũng tự nhiên thôi”. Mặt khác, các nhà Khắc kỷ mô tả rằng về căn bản Cảm xúc là đi ngược lại bản chất thật của con người có lý trí, và vì vậy xung đột với mục tiêu tối thượng của người Khắc kỷ là sống hòa hợp với Tự nhiên.
Trong sách On Passions (tạm dịch: Về những Cảm xúc), Zeno đã phân Cảm xúc thành bốn phạm trù: đau đớn, sợ hãi, khao khát và khoái lạc. Các đoạn văn về Chủ nghĩa Khắc kỷ do các nhà bình luận cổ đại là Diogenes Laertius và Stobaeus thu thập đã bổ sung thêm các phần dưới đây đề làm sáng tỏ ý nghĩa.
1. Đau đớn (lupê), đôi khi được dịch là đau khổ hay đau buồn: “sự co rút” (phi lý) của tâm hồn khi không tránh được điều gì đó được phán là xấu hoặc khi không đạt được điều gì đó được cho là tốt. Sự đau đớn phi lý có hình thức là những cảm xúc không lành mạnh như thương hại, ghen tức, oán giận, đau khổ, sầu não,…
2. Sợ hãi (phobos): “cho rằng điều gì đó tồi tệ” hoặc gây hại (phi lý). Sợ hãi phi lý có hình thức là cảm giác kinh hãi, hoảng hốt, lo lắng, xấu hổ, sốc, hoang mang,…
3. Khao khát (epithumia), hàm ý mong ước tha thiết, thèm khát: cố gắng một cách phi lý để có điều gì đó đã được đánh giá sai lầm là “tốt” hoặc “có ích”. Khao khát phi lý có hình thức là mong mỏi phù phiếm, hận thù, tức giận, thèm khát tình dục; cũng như yêu thích khoái lạc, chuộng của cải, yêu danh vọng,…
4. Khoái lạc (hêdonê), như trong từ “chủ nghĩa khoái lạc - hedonism”: “sự hoan hỉ vô lý về điều gì đó có vẻ đáng được chọn”, nghĩa là điều gì đó đã được đã đánh giá sai lầm là “tốt” hay “có ích”. Cảm xúc khoái lạc phi lý (không lành mạnh) có hình thức là đam mê lạc thú, suy đồi, ưa xu nịnh, vui thú trước những điều không may của người khác,…
Sợ hãi và khao khát có vẻ mang tính cơ bản hơn vì nỗi đau xuất hiện khi ta không có được (hoặc đánh mất) điều ta khao khát, và khi ta không tránh được điều ta sợ hãi. Trong khi đó, khoái lạc xảy tới khi ta thật sự có được điều ta khao khát và tránh được điều ta sợ hãi (cảm giác khoan khoái nhẹ nhõm). Người Khắc kỷ tin rằng cuộc sống của chúng ta sẽ trôi chảy hơn khi ta trải nghiệm lòng biết ơn với những gì ta có thay vì khao khát một cách thái quá những gì ta không có.
Khi nói về đau đớn, người Khắc kỷ muốn nói về nỗi đau cảm xúc, sự đau khổ, đau buồn, chứ không hàm ý các đau đớn thể chất. Cicero giải thích rằng đối với người Khắc kỷ, thuật ngữ hêdonê (khoái lạc) có thể bao hàm cảm giác khoan khoái trong tâm trí hay những cảm giác vui sướng trên cơ thể. Theo ông, Cảm xúc phi lý của “khoái lạc” thật ra chính là “khoái cảm giác quan của tâm trí đắc chí”, đó là điều “xấu” và “có hại” vì nó dựa trên việc đánh giá quá cao những thứ về thuộc thể xác hay thuộc thế giới bên ngoài.
Ngược lại, những khoái cảm và đau đớn chỉ đơn thuần đến từ giác quan thể xác được người Khắc kỷ xếp vào những điều suy cho cùng là vô hại và “không quan trọng”. Cũng nên lưu ý là những ví dụ về “khoái lạc” mà các nhà Khắc kỷ liệt kê rõ ràng là không lành mạnh, khác với điều mà ta gọi niềm vui lành mạnh. Đó là những khoái lạc thỏa mãn cái tôi đến từ sự xu nịnh, thú vui tàn độc trước nỗi đau của người khác, hay khoái lạc đến từ tự nuông chiều bản thân, những thứ làm suy yếu và hủy hoại trí óc chúng ta. Seneca gọi đây là những niềm vui “trống rỗng” và thậm chí có thể gọi là “độc hại” hay “bệnh hoạn”.
