T
rong chương này, chúng ta sẽ tìm hiểu:
- Các triết gia Khắc kỷ là ai và bản chất cốt lõi trong triết học của họ – rằng mục tiêu cuộc đời là “sống hòa hợp với Tự nhiên”.
- Cấu trúc tổng thể của chủ nghĩa Khắc kỷ và ba “chủ đề” lý thuyết của chương trình giảng dạy triết thuyết này: “Vật lý học”, “Đạo đức học” và “Logic học”.
- Các mà những chủ đề này truyền thông tin cho ba phương diện thực hành thuyết Khắc kỷ – Kỷ luật Khát khao, Kỷ luật Hành động và Kỷ luật Phán xét.
- Làm thế nào để suy ngẫm về bản chất của “điều tốt” và đánh giá khả năng kiểm soát cuộc sống của bạn.
Đời người là một chốc thoáng qua; bản chất thay đổi liên lục, tri giác tối mờ; những phần thân xác rồi cũng sẽ mục rã. Linh hồn chao đảo không ngừng nghỉ, vận may thì bất định và danh tiếng cũng không đáng tin cậy; tóm lại, mọi thứ thuộc về thân xác như một dòng nước xiết; còn những gì thuộc về linh hồn chỉ như một giấc chiêm bao hay một làn khói mỏng. Cuộc đời là chiến trận và là sự trú tạm ở chốn ta không thuộc về. Danh tiếng đời sau chẳng qua cũng chỉ là sự lãng quên.
Vậy thì, điều gì sẽ dẫn dắt con người? Chỉ một điều duy nhất thôi: triết học – tình yêu trí tuệ. Và triết học cốt tại điều này: Một người muốn bảo vệ được thiên tư nội tại hay ngọn lửa thiêng vốn có trong mình khỏi bạo lực và thương vong, trên hết là khỏi mọi nỗi đau đớn hay khoái lạc độc hại; thì không bao giờ được làm điều gì sai trái, phi mục đích hay đạo đức giả, bất kể người khác làm gì hay không làm gì; vui lòng đón nhận mọi điều xảy đến với mình, như thể nó xuất phát từ cùng nguồn cội mà chính bản thân mình cũng sinh ra, và trên hết, với sự khiêm nhường, vui vẻ bình thản, hãy sẵn sàng đón nhận cái chết, như thể nó chẳng là gì hơn một sự tan rã của các thành tố cấu tạo nên thân xác mà bất kỳ sinh vật nào rồi cũng sẽ trải qua.
Vậy nếu bản thân các yếu tố phải trải qua không gì hơn ngoài sự biến đổi liên miên từ dạng này sang dạng khác này, thì mọi tan rã hay biến đổi chẳng phải quá bình thường hay sao, vậy cớ gì lại phải sợ chúng? Đó chẳng phải thuận theo tự nhiên sao? Mà mọi điều do tự nhiên mà ra thì không thể xấu xa được.
(Marcus Aurelius, Meditations, 2.15)
Tự đánh giá: Thái độ của người Khắc kỷ với các nguyên tắc cốt lõi
Trước khi đọc chương này, hãy đánh giá mức độ đồng tình của bạn với các tuyên bố sau đây, sử dụng thang điểm từ 1 đến 5 dưới đây, sau đó đánh giá lại thái độ của bạn sau khi đã đọc và hiểu nội dung.
1. Hoàn toàn không đồng ý, 2. Không đồng ý, 3. Không đồng ý cũng không phản đối, 4. Đồng ý, 5. Hoàn toàn đồng ý
1. Mục tiêu của cuộc đời là “sống hòa hợp với Tự nhiên” bằng cách sẵn sàng chấp nhận mọi sự ngoài tầm kiểm soát của mình.
2. Chúng ta cũng cần sống hòa hợp với bản chất con người của mình bằng cách nỗ lực nuôi dưỡng lý trí, điều hướng trí tuệ và đức hạnh đến cảnh giới hoàn hảo.
3. Chúng ta cần sống hòa hợp với nhân loại bằng cách xem như tất cả mọi người về cơ bản đều có quan hệ với nhau trong chừng mực lý trí.
Dẫn nhập: Chủ nghĩa Khắc kỷ là gì?
Chủ nghĩa Khắc kỷ là gì? Vắn tắt thì đó là một trường phái triết học cổ đại có vai trò quan trọng, xuất hiện tại Athens vào khoảng năm 301 trước Công nguyên, người khởi xướng là Zeno, một thương gia Phoenicia đến từ thành phố Citium, Cyprus. Tuy nhiên, như chúng ta sẽ thấy, chủ nghĩa Khắc kỷ cũng được xem là một trong nhiều trường phái triết học cạnh tranh nhau ra đời từ cảm hứng về cuộc đời và tư tưởng của Socrates, triết gia lỗi lạc người Athens, người đã bị hành quyết trước đó một thế kỷ.
Ban đầu, trường phái này có tên là “thuyết Zeno” nhưng sau đó tên này bị bỏ đi. Đoán chừng có lẽ bởi người Khắc kỷ không xem những nhà sáng lập ra trường phái triết học của mình là những nhà thông thái toàn hảo và họ cũng không muốn triết thuyết của họ mang tính sùng bái cá nhân. Thay vào đó, trường phái này trở nên nổi tiếng với tên gọi “chủ nghĩa Khắc kỷ” (Stoicism) vì Zeno và các môn đồ của ông gặp gỡ, đàm đạo tại Stoa Poikilê, có nghĩa là “Hành lang bích họa”, nơi có một dãy cột nổi tiếng trang trí bằng cảnh các trận đánh trong lịch sử và trong truyền thuyết, nằm ở phía bắc agora, khu chợ cổ của Athens. Chính vì vậy, đôi khi chủ nghĩa Khắc kỷ hay trường phái Khắc kỷ được gọi là “Stoa”, hay thậm chí là triết học “Hành lang”.