Sau cùng, hãy lưu ý rằng những khát khao phi lý không chỉ bao gồm các xúc cảm thèm khát mà còn có sự giận dữ và thù hận, điều mà người Khắc kỷ diễn giải là mong muốn người khác bị tổn hại. Trên thực tế, giận dữ là một cảm xúc mà các nhà Khắc kỷ quan tâm nhất. Chúng ta có cả một cuốn sách của Seneca nhan đề On Anger nói về cách tiếp cận của người Khắc kỷ trong việc phòng ngừa và trị liệu loại xúc cảm đặc biệt này.
Tư tưởng chính: Các Cảm xúc “tốt” và “xấu”
Người Khắc kỷ luôn tìm cách vượt qua các Cảm xúc (patheiai), những khao khát và xúc cảm họ cho là phi lý, thái quá và trái tự nhiên (hay không lành mạnh). Đây là những điều đi ngược lại bản chất cốt yếu của chúng ta với tư cách là những sinh vật có lý trí. Chúng chỉ dựa trên sự thiếu hiểu biết về bản chất thật sự của điều tốt. Zeno đã phân những Cảm xúc này vào bốn phạm trù mang tên sợ hãi, khao khát, đau đớn và khoái lạc. Đa số con người là nô lệ của những loại dục vọng này vì họ khát khao hoặc sợ hãi những điều bên ngoài, vượt ngoài tầm kiểm soát của họ.
Tuy nhiên, các nhà Khắc kỷ lại tìm cách thay thế chúng bằng những Cảm xúc tốt đẹp và lành mạnh (eupatheiai). Đó là sự thận trọng, chín chắn thay vì sợ hãi phi lý; đó là niềm vui được khai sáng thay vì các khoái cảm thiếu lành mạnh và dễ dãi; đó là hài lòng hay sẵn sàng chấp nhận (điều thật sự tốt) thay vì thèm khát những thứ hoàn toàn không quan trọng. Theo các nhà Khắc kỷ, không có sự thay thế nào cho loại Cảm xúc thứ tư (khoái lạc), đó là một dạng đau đớn cảm xúc tự nguyện. Mặc dù số đông khao khát hoặc sợ hãi vô số thứ trên đời, thì nhà Hiền triết chỉ khao khát một điều duy nhất: đức hạnh. Họ khao khát một cách lý trí mọi đức hạnh cốt yếu tạo nên trí tuệ thực tiễn. Tương tự, họ có thể trải nghiệm sự ghét bỏ có lý trí dưới hình thức thận trọng hay chánh niệm, để không bị sa ngã vào những điều tồi tệ và xấu xa.
Thực hành: Đánh giá sự kiểm soát
Đây là phiên bản đơn giản hơn của bài tập đánh giá sự kiểm soát ở trên. Những bài này sẽ dễ thực hiện hơn khi bạn áp dụng với các tình huống trong cuộc sống thường nhật.
1. Chọn một tình huống cụ thể mà bạn thấy phiền lòng.
2. Đánh giá xem bạn có thể kiểm soát tình hình được ở mức nào, từ 0%-100%
3. Nếu đánh giá của bạn không phải là 100%, thì tại sao? Khía cạnh nào không nằm trong tầm kiểm soát của bạn?
4. Nếu đánh giá của bạn không phải là 0%, thì tại sao? Khía cạnh nào nằm trong tầm kiểm soát của bạn?
5. Điều gì sẽ xảy ra nếu bạn tập trung vào việc tận dụng hết khả năng những khía cạnh nằm trong tầm kiểm soát của mình và chấp nhận rằng các khía cạnh kia có thể xảy ra không như mong muốn của bạn?
Bạn còn học được điều gì khác nữa từ bài tập này? Hãy thử áp dụng nó cho các tình huống khác nhau trong cuộc sống hằng ngày và rèn luyện cho mình nhận thức được đường biên giới tự do và ý muốn của mình. Trong mọi tình huống, câu trả lời có thể khá giống nhau vì chỉ các suy nghĩ và hành động tự nguyện của bản thân bạn mới là cái bạn có thể kiểm soát mà không gặp bất kỳ sự ngăn trở nào.
Những phản ứng cảm xúc tự động
Các nhà Khắc kỷ thừa nhận rằng các Cảm xúc bắt đầu xuất hiện như một “động thái vô tình” ban đầu của tâm trí, một phản ứng kiểu “phản xạ” về mặt cảm xúc mà ta không thật sự kiểm soát được. Seneca đã giải thích rằng Cảm xúc theo chủ nghĩa Khắc kỷ không phải là những gì khuấy động tâm trí một cách tự nhiên mà không cần sự chấp thuận tự nguyện của tâm trí. Sự bùng nổ, nước mắt, thay đổi nhịp thở,… chỉ là những phản ứng xúc cảm có tính chất phản xạ chứ không phải là những Cảm xúc thật sự, vì vậy các nhà Khắc kỷ gọi chúng là “tiền Cảm xúc” (propatheiai). Một khi chúng xảy ra, người Khắc kỷ không có lựa chọn nào khác ngoài chấp nhận vì chúng nằm ngoài tầm kiểm soát của họ, nhưng họ có thể lựa chọn không cho những cảm xúc vô thức ấy đeo đẳng mình. Chẳng hạn, trong bài an ủi Polybius, người vừa mới mất một người anh em, Seneca đã viết:
Tự nhiên muốn chúng ta chịu những nỗi đau nào đó, nhưng nó chẳng qua chỉ là hư ảo. Còn ta thì không bao giờ đòi hỏi anh không tỏ lòng tiếc thương.
(Polybius, 18.4-5)
Lý trí dẫn dắt chúng ta tới một phản ứng cân bằng, vốn là biểu hiện của tình cảm tự nhiên, cho phép các phản ứng xúc cảm tự động của chúng ta diễn ra theo cách của chúng mà không cần nghiền ngẫm các sự kiện một cách thiếu lành mạnh. Ông nói thêm: “Cứ để nước mắt rơi, nhưng cũng cứ để chúng ngừng rơi; cứ để những tiếng thở dài sâu thẳm nhất bật ra khỏi lồng ngực, nhưng cũng cứ để cho chúng tìm ra điểm kết thúc” (Polybius, 18.6).
Một ví dụ hay khác về phản ứng cảm xúc vô thức là đỏ mặt. Seneca nói rằng, một triết gia trẻ tuổi, dễ xúc cảm, có lẽ vẫn tiếp tục đỏ mặt ngay cả khi anh ta đạt được trí tuệ hoàn hảo và trở thành một nhà Hiền triết. “Trí tuệ cao thâm đến đâu cũng không thể làm mất đi những yếu điểm tinh thần và thể chất nảy sinh từ nguyên nhân tự nhiên. Những gì bẩm sinh hay đã ăn sâu bám rễ có thể giảm bớt bằng tập luyện, nhưng không thể được khắc phục hoàn toàn” (Letters, 11). Triết học không thể thống trị bản chất tự nhiên của chúng ta một cách tuyệt đối, ngay cả nhà Hiền triết đôi khi cũng đỏ mặt hoặc lắp bắp trong tình huống nào đó, dù sau đó anh ta sẽ lấy lại được bình tĩnh. Trí tuệ không chữa trị được điều này vì nó không phải là một hành vi chủ động.
Một trong những thảo luận rõ ràng nhất về vai trò của cảm giác vô thức nằm trong cuốn On Anger của Seneca, trong đó ông mô tả các giai đoạn của Cảm xúc như sau:
1. Tiền Cảm xúc, hay “động thái đầu tiên” của trí óc, nảy sinh một cách bị động như “một bước chuẩn bị cho cảm xúc”, một phản ứng vô thức được kích hoạt bởi những ấn tượng đến từ bên ngoài hoặc từ những xung động cơ thể, như phản ứng giật mình trước một tiếng động đột ngột. Chúng ta không thể tránh được điều này cũng như không thể không chớp mắt khi có ngón tay huơ huơ trước mắt. Dẫu vậy, Seneca cho rằng thông qua luyện tập liên tục cuối cùng ta có thể làm giảm bớt một số phản ứng như vậy.