Giống như người anh hùng Socrates của họ, nhưng không giống các trường phái triết học Athens chính thống khác, các triết gia Khắc kỷ thường gặp nhau tại nơi họp chợ, tại hành lang này, nơi ai cũng có thể đến nghe họ tranh luận. Tại nơi này, Zeno đã sôi nổi đi đi lại lại trong khi diễn thuyết, người ta nói rằng nhờ đó mà hàng hiên sạch bóng những kẻ luộm thuộm. Cách diễn đạt “triết học Khắc kỷ” do đó cũng được dùng để gợi tới điều gì đó như “triết học đường phố”, một kiểu triết học cho người bình dân, chứ không đóng kín trong các “tháp ngà” hàn lâm. Thực vậy, chủ nghĩa Khắc kỷ đã bị lạnh nhạt khá nhiều, mãi cho đến gần đây.
Trước thế kỷ hai mươi, những người quan tâm đến triết học sẽ thích đọc về thuyết Khắc kỷ. Tuy vậy, trong thế kỷ hai mươi, các triết gia không những chẳng còn hứng thú gì với triết học Khắc kỷ mà còn mất đi mối quan tâm nói chung với các triết thuyết về cuộc đời. Theo kinh nghiệm của riêng tôi, có thể phải dành ra cả thập niên để theo học các lớp triết học nếu chưa đọc về thuyết Khắc kỷ và chưa bỏ thời gian suy ngẫm các triết thuyết về cuộc đời, chưa kể đến thời gian để chấp nhận một triết thuyết .
(Irvine, 2009, tr. 222)
Dẫu vậy, chủ nghĩa Khắc kỷ đã trở nên phổ biến kể từ những năm 1970, phần nào do thành công của CBT.
Trong thế giới cổ đại, như chúng ta vừa thấy, từ thuở khai sinh và trong suốt gần năm thế kỷ sau đó, chủ nghĩa Khắc kỷ đã là một trong những trường phái triết học được đánh giá cao và có tầm ảnh hưởng nhất. Người ta đồn rằng người Athens vô cùng ngưỡng mộ Zeno, cấp cho ông các chìa khóa để ra vào thành và cho dựng một bức tượng đồng của ông, ngược hẳn với số phận của vị tiền bối Socrates. Tương truyền, họ cũng biểu quyết ra một sắc lệnh chính thức vinh danh ông như một tấm gương mẫu mực về “đạo đức và kỷ luật tự giác”, xây mộ và khắc vương miện vàng cho ông bằng ngân khố công. Tuyên bố công khai này ca ngợi nhiều năm cống hiến của ông cho triết học tại Athens và mô tả ông như một con người thánh thiện toàn diện, “đối với những thanh niên theo học, ông đề cao đức hạnh và sự kỷ luật tự giác, hướng họ đến những điều tốt đẹp nhất, bằng chính đức hạnh của mình, ông truyền cho tất cả một khuôn mẫu để noi theo, trong sự nhất quán hoàn hảo với lời giảng dạy của ông” (Lives, 7.10).
Tấm gương đức hạnh của Zeno vô cùng quan trọng đối với những người Khắc kỷ vì họ xem việc tích cực noi theo sự khôn ngoan và lương thiện là cách tốt nhất để thấm nhuần triết lý này. Ban đầu, ông tuân theo lối sống giản dị và khổ hạnh của các triết gia phái khuyển nho, vốn có tầm ảnh hưởng quan trọng đối với triết học Khắc kỷ. Hệ quả, danh tiếng về đức tính tự chủ (enkrateia) của ông rõ ràng đã trở thành điều ai cũng biết; đôi khi người ta còn được khen ngợi vì có tính kỷ luật tự giác như một Zeno. Các nhà khuyển nho nổi tiếng về khả năng chịu đựng gian khổ thể xác, còn bản thân Zeno thì được mô tả như là một triết gia được tôi luyện bằng nhiều yếu tố. Một nhà thơ cổ đại khuyết danh đã viết về Zeno như sau:
Cơn đông giá và mùa mưa không dứt
Cũng bất lực khi đến trước người:
Yếu nhược bởi nắng hè oi ả
hay nỗi đau nhức nhối để bẻ cong khung sắt kia
Người đứng đó tránh xa
Khỏi các cuộc vui, khỏi buổi hội hè:
Ngày đêm kiên gan, không mệt mỏi
Người miệt mài học triết lý cuộc đời.
(Lives, 7.27)
Tuy nhiên, khi Zeno từ bỏ lòng trung thành với phái khuyển nho cũng là lúc ông nhấn mạnh hơn vào việc cần phải bổ sung cho lối sống triết học cứng nhắc của họ, “Đạo đức học” của họ, cùng với việc nghiên cứu về “Vật lý học” và “Logic học”. Như chúng ta sẽ thấy, người theo phái khuyển nho cũng xem mọi thứ ngoại tại rốt cuộc đều “không quan trọng”, trong khi đó người Khắc kỷ chấp nhận một lập trường khôn khéo hơn cho phép họ coi trọng một số quy ước nhất định trong khi vẫn duy trì một ý thức tách biệt với chúng. Dẫu thế, các triết gia Khắc kỷ đặc biệt quan tâm đến việc áp dụng triết lý này vào những thách thức trong cuộc sống hằng ngày, đặc biệt là với câu hỏi kinh điển của Socrates: Làm thế nào người ta có được một sống tốt đẹp? Họ nhìn nhận bản thân như những chiến binh thực thụ của trí óc và có lẽ sẽ chỉ trích triết học hàn lâm hiện đại đơn thuần chỉ là “một thứ ngụy biện” thay vì là nghệ thuật sống đích thực.
Tư tưởng chính: Triết học là một lối sống
Bạn có thể ngạc nhiên khi nhận thấy triết học cổ đại lại mang tính thực tiễn rõ rệt như vậy. Nó thường nhấn mạnh việc thực hành các bài tập tâm lý hoặc áp dụng một phong cách sống đòi hỏi khắt khe, về phương diện nào đó báo trước cách thức tu tập của Thiên Chúa giáo. Một số triết gia, nhất là những người phái khuyển nho, thậm chí còn khước từ tranh luận lý thuyết hay nghiên cứu các vấn đề trừu tượng đi lệch khỏi mục đích thật sự là trau dồi kiến thức thực tiễn và tính tự chủ.
Người phái khuyển nho chế giễu Plato và môn đệ của ông vì phong cách triết học quá “hàn lâm”. Họ tin rằng sự đói nghèo tự nguyện và sự chịu đựng gian khổ là những người thầy triết học tốt hơn mọi sách vở và giảng giải. Zeno ban đầu là một người khuyển nho, dù ông cũng nghiên cứu Logic học và Vật lý học. Như vậy, ở đây có thể xem là triết học Khắc kỷ nằm đâu đó giữa triết học hàn lâm và trường phái khuyển nho. Các ngành nghiên cứu lý thuyết, như Vật lý và Logic học, cũng có giá trị nhưng chỉ chừng nào chúng còn đóng góp cho mục tiêu là sống khôn ngoan.
Thật vậy, các triết gia cổ đại, nhất là những người theo phái khuyển nho, rất dễ nhận diện qua cách ăn mặc và hành vi của họ. Những người khuyển nho đi ăn xin hoặc sống bằng thức ăn đơn giản và rẻ tiền như đậu lupin hoặc xúp đậu lăng, và chỉ uống nước. Họ chỉ mặc thứ áo choàng rẻ tiền làm bằng sợi len thô, không nhuộm, mùa đông họ sẽ mặc hai lớp áo để giữ ấm. Họ mang theo mọi thứ trong một tay nải nhỏ, cầm theo một cây gậy, ngả lưng trên những tấm chiếu rơm giản dị, thường xuyên ngủ tạm bợ ở những khu nhà công cộng. Một số môn đệ của Zeno coi lối sống khuyển nho là “con đường tắt dẫn tới đức hạnh”, dù những người Khắc kỷ sau này đặc trưng ít khổ hạnh hơn. Musonius nói với học trò của mình là chừng nào họ còn có những đức hạnh nội tại của một triết gia, thì “ không cần mặc một tấm áo choàng cũ kỹ, không cần đi ra ngoài mà không mặc áo, không cần tóc tai không cắt hay cư xử lập dị”, như những người khuyển nho (Lectures, 16). Tuy nhiên, những lần khác ông lại khuyên học trò ra ngoài nên đi chân đất và không mặc áo. Điều này cho thấy người Khắc kỷ coi cách phục trang của người khuyển nho là điềutùy chọn trong cách sống của triết gia.
Từ những trường phái triết học khác, các triết gia Khắc kỷ đã rút ra một loạt các bài tập thực hành tâm lý phong phú, bao gồm cả các kỹ thuật thiền quán. Những kỹ thuật này được khai thác chi tiết trong nhiều cuốn sách của học giả hiện đại Pierre Hadot, như cuốn Philosophy as a Way of Life (1995). Chúng ta sẽ đặc biệt tập trung vào khía cạnh thực hành như một “nghệ thuật sống” của thuyết Khắc kỷ, mà theo truyền thống được coi là điều hứa hẹn mang đến Hạnh phúc và sự viên mãn tối thượng.
Thực hành: Đi sâu…
Hãy bắt đầu bằng việc suy ngẫm về bản chất của cái tốt. Hãy suy nghĩ các câu hỏi có quan hệ tương quan dưới đây cho đến khi suy nghĩ khiến bạn đau đầu:
1. Về cơ bản, đối với con người, điều gì đó “tốt” có nghĩa là gì?
2. Những phẩm chất nào khiến một người trở thành người tốt? (So sánh: Những phẩm chất nào khiến một con ngựa trở thành con ngựa tốt?)
3. Những phẩm chất nào khiến cho cuộc sống của ai đó trở thành một cuộc sống tốt?
4. Việc làm một người tốt có thể đóng góp gì cho việc có được một cuộc sống tốt không? (Các triết gia Khắc kỷ và hầu hết các triết gia Hy Lạp, La Mã khác đều nhất trí rằng có)
5. Làm một người tốt có đủ để có được một cuộc sống tốt không, ngay cả khi đối mặt với “các biến cố” ngoại tại, chẳng hạn bị người khác hành hạ? (Cuộc sống của Socrates có tồi tệ hơn bởi ông nghèo và bị hành hạ không? Cuộc sống của ông liệu có tốt hơn nếu ông giàu và có một cuộc sống dễ chịu, thoải mái hơn không?)
Chúng ta có thể gọi điểm cuối này là “sự kiên quyết của chủ nghĩa Khắc kỷ”. Họ khác biệt với các trường phái triết học khác qua việc khẳng định rằng là một người tốt, có đức hạnh và danh dự, là cái tốt chân thực duy nhất.
Trong bất kỳ trường hợp nào, đây là một số trong những vấn đề cơ bản của Đạo đức học Khắc kỷ. Thật ra, chúng là những vấn đề cốt yếu của triết học cổ đại nói chung. Vậy nên, đừng lo nếu bạn chưa có câu trả lời dứt khoát. Người ta tranh cãi về chúng đã gần 2.500 năm nay rồi. Một số người sẽ nói rằng quan trọng là ít nhất hãy cứ trăn trở với những câu hỏi ngay cả khi câu trả lời đôi lúc cứ lẩn tránh chúng ta. Các triết gia Khắc kỷ tin rằng chúng ta có thể thấu hiểu các vấn đề này ở mức độ nào đó, tuy nhiên phải qua nghiên cứu và đào tạo nghiêm túc.