2. Trong “động thái thứ hai”, chúng ta “đồng tình” với ấn tượng gây xáo trộn ban đầu, gắn nó với phán xét giá trị là nó tuyệt đối “tốt” hay “xấu”, “có ích” hay “có hại”. Tiếp đó đưa ra nhận định xem đâu là hành động thích hợp (chẳng hạn: “tôi có nên trả thù không, vì tôi bị thương rồi”). Thường thì sự “tán thành” chủ động xảy ra thường xuyên tới mức chúng ta không nhận ra, nhưng nó có thể được giảm bớt khi ta trì hoãn việc phán xét hay tập trung vào một phán xét đối lập khác – đây chính là cách nhà Hiền triết sẽ làm trong hoàn cảnh tương tự.
3. Trong “động thái thứ ba”, chúng ta mất kiểm soát, Cảm xúc trỗi dậy, lấn át lý trí bằng việc cho phép chúng ta bị cuốn vào các cảm xúc và khao khát thái quá, phi lý, không lành mạnh, những thứ vốn tìm con đường riêng của chúng bằng mọi giá, thậm chí bằng cái giá của trí tuệ và đức hạnh.
Một tác gia cổ đại có tên Aulus Gellius kể một câu chuyện liên quan trong cuốn Attic Nights (tạm dịch: Những đêm Athens) viết trong khoảng thế kỷ thứ hai. Trong một chuyến hải trình đầy bão tố, một triết gia Khắc kỷ trông có vẻ tái mét và căng thẳng. Khi đã về đến đất liền, Gellius hỏi làm sao một người Khắc kỷ, “được cho là không có cảm xúc”, cũng tái đi trong bão tố. Nhà Khắc kỷ giải thích bằng lấy ra cuốn Discouses và đọc một đoạn từ cuốn thứ năm đã thất truyền. Theo Gellius, Epitetus nói rằng khi một tiếng động đáng sợ xảy ra đột ngột làm chúng ta hoảng hốt, chẳng hạn tiếng sấm, tiếng một tòa nhà đổ, hay khi ta bất ngờ nhận tin về một mối nguy hiểm nào đó, trong những tình huống như vậy thì ngay cả nhà Hiền triết cũng bị bối rối, vì ấn tượng đầu tiên tấn công vào tâm trí anh ta, anh ta có thể tái đi và tự động co rúm trong chốc lát. Điều này không phải là do nhận định điều gì đó tồi tệ sắp xảy ra, mà đơn thuần chỉ là các phản ứng rất nhanh và vô thức của cơ thể.
Tuy nhiên, nhà Hiền triết sẽ không “đồng tình” với những ấn tượng đáng sợ này bằng cách đưa ra phán xét giá trị tương ứng. Anh ta sẽ hoàn toàn từ chối chúng, nhận định rằng chẳng có lý do để tiếp tục sợ hãi. Chúng ta có thể hình dung anh ta tự nhủ: “Mặc dù tôi biết mình đã biến sắc, nhưng tôi biết đó chỉ là do cơ thể tôi phản ứng với sóng dữ mà thôi, và không có gì nguy hiểm hay đáng sợ”. Đây là khác biệt chủ yếu giữa nhà Hiền triết với người thường. Kẻ ngốc sẽ chiều theo những ấn tượng đầu tiên về mối nguy hiểm sắp xảy ra, xác nhận các xung động cơ thể bằng phán xét của mình và kết luận rằng bản thân bị nỗi sợ xâm chiếm là đúng. Ngược lại, nhà Hiền triết chỉ bị ảnh hưởng nhất thời, nhưng anh ta sẽ kiên định với các phán xét mang tính triết học của mình, rằng những thứ có vẻ đáng sợ thực ra lại “không quan trọng” và không có gì phải sợ. Chúng chỉ là những nỗi sợ vô nghĩa, như ai đó mang mặt nạ hù dọa làm chúng ta thoáng giật mình rồi nhận ra rằng đó chỉ là một cái mặt nạ và chẳng có gì phải sợ.