Điển cứu: Tính tự chủ của Socrates
Chúng ta thường nghĩ về Socrates như một triết gia thông thái, nhưng bạn có biết ông cũng là một anh hùng được tặng thưởng huân chương quân đội, được xem là tấm gương mẫu mực về lòng can đảm và kỷ luật trong thời cổ đại? Zeno dường như đã thay đổi triết lý của mình sau khi đọc câu chuyện của Xenophon, vị tướng nổi tiếng người Athens, kể về người bạn Socrates của ông. Theo Xenophon, Socrates là một người “có tính tự chủ cao nhất” đối với những đòi hỏi thể chất cũng như có khả năng chịu đựng gian khổ kể cả trong các điều kiện thời tiết khắc nghiệt nhất, tự rèn luyện để duy trì những nhu cầu khiêm tốn nhất và hài lòng với những tài sản vật chất cơ bản nhất. Mặc dù bản thân có tính cách khá cứng cỏi, nhưng Xenophon vẫn rất ấn tượng với tính cách và tính tự chủ mạnh mẽ của Socrates, vốn rất gần với các đức tính và thực hành mà sau này đã trở thành trọng tâm của cả chủ nghĩa khuyển nho lẫn chủ nghĩa Khắc kỷ.
Người ta kể rằng Socrates luyện tập một cách nghiêm khắc với cả trí óc lẫn thể chất qua lối sống triết học của mình. Nghịch lý làm sao, ông lập luận rằng “trên mọi thứ, chính đức tính kỷ luật tạo ra niềm vui”. Nhờ tập luyện kiềm chế, ta học được cách chỉ ăn khi thật sự đói, uống khi khát, vân vân. Cảm giác đói khát chính là một thứ “gia vị” tự nhiên của cuộc sống và là bí quyết khiến cho một mẩu bánh mì khô và một cốc nước lọc trông cũng ngon lành. Sự tự kiềm chế lành mạnh hơn và thật ra nó dẫn tới nhiều niềm vui hơn là tự nuông chiều bản thân, đặc biệt là đối với các nguồn vui thông thường nhất trong cuộc sống thường nhật. Ngược lại, Socrates nói rằng bất kỳ cái gì ép ta ăn khi không đói, uống khi không khát sẽ “làm hỏng dạ dày, đầu óc và tính cách”. Hy vọng điều này được coi là lẽ thường hơn là sự tự hành xác, mặc dù nó đi ngược lại thái độ hiện đại về đồ ăn thức uống – chúng ta không ngừng bị tấn công bởi quảng cáo về những thứ đồ hấp dẫn và tiện dụng, nhưng thường là không lành mạnh.
Socrates cũng dạy rằng chúng ta nên giữ thân thể gọn gàng bằng cách luyện tập thể chất thích hợp. Ông nói cơ thể của chúng ta được sử dụng trong mọi hoạt động, kể cả tư duy, nên nếu cơ thể ốm yếu thì không thể suy nghĩ mạch lạc. Sáng sớm, ông khiêu vũ một mình như một cách tập thể dục vì cách này luyện tập được toàn thân thay vì chỉ một số bộ phận cơ thể – thói quen mà một số bạn bè của ông coi là có chút lập dị. Dù vậy, về tổng thể thì chúng ta được kể rằng Socrates tin là mọi người nên chăm sóc sức khỏe của mình bằng cách học mọi điều có thể học về nó, mỗi ngày tự tìm hiểu và học từ các chuyên gia, quan sát xem thức ăn đồ uống nào và bài tập gì thật sự tốt cho mình. Bởi vì mỗi người mỗi khác, nên ông cho rằng lý tưởng nhất là mỗi người nên là thầy thuốc của riêng mình, học từ kinh nghiệm xem cái gì là lành mạnh cho bản thân. Xenophon cũng tin rằng nếu lười luyện tập thể chất, cơ thể chúng ta sẽ trở nên suy yếu; những người không rèn luyện tính cách bằng cách tự tạo ra tính kỷ luật, thì tinh thần sẽ trở nên yếu đuối. Những người Khắc kỷ đồng tình với điều này, và chúng ta cũng sẽ thấy họ nhấn mạnh việc luyện tập đạo đức và tâm lý trong triết thuyết của mình thế nào.
Mục tiêu của cuộc sống: Sống hòa hợp với Tự nhiên
Vậy thì người Khắc kỷ thật sự tin vào điều gì? Đó là chủ điểm chính của cuốn sách này. Mục đích sau cùng của cuộc sống mà hầu hết các trường phái triết học cổ đại đều đồng thuận là Hạnh phúc, hay eudaimonia trong tiếng Latinh. Chúng ta sẽ tìm hiểu chi tiết khái niệm Hạnh phúc theo chủ nghĩa Khắc kỷ trong các chương sau. Tuy nhiên, Zeno ban đầu đã viết, “Hạnh phúc là cuộc sống trôi chảy suôn sẻ” (euroia biou), trong đó tâm trí thích nghi với mọi hoàn cảnh xảy đến. Vậy người Khắc kỷ tin rằng chúng ta có thể đạt được sự trôi chảy suôn sẻ và thái độ Hạnh phúc với cuộc sống như thế nào?
Zeno nỗ lực diễn tả triết lý của mình trong những tuyên bố nổi tiếng là ngắn gọn và các lập luận kiểu tam đoạn luận ngắn, mà sau này môn đệ của ông phải trau chuốt lại. Định nghĩa nổi tiếng nhất về mục đích cuộc đời của chủ nghĩa Khắc kỷ, được cho là bắt nguồn từ Zeno hoặc Chrysippus, đơn giản là “sống hòa hợp với Tự nhiên”, có thể thấy nhiều biến thể câu này trong các tác phẩm Khắc kỷ. Seneca viết: “Phương châm của chúng ta, như mọi người đều biết, là sống thuận theo Tự nhiên” (Letters, 5). Thực vậy, người ta cho rằng Zeno đã viết một cuốn sách có nhan đề On the life according to Nature (tạm dịch: Về cuộc sống hòa hợp với Tự nhiên). Do vậy, điều này trở thành giáo lý trung tâm của chủ nghĩa Khắc kỷ, đôi khi được viết ngắn gọn là “tuân theo Tự nhiên”. Tuy nhiên, bốn thế kỷ sau thời Zeno, ta lại thấy bậc thầy Khắc kỷ nổi tiếng Epictetus nói với học trò của mình rằng mặc dù những học thuyết chính của chủ nghĩa Khắc kỷ ban đầu thường được tóm lược thành những câu châm ngôn ngắn, nhưng khi ta cố giải nghĩa chúng thì chắc chắn sẽ phát sinh những câu hỏi, chẳng hạn như “Tự nhiên trong cá nhân là gì và Tự nhiên trong vũ trụ là gì?”, và thế là việc lý giải sẽ trở nên dài dòng hơn.