Tư tưởng chính: Phương pháp trị liệu Cảm xúc của người Khắc kỷ
Người Khắc kỷ chỉ rõ rằng không thể hình dung nhà Hiền triết lý tưởng lại phải chịu đựng các rối loạn cảm xúc do những nỗi sợ hãi và khao khát phi lý gây ra. Do vậy anh ta phải đạt được apatheia, sự miễn nhiễm các Cảm xúc phi lý. Dù anh ta có thể vẫn trải qua những phản ứng cảm xúc vô thức nhưng sẽ không bị chúng cuốn đi. Vì lý do đó, một dạng liệu pháp tâm lý đối với Cảm xúc là rất cần thiết cho việc thực hành chủ nghĩa Khắc kỷ. Điều này có thể khiến một số người bối rối, bởi họ nhầm lẫn khi cho rằng tâm lý trị liệu là một khái niệm hoàn toàn mới. Trên thực tế, thực hành triết học như một liệu pháp y học, trị liệu tinh thần vốn rất phổ biến trong các trường phái triết học cổ đại, đặc biệt là với chủ nghĩa Khắc kỷ.
Một ví dụ hay cho điều này là một dạng văn bản cổ có tên gọi “thư an ủi”. Loại thư này là những bài luận, có cấu trúc chặt chẽ, hùng hồn mang tính triết lý, dùng để giúp người nhận đương đầu về mặt cảm xúc trước những biến cố nghiêm trọng, thường là cái chết của người thân. Những lá thư này thường cho người nhận những lời an ủi, khuyến khích và cả những cách trị liệu có tính triết lý, các bài tập thiền và những lý luận thuyết phục, nhằm làm dịu đi cảm xúc đau đớn. Mặc dù những lá thư này do các triết gia thuộc các trường phái khác nhau viết nên, nhưng chúng đặc biệt liên quan tới chủ nghĩa Khắc kỷ. Ngày nay chúng ta vẫn còn giữ được nhiều bức thư của Seneca. Ngoài ra, khía cạnh trị liệu tâm lý của chủ nghãi Khắc kỷ còn được sử dụng trong nhiều hoàn cảnh khác:
• Seneca viết nhiều thư cho một học trò theo học chủ nghĩa Khắc kỷ tên Lucilius (đây dường như là một nhân vật tưởng tượng), trong đó ông đóng vai trò là người cố vấn triết học riêng, giống như quan hệ giữa một người khai vấn hiện đại hay một nhà trị liệu với khách hàng.
• Epictetus gửi các bản chép tay cuốn Discourses cho nhiều nhóm học trò và cho họ lời khuyên thực tiễn về các vấn đề đời sống cụ thể theo cách giống một buổi thảo luận của các nhóm tự lực hay một buổi hội thảo trị liệu hiện đại.
• Marcus Aurelius viết nhật ký cá nhân (cuốn Meditations) ghi lại cách sử dụng các bài tập tâm lý, chẳng hạn suy ngẫm một cách có hệ thống về các đức hạnh của người khác hay về cái chết của chính mình.
Đây tình cờ lại là ba tài liệu thành văn chủ yếu còn sót lại của chủ nghĩa Khắc kỷ thời cuối đế chế La Mã. Chúng thể hiện các hình thức trị liệu khác nhau của chủ nghĩa này.
Ghi nhớ: Các phản ứng cảm xúc ban đầu có thể là vô thức (tiền Cảm xúc)
Cho dù các nhà Hiền triết hẳn phải miễn nhiễm với các Cảm xúc thiếu lành mạnh, nhưng đôi lúc anh ta vẫn có thể phải trải qua những cảm giác gây xáo trộn một cách vô thức, chẳng hạn bị giật mình bởi một tiếng động mạnh bất ngờ. Các Cảm xúc không lành mạnh dựa trên cơ sở những phán xét giá trị ẩn dưới sự kiểm soát chủ động của chúng ta, chúng là những cảm xúc chúng ta cho phép mình đi theo bằng cách hưởng ứng những ấn tượng ban đầu.
Ngược lại, các nhà Khắc kỷ cũng đề cập tới những cảm xúc vô thức nhất định ban đầu là tiền Cảm xúc (propatheiai), tức các phản ứng cảm xúc không chủ động, trước khi hoàn toàn trở thành các nỗi sợ và khao khát bệnh lý. Người Khắc kỷ chấp nhận những cảm xúc này như những phản xạ tự vệ ngoài tầm kiểm soát, và tự chúng không tốt cũng không xấu về mặt đạo đức. Ví dụ về những loại phản xạ này bao gồm bật khóc, run rẩy, nói lắp, mắt giật, đổ mồ hôi, đỏ mặt, ngáp hay giật mình. Những hiện tượng này chủ yếu do các kích thích bên ngoài hay các quá trình của cơ thể gây ra hơn là sự hưởng ứng chủ động với những phán xét giá trị.