Vậy thì “sống hòa hợp với Tự nhiên” là gì? Xuyên suốt cuốn sách này chúng ta sẽ làm rõ khẩu hiệu khó hiểu này. Tuy nhiên, để bắt đầu, cũng cần giải thích rằng người Khắc kỷ được cho là cũng nói rằng mục tiêu của cuộc đời là “sống phù hợp với đức hạnh”, hay sự ưu tú của con người. Nói cách khác, họ tin rằng tất cả chúng ta sinh ra có trách nhiệm trở nên ưu tú bằng cách làm cho bản tính của chúng ta trở nên hoàn hảo. Điều này có nghĩa là hoàn thiện công việc chưa hoàn tất của Tự Nhiên bằng cách tự nguyện vận dụng tối đa năng lực của mình: lý trí. Quan trọng là, theo các nhà Khắc kỷ, người trưởng thành về cơ bản đều là những những sinh vật lý tính, và vì vậy “đối với các sinh vật có lý trí, cùng một hành động phải vừa tuân theo Tự nhiên vừa tuân theo lý trí” (Meditations, 7.11). Vậy tuân theo Tự nhiên không có nghĩa là hành động như một “con vật ngờ nghệch”, mà phải hoàn thiện tiềm năng tự nhiên của chúng ta với tư cách con người. Thật vậy, Chrysippus được cho là đã nói rằng:
Vậy thì, tôi phải bắt đầu từ đâu? Và nếu từ bỏ tự nhiên, tôi sẽ phải lấy gì làm nguyên tắc để hành động cho phù hợp và lấy gì nguyên liệu thô cho đức hạnh, và tuân theo tự nhiên là gì?
(Plutarch, On Common Conceptions, 1069e).
Do vậy, các nhà Khắc kỷ nhấn mạnh sự cần thiết phải xác định rõ thế nào là một người hoàn hảo, những người mà cuộc sống của họ vừa đáng kính trọng vừa có ích cho họ và cho người khác. Họ hình dung người này với hình ảnh một người đã đạt được “đức hạnh” và trí tuệ thực tiễn toàn vẹn. Khi nói “đức hạnh”, thật ra ý họ là “ưu tú” hay phát triển mạnh mẽ về bản chất con người lý trí của chúng ta, hơn là những gì ngày nay chúng ta vẫn nghĩ về các hành vi “đức hạnh”. Như chúng ta sẽ thấy, các nhà Khắc kỷ lập luận rằng bản chất con người về cơ bản là có tính lý trí và xã hội, vì vậy trí tuệ và công lý là những đỉnh cao đích thực của thành tựu con người.
Mục tiêu cuộc sống của mỗi con người là làm sao để chúng ta tự nguyện tiến bộ theo hướng đó. Vì vậy, Khắc kỷ là một triết thuyết tập trung vào việc dạy chúng ta làm thế nào để trở nên ưu tú, làm thế nào để trở thành những con người tốt hơn và có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Bởi vậy nó cũng có vẻ hơi giống một tôn giáo, mặc dù chủ yếu dựa trên lý trí hơn là niềm tin hay truyền thống. Đôi khi người ta so sánh nó với Phật giáo cũng vì lý do đó. Ở một vài phương diện, một phần sức lôi cuốn của chủ nghĩa Khắc kỷ đối với nhiều người ngày nay chính là nó cung cấp một sự tương đồng kiểu phương Tây của “lối sống” mang tính triết học vốn được tìm thấy trong nhiều tôn giáo phương Đông.
Nó dựa trên tiền đề rằng bản chất cơ bản của chúng ta là lý tính, đức hạnh cao quý nhất là sự khôn ngoan và điều xấu xa nhất là sự dại dột hay ngu dốt. Con người được trời phú cho sự hiểu biết có ý thức, chúng ta được Tự nhiên mời làm người quan sát và diễn giải vũ trụ. Và các nhà Khắc kỷ tin rằng nhiệm vụ cơ bản của chúng ta trong cuộc đời là phải làm điều đó thật tốt, bằng cách thu thập một cách tốt nhất các kiến thức và hiểu rõ những điều quan trọng nhất trong cuộc sống. Tóm lại là đạt được sự thông tuệ về nghệ thuật sống, hay nói một cách hoa mỹ là “khôn ngoan”. Thật ra, nghĩa đen của từ “triết học” trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “tình yêu trí tuệ”.
Do vậy, mục tiêu cuộc sống cũng là mục tiêu của triết học: yêu mến và có được trí tuệ, đặc biệt trong cách chúng ta thật sự sống cuộc đời của mình, nên ta có thể gọi đó là trí tuệ đạo đức hay trí tuệ thực tiễn. Trên thực tế, trí tuệ thực tiễn – những kiến thức cho biết đâu là tốt đâu là xấu, được các triết gia Khắc kỷ coi là cơ sở cho mọi hình thức ưu tú khác của con người – được bao gồm trong bốn đức hạnh chính yếu là trí tuệ, công bằng, can đảm và tiết chế. Như chúng ta sẽ thấy các nhà Khắc kỷ tin rằng các đức hạnh vừa là các kỹ năng thực tiễn vừa là các dạng kiến thức, bao gồm nắm rõ được đâu là tốt đâu là xấu trong các hoàn cảnh khác nhau. Thật vậy, đối với các nhà Khắc kỷ, những đức hạnh khác về cơ bản đều nằm ở chỗ áp dụng trí tuệ thực tiễn vào các khía cạnh khác nhau của cuộc sống, chẳng hạn như hành động, cảm xúc và các khát khao của chúng ta.
Trường phái Epictetus tạo nên chủ đề trung tâm của toàn bộ triết lý, là học thuyết nói rằng chúng ta phải phân biệt rất cẩn thận giữa cái “tùy thuộc vào chúng ta” hay cái nằm trong tầm khả năng của chúng ta, với cái ngoài tầm kiểm soát. Bởi vì cái tốt chính yếu trong đời chắc chắn nằm trong phạm vi kiểm soát của chúng ta, trong hành động và phán xét của chúng ta, còn mọi thứ khác về cơ bản được xếp vào loại “vô thưởng vô phạt” đối với việc có được một cuộc đời tốt đẹp.
Kết luận triết học cho rằng cái tốt chính yếu, thứ quan trọng nhất trong cuộc sống, nhất thiết phải “tùy thuộc vào chúng ta” và nằm trong tầm kiểm soát trực tiếp của chúng ta chính là khía cạnh hấp dẫn nhất và khó nhằn nhất của chủ nghĩa Khắc kỷ. Nó khiến chúng ta phải hoàn toàn và tuyệt đối chịu trách nhiệm về điều quan trọng duy nhất trong cuộc sống, không cho ta có cớ để không thịnh vượng và không đạt đến cuộc đời tốt đẹp nhất, bởi điều đó hoàn toàn nằm trong tầm tay ta. Làm sống lại sự phân biệt cơ bản giữa cái “tùy thuộc vào ta” và cái nằm ngoài tầm kiểm soát của ta được xem là sự thực hành “tối cao” của chủ nghĩa Khắc kỷ. Chúng ta sẽ trở lại điều này nhiều lần trong các chương sau!
Tư tưởng chính: Sống hòa hợp với Tự nhiên
Chủ nghĩa Khắc kỷ định nghĩa mục tiêu chính yếu của cuộc sống là “sống hòa hợp với Tự nhiên”, hoặc thuận theo Tự nhiên. Từ telos, có nghĩa là mục tiêu, đôi khi được dịch là “mục đích” hay “đích đến”, có thể coi là gần nghĩa với cái chúng ta gọi là “ý nghĩa cuộc sống”. Thế nhưng điều này không liên quan đến việc chuyển đến sống ở một vùng quê hay ôm hôn một cái cây. Theo Chrysippus, cách sống của người Khắc kỷ được hiểu là sống hòa hợp với Tự nhiên ở hai cấp độ. Một mặt, người Khắc kỷ nỗ lực sống theo bản chất người của chính mình, như những sinh vật vốn có lý trí và tính xã hội, bằng cách trở nên xuất sắc về trí tuệ, công bằng và đạt đến đức tính tự chủ. Người Khắc kỷ cho rằng Tự nhiên có mục tiêu và rằng năng lực lý trí của chúng ta cho thấy khả năng hoàn thành hoặc hoàn thiện mục tiêu đó, cũng tức là có được trí tuệ. Mặt khác, thuận theo Tự nhiên cũng có nghĩa là chấp nhận vị thế của chúng ta như một phần của cái toàn thể, bản chất của vũ trụ, đón nhận số phận của mình vì nó nằm ngoài tầm kiểm soát của ta.
Tuy nhiên, hai nhiệm vụ này bổ sung cho nhau vì chúng ta cần đức hạnh để có thể vượt lên nghịch cảnh và đón nhận bất cứ điều gì cuộc sống mang lại. Sự “hứa hẹn” của thuyết Khắc kỷ nằm ở chỗ: Khi sống hòa hợp với Tự nhiên, hoặc sống một cách đức hạnh và chấp nhận số phận của mình, chúng ta sẽ đạt được eudaimonia, nghĩa là sự toàn vẹn cá nhân, viên mãn và Hạnh phúc. Chúng ta sẽ đi vào ý nghĩa của điều này sau.
Thực hành: Ăn như một người Khắc kỷ
Trong tuần tới, hãy thử ăn theo một chế độ lành mạnh. Tuy nhiên, có một sự “lắt léo” kiểu Khắc kỷ quan trọng trong việc này. Khi bạn cố bám theo kế hoạch của mình, thay vì khích lệ bản thân bằng cách nghĩ về một kết quả mong muốn nào đó, như giảm cân hoặc tăng cường sức khỏe chẳng hạn, thì ta sẽ tập trung vào giá trị vốn có của việc phát triển tính kỷ luật tự giác. Không có một chế độ ăn uống nào đảm bảo được việc giảm cân hay cải thiện sức khỏe của bạn, điều đó không trực tiếp nằm trong tầm kiểm soát của bạn, mà phần nào do số phận nắm giữ. Nó cũng là một điều gì đó xa xôi trong tương lai, một “hy vọng”, một hệ quả do hành động của bạn, chứ không phải một thứ xảy ra tức thì. Ngược lại, bản thân sự tự kỷ luật khôn ngoan đã là tốt đẹp và đáng khen, dù kết quả sau này ra sao đi nữa.
Bạn không cần bắt chước chế độ ăn uống của các nhà Khắc kỷ hay khuyển nho ngày xưa. Chỉ cần thử thách bản thân tuân theo một chế độ ăn uống lành mạnh hơn trong một tuần hay cỡ đó, theo cách bình thường của bạn. Tuy nhiên, theo ghi chép, người Khắc kỷ tuân theo lời khuyên của Socrates rằng chúng ta chỉ nên “ăn để sống chứ không phải sống để ăn”. Trong bài giảng về thức ăn, Mosonius Rufus cho rằng làm chủ được cơn thèm ăn chính là nền tảng của việc rèn luyện tính tự kiềm chế. Ông nói người Khắc kỷ chỉ nên uống nước lã và tránh các bữa ăn quá thịnh soạn, tốt hơn nên ăn các món chay bổ dưỡng nhưng rẻ tiền, dễ kiếm, dễ nấu. Ví dụ như sữa, pho mát, mật ong, rau, trái cây,… Ông cũng nói rằng người Khắc kỷ nên ăn chậm và chú tâm vào việc ăn, rèn luyện sự điều độ và kiềm chế. Các độc giả hiện đại có thể thử uống nước lọc và kiêng các thức uống khác trong một tuần, xem đó là một thử thách bước đầu. Một số người có lẽ sẽ phù hợp với chế độ nhịn ăn cách quãng.