Tuy nhiên, thường thì chúng ta có thể kiểm soát được những gì sẽ xảy ra tiếp theo. Chúng ta được chủ động lựa chọn đáp lại các phản xạ vô thức ban đầu. Chúng ta có thể hưởng ứng và đi theo các phản xạ ban đầu đó hoặc lùi lại, tránh khỏi chúng. Nhà Hiền triết có thể bị sốc đột ngột vào lúc đầu nhưng rồi sẽ không tiếp tục lo lắng về nó, trong khi đa số mọi người sẽ tự cho phép mình bị cuốn theo những cảm giác lo lắng ban đầu.
Các nhà Khắc kỷ quan sát được rằng nỗi đau các loài động vật khác sẽ tự nhiên diễn ra theo quá trình của nó. Sau khi giật mình các con vật sẽ dần dần bình tĩnh; sau một mất mát, sự căng thẳng của chúng cuối cùng rồi cũng sẽ phai đi. Các phản ứng vô thức của chúng ta thường cũng sẽ tự nhiên mất đi theo thời gian một khi những ấn tượng ban đầu không còn mới mẻ trong trí óc, miễn là chúng ta không đeo bám theo và hưởng ứng các phán xét giá trị sai lầm.
Ghi nhớ: Kẻ ngốc tham lam vô độ
Đa số mọi người khát khao và sợ hãi vô số thứ bên ngoài. Nhà Hiền triết chỉ khao khát một điều duy nhất: đức hạnh; chỉ cẩn trọng về một điều duy nhất: cái xấu xa. Anh ta nhất quán trong mọi hoàn cảnh, vì thứ quan trọng nhất nằm trong bản thân chứ không phải ở các sự kiện bên ngoài vốn không ngừng thay đổi. Chẳng hạn, bá tước xứ Shaftesbury, một môn đồ hiện đại của chủ nghĩa Khắc kỷ, đã mô tả các cảm giác không lành mạnh như “khoái lạc” hay “hoan hỉ” là những cảm giác bốc đồng và kích động, không thể thỏa mãn và dẫn tới cảm giác hối hận, ghê tởm theo sau, và chúng khiến người ta cảm thấy “cái gì cũng cần”, vì họ lệ thuộc vào vô số những thứ bên ngoài. Ông cho rằng những điều này trái ngược với niềm vui lý trí của hiền nhân, tức sự thanh thản và dịu dàng, thanh khiết và đơn giản, không thừa mứa, tất cả đưa tới sự thỏa mãn và tự túc. Với niềm vui lý trí thì “không có gì cần thiết ngoài cái phụ thuộc vào bản thân mình”, bởi vì nó xuất phát từ niềm tin rằng người tốt là người hành động theo đức hạnh (Shaftesbury, 2005, tr.151).
Những Cảm xúc “tốt” và “lành mạnh”
Cần phải nhấn mạnh vai trò quan trọng của các cảm xúc vui sướng và yêu mến trong chủ nghĩa Khắc kỷ vì điều này giúp sửa đổi quan niệm sai lầm rằng chủ nghĩa Khắc kỷ là vô cảm. Trên thực tế, các nhà Khắc kỷ cổ đại mong muốn thay thế Cảm xúc “xấu” và “không lành mạnh” bằng Cảm xúc “tốt” và “lành mạnh”, tức những Cảm xúc gắn liền một cách tự nhiên với khôn ngoan và đức hạnh. Diogenes Laertius nói bản thân các Cảm xúc tốt như niềm vui và niềm hân hoan không phải là đức hạnh, chúng chỉ tạm thời xảy ra như hệ quả của đức hạnh. Nói đúng ra thì mặc dù chỉ có nhà Hiền triết hoàn hảo mới có những “Cảm xúc tốt”, nhưng các nhà Khắc kỷ cũng nói về những người đang trong quá trình tiến tới việc đạt được chút ít những Cảm xúc này. Vì không có hình thức cảm xúc đau đớn hoặc buồn khổ nào là chủ động, lý trí và lành mạnh nên những Cảm xúc ấy chỉ rơi vào ba phạm trù:
1. Niềm vui hay niềm hân hoan (chara) là một cảm xúc “phấn khởi” có lý trí (cảm xúc tích cực), như một điều tốt đích thực, là sự thay thế cho khoái lạc phi lý trí. Niềm vui lành mạnh có thể ở dạng hân hoan, vui vẻ, thanh thản.