Hãy nhớ, mục tiêu là cải thiện tính tự kỷ luật của bạn và liên quan đến “đức hạnh” hay sức mạnh của tính cách, chứ không phải là để giảm cân hay tăng cường sức khỏe thể chất. Mặc dù nếu bạn đang rèn luyện tính tự kỷ luật, thì thực hiện nó theo một cách thức lành mạnh cũng là hợp lý. Người Khắc kỷ coi sức khỏe thể chất và cơ thể gọn gàng là điều gì đó “được ưa thích hơn”, nhưng nếu nói về mục tiêu cuộc sống thì điều đó rốt cuộc được xem là không thích đáng hay “không quan trọng”. Nuôi dưỡng một tính cách lành mạnh chắc chắn quan trọng hơn nuôi dưỡng một cơ thể khỏe mạnh. Tuy vậy, chúng ta phải phát triển tính tự kỷ luật một cách đúng đắn bằng cách cố gắng làm những việc lành mạnh và phù hợp, bất kể chúng có diễn ra theo cách chúng ta mong muốn hay không.
Ghi nhớ: Bản chất con người có mục tiêu không?
Một số độc giả hiện đại khó mà chấp nhận quan niệm Khắc kỷ cho rằng loài người có một mục tiêu tự nhiên. Tuy vậy, phàn nàn vì cảm thấy bị xúc phạm có ích gì, trừ phi ta nghĩ ra một vị thế nào đó đáng mong muốn hơn? Như Seneca nói: “Trong cuộc sống, điều gì hòa hợp với Tự nhiên đều thật may mắn, và chúng ta biết rõ cái gì là hòa hợp với Tự nhiên, cũng như liệu một thứ gì đó có bị tổn hại hay không” (Letters, 124). Tuy nhiên, khi nói về việc “bị tổn hại”, đa số chúng ta đều cho rằng mục tiêu bị tổn hại chính là để có được niềm vui, sự tự bảo toàn hay những thứ tốt đẹp khác bên ngoài. Đối với người Khắc kỷ, những điều này là “không quan trọng” và sự tổn hại thật sự chỉ liên quan tới năng lực kiểm soát (ruling faculty), đến đầu óc chúng ta, cái có thể bị thương tổn một khi nghiêng về điều xấu, chứ không còn gì khác nữa. Hãy hỏi bản thân: Thật ra “bị tổn hại” có nghĩa là gì?
Mục tiêu hai phần của cuộc sống
Sự khôn ngoan của người Khắc kỷ nằm ở chỗ biết phân biệt cái tốt và xấu, biết được điều gì nằm trong tầm kiểm soát và điều gì không kiểm soát được. Câu nói của Delphic Oracle xứ Apollo đã tạo cảm hứng cho Socrates – “Hãy biết mình” – được người Khắc kỷ diễn dịch thành một huấn thị để liên tục giám sát và kiểm tra tâm trí mình. Chúng ta thật sự “biết mình” khi có thể tách biệt giữa cái duy nhất thuộc về con người với những cái ngoại tại hay là điểm chung với các loài vật khác. Biết mình có nghĩa là phân biệt được những điều nằm trong tầm kiểm soát và những điều ta không kiểm soát được. Theo người Khắc kỷ, ngẫm nghĩ và hiểu được sự tồn tại của bản thân là một nỗ lực liên tục, đòi hỏi một hình thức “chánh niệm”. Chánh niệm là một khái niệm thường liên quan tới thiền trong Phật giáo nhưng cũng bắt nguồn từ triết học Hy – La cổ. Cũng như sự suy ngẫm mang tính triết học về chính bản chất sự tồn tại của con người, chánh niệm về sự phân biệt giữa cái trong khả năng và cái nằm ngoài khả năng của mình là một trong những phương thuốc chính chữa trị sự đau đớn cảm xúc. Điều này được thể hiện rất súc tích trong “Lời nguyện an tĩnh”, một thể thức nổi tiếng đầu thế kỷ 20, được Alcoholics Anonymous và nhiều nhà trị liệu hiện đại khác sử dụng:
Lạy Chúa, xin ban cho con An tĩnh để chấp nhận những điều con không thể thay đổi, Can đảm để thay đổi những điều con có thể, và Khôn ngoan để biết sự khác biệt.
Điều này thường được diễn giải đơn giản nghĩa là chúng ta nên phân biệt giữa các tình huống và khía cạnh của thế giới bên ngoài mà chúng ta có thể thay đổi với những điều chúng ta không thể thay đổi. Tuy nhiên, đối với người Khắc kỷ, sự khôn ngoan nằm ở chỗ biết được điều duy nhất ta có thể hoàn toàn kiểm soát là những ý muốn của chúng ta, hay sự phán xét và hành động tự nguyện của ta.
Chrysippus có vẻ là người Khắc kỷ đầu tiên nói rõ rằng mục tiêu của cuộc đời cần được hiểu là một nhiệm vụ hai phần: “vừa sống theo bản chất của chính mình, vừa sống thuận theo Tự nhiên toàn thể” (Lives, 7.88). Sự phân chia này được thấy xuất hiện trong hầu hết các tác phẩm Khắc kỷ, ngay từ Meditations của Marcus Aurelius (6.58; 12.11):
Bản chất nội tại của con người: Với tư cách một con người có lý trí, không ai có thể ngăn cản bạn sống thuận theo bản chất nội tại của mình, nghĩa là sống khôn ngoan và đức hạnh.
Tự nhiên của thế giới: Chẳng có gì xảy đến với bạn từ bên ngoài mà trái với quy luật Tự nhiên. Người khôn ngoan chấp nhận điều này là số phận đã định, hay nói theo ngôn ngữ thần học, đó là ý chí của Zeus.