2. Thận trọng hay suy xét chừng mực (eulabeia) là ác cảm có lý trí đối với những điều thật sự xấu xa và có hại, là sự thay thế lành mạnh cho nỗi sợ phi lý trí. Nó có thể được thể hiện ở dạng ý thức về phẩm giá và tự trọng hay sự trong sạch và thánh thiện – nó thậm chí có thể được xem là một hình thức chánh niệm.
3. Thiện ý (boulêsis) là khát khao có lý trí muốn trở nên thật sự tốt đẹp và có ích, là cái thay thế cho sự thèm muốn phi lý. Thiện ý lành mạnh này có thể ở dạng lòng thương mến, sự tốt bụng, lòng nhân từ, mong muốn cho bản thân và cho người khác phát triển theo đức hạnh và có lẽ liên quan tới quan niệm về tình yêu và lòng thương mến tự nhiên (philostorgia) của người Khắc kỷ.
Seneca giải thích rằng niềm vui của người Khắc kỷ đến từ việc suy ngẫm về các hành động đức hạnh của mình, điều mà tất cả chúng ta đều có thể trải nghiệm, mặc dù chỉ là thoáng qua khi so với niềm vui xuất phát từ bên trong của một nhà Hiền triết hoàn hảo (Letters, 76). Tuy nhiên, ông nhấn mạnh rằng không như những người theo thuyết Epicurus, những người coi cảm xúc vui sướng (và không có nỗi đau) là điều tốt đẹp chính yếu trong đời, cảm giác “vui vẻ” không phải là động cơ của người Khắc kỷ khi hành động theo con đường đức hạnh. Người Khắc kỷ không được đảm bảo sẽ trải nghiệm cảm xúc vui vẻ trong mọi hoàn cảnh, nhất là khi họ hành động nhanh mà không có có hội để suy ngẫm, và các cảm giác tương tự có thể nảy sinh từ các nguyên nhân (thiếu đạo đức) khác. Thật ra, ngay cả bị tước bỏ những cảm xúc tốt đẹp này, người Khắc kỷ vẫn không ngần ngại đối diện với sự bất hạnh bằng danh dự, coi những hành động hợp lý này là bổn phận và phần thưởng của mình.
Các nhà Khắc kỷ hiểu rõ rằng đức hạnh phải là phần thưởng tự thân, nếu không sẽ xuất hiện vết nứt trong pháo đài đạo đức, dẫn tới nguy cơ sụp đổ dưới áp lực. Các cảm xúc tốt đẹp hay Cảm xúc lành mạnh là một kiểu phần thưởng phụ thêm, chúng không thể được coi là động cơ chính cho hành động vì chúng không hoàn toàn nằm trong tầm kiểm soát của chúng ta. Người Khắc kỷ phải sẵn sàng hành động bằng lòng can đảm và sự chính trực bất chấp cảm xúc của mình chứ không chiều theo chúng, ngay cả khi nỗi sợ và khao khát kéo họ về hướng ngược lại.
Nói cách khác, khi tiếng còi xung trận vang lên, người anh hùng Khắc kỷ không thể chờ tia sáng ấm áp của cảm xúc tích cực tới rồi mới xông vào trận đánh. Mặc dù theo cùng mỗi đức hạnh vẫn thường có sự trổi dậy của cảm giác vui vẻ, thì đức hạnh vẫn là phần thưởng tự thân và là điều duy nhất tự nó đã đáng để khát khao.
Ghi nhớ: Niềm vui và sự thanh thản của người Khắc kỷ
Người Khắc kỷ cho rằng sự thanh thản thường là một phần của eudaimonia, nhưng thật ra nó là hệ quả của việc đạt được sự khôn ngoan và những đức hạnh khác. Triết học rốt cuộc không ưa chuộng niềm vui và sự thanh thản mà ưa chuộng sự khôn ngoan. Như Mosonius Rufus từng nói, niềm vui và sự thanh thản tự động đi cùng tới sự khôn ngoan và đức hạnh của nhà Hiền triết.
Một phần rủi ro nằm ở chỗ những người đề cao cảm xúc dễ chịu lên trên đức hạnh sẽ cố thụ đắc chúng bằng những lối tắt lười biếng, như tránh né hoặc lạm dụng thuốc, và thế là rơi vào cái xấu. Chẳng hạn, sẽ ra sao nếu ta có được sự thanh thản hoàn hảo cả đời theo kiểu nào đó bằng cách mỗi ngày đều ngốn thuốc an thần hoặc tiến hành phẫu thuật thùy não? Nếu có ai đó làm điều này, có lẽ bạn sẽ chẳng khen nó là một cuộc sống “tốt” đâu.
Nói thẳng ra thì các cảm xúc như niềm vui và sự thanh thản chỉ thật sự tốt đẹp và lành mạnh khi chúng là hệ quả của trí tuệ thực tiễn và đức hạnh, và sẽ chẳng tốt chút nào nếu chúng sinh ra từ các nguyên nhân khác. Với chủ nghĩa Khắc kỷ, nếu mưu cầu chúng bằng mọi giá hay bằng cái giá của trí tuệ và đức hạnh, thì hoàn toàn không phù hợp.
Coi sự thanh thản là mục tiêu thì cũng là một “ngõ cụt”, bởi sự thanh thản không nhất thiết dẫn tới những cái tốt khác, sự thanh thản cũng không tự duy trì được như trí tuệ thực tiễn. Khôn ngoan là năng lực nhận biết cách sử dụng mọi thứ một cách có ích, nó có thể tự chiêm nghiệm và tự đánh giá. Tuy vậy, nếu coi sống hòa hợp với Tự nhiên và sống có đức hạnh là mục tiêu của cuộc sống, thì việc này đòi hỏi một số hình thức ngăn ngừa hoặc trị liệu các nỗi sợ hãi hay khao khát bệnh lý. Do vậy, mặc dù mục tiêu thật sự là đức hạnh, còn niềm vui và sự thanh thản chỉ là một dạng phần thưởng thêm, thì chủ nghĩa Khắc kỷ vẫn chứa đựng một liệu pháp tâm lý vốn là tiền thân của liệu pháp nhận thức – hành vi (CBT) hiện đại.
Các điểm trọng tâm
Những điểm cần ghi nhớ trong chương này:
• Theo người Khắc kỷ, sự hứa hẹn của triết học là nếu sống bằng trí tuệ và đức hạnh, hòa hợp với Tự nhiên, chúng ta sẽ đạt được Hạnh phúc và sự viên mãn hoàn hảo (eudaimonia).
• Mặc dù eudaimonia bao gồm các cảm xúc nhất định như niềm vui và sự thanh thản, nhưng đây không phải là mục tiêu trung tâm của thực hành Khắc kỷ, đây chỉ là khía cạnh phụ tích cực của đức hạnh.
• Nhà Hiền triết Khắc kỷ trải nghiệm các Cảm xúc lành mạnh có gốc rễ từ tri thức thực tiễn, như niềm vui, sự cẩn trọng, mong ước lành mạnh và lòng yêu mến tự nhiên.
• Các nhà Khắc kỷ cổ đại chấp nhận các phản ứng cảm xúc vô thức, như nói lắp, đỏ mặt, vì chúng ngoài tầm kiểm soát của chúng ta, nhưng họ tin rằng chúng ta có thể thay đổi những gì xảy ra sau đó bằng cách không hưởng ứng những ấn tượng (cảm giác) ban đầu khiến ta buồn bực.
Bước tiếp theo
Chúng ta vừa tìm hiểu về Đạo đức học Khắc kỷ và lý thuyết về các Cảm xúc, đã tới lúc xem xét chi tiết kho bài tập tâm lý của chủ nghĩa Khắc kỷ, bắt đầu bằng “kỷ luật khát khao và chán ghét”, khía cạnh thực hành Khắc kỷ liên quan gần gũi nhất với nghiên cứu Vật lý học, trung tâm của phương pháp trị liệu Cảm xúc.