Trong thuyết Khắc kỷ của Epictetus cuối thời La Mã, đây có vẻ đã trở thành sự phân biệt căn bản giữa cái có thể kiểm soát và cái không thể kiểm soát. Tuy nhiên, người Khắc kỷ đôi khi cũng có vẻ nghiêng theo hướng chia ba phần, trong đó, đối với các sự kiện ngoại tại họ phân biệt thêm giữa quy luật của Tự nhiên và hành động của những người khác. Do vậy, ta có thể coi “sống hòa hợp với Tự nhiên” là sống hài hòa giữa ba chiều kích quan trọng của cuộc đời:
Bản ngã: Hòa hợp với bản chất của chính mình, với tư cách là những sinh vật có lý trí, điều này đòi hỏi ta phải trau dồi lý trí và đức hạnh hoàn hảo, cũng như hoàn thiện bản chất của mình.
Thế giới: Hòa hợp với Tự nhiên như một thể thống nhất nghĩa là chấp nhận số phận, hiểu rằng nó nằm ngoài khả năng kiểm soát của chúng ta, như thể nó tất yếu phải xảy ra như vậy, thay vì than vãn và chống chọi một cách vô ích với những sự kiện đó.
Nhân loại: Hòa hợp xã hội hay còn gọi là “hòa thuận” với người khác, coi tất cả những thực thể có lý trí như họ hàng thân thuộc và mở rộng lòng yêu thương tự nhiên tới người khác trong một sự “nhân ái” chân thành hướng đến toàn thể nhân loại.
Thật hay khi thấy điều này liên quan theo cách nào đó với ba phần trong thuyết Khắc kỷ mà chúng ta sẽ tìm hiểu ngay đây – sự kết nối sự hài hòa bản ngã bên trong ta, thế giới và nhân loại đến lần lượt các lĩnh vực Logic học, Vật lý học và Đạo đức học Khắc kỷ.
Tư tưởng chính:
Thuyết Khắc kỷ là triết học vĩnh cửu
Học giả người Pháp Pierre Hadot kết luận trong bài phân tích uyên bác của mình về cuốn Meditations của Marcus Aurelius rằng chủ nghĩa Khắc kỷ thể hiện rõ ràng một thái độ triết học “phổ quát” và “vĩnh cửu”, nổi lên dưới những hình thái khác nhau trên khắp thế giới trong suốt chiều dài lịch sử (Hadot, 1998, tr. 311-312). Như nhiều người khác, ông lưu ý các điểm tương tự giữa thuyết Khắc kỷ với một số triết lý phương Đông. Về quan điểm này, truyền thống Khắc kỷ do Zeno khởi xướng và tiếp nối tới thời Marcus Aurelius, hình thành nên chỉ một trong số ít các thái độ triết học nguyên mẫu mà chúng ta tìm thấy trong lịch sử loài người. Hadot tổng hợp bốn thái độ chính trong phần tinh túy của “triết lý vĩnh cửu” có đặc điểm giống thuyết Khắc kỷ, mà ông gọi là “chủ nghĩa Khắc kỷ bất diệt” này như sau:
• Nhận thức tinh thần rằng con người không phải là những mảnh nhỏ rời rạc, những sinh vật biệt lập, mà là một phần của tổng thể to lớn bao gồm toàn bộ nhân loại và vũ trụ.
• Về cơ bản, cảm giác an tĩnh, tự do và không thể tổn thương đến từ thái độ chấp nhận rằng không có cái ác nào ngoài cái ác về đạo đức và rằng điều duy nhất quan trọng trong cuộc sống là sự toàn vẹn về đạo đức hay cái mà người Khắc kỷ gọi là “danh dự” và “đức hạnh”.
• Lòng tin vào giá trị tuyệt đối của con người mà Hadot đã minh họa bằng câu nói của Seneca: “Con người là một thực thể thiêng liêng đối với con người” – một ý thức tương thân với toàn thể nhân loại, khiến cho hạnh phúc của loài người trở thành kết quả được mong đợi nhất của mọi hành động đạo đức.
• Rèn luyện “tập trung vào khoảnh khắc thực tại” dưới góc độ triết học và tâm lý học, bao gồm sống như thể đang nhìn thế giới lần đầu và lần cuối, trong khi nhận thức rằng, đối với người khôn ngoan, mỗi khoảnh khắc đều kết nối chúng ta với toàn bộ không gian và thời gian.
Hầu hết mọi người đều bị thuyết Khắc kỷ thu hút mà không cần đánh vật với những thứ phức tạp trong hệ thống văn bản triết học mênh mông liên quan đến nó. Đúng hơn là, họ nhận thấy có điều gì đó trong các trích dẫn Khắc kỷ rời rạc có sự cộng hưởng với họ, vì họ cảm thấy nó thể hiện những thái độ triết học nền tảng cơ bản hơn, một trong nhiều triết thuyết vĩnh cửu về con người.
Ba chủ đề lý thuyết của triết học Khắc kỷ
Như đề cập ở trên, toàn bộ triết học Khắc kỷ được chia thành ba “chủ đề”: Vật lý học, Đạo đức học và Logic học. Người ta cho rằng chính Zeno đã đưa ra cách phân chia này trong cuốn Exposition of Doctrines (tạm dịch: Sự phơi bày của các học thuyết). Như thường lệ, cũng nên hiểu về cách dịch truyền thống các thuật ngữ này vì bạn sẽ gặp các chúng trong các cuốn sách về chủ nghĩa Khắc kỷ. Tuy nhiên, cũng cần nói rằng chúng là những thuật ngữ hơi dễ hiểu lầm.
Vật lý học (phusikê) đôi khi được gọi là “triết học tự nhiên”, nhưng nó chủ yếu liên quan tới siêu hình học và thần học cũng như khoa học tự nhiên cổ đại. Người Khắc kỷ là những người theo thuyết phiếm thần và thuyết tất định, cho rằng “Tự nhiên” toàn thể, “Số mệnh”, “Zeus” hay “Chúa Trời” là đồng nghĩa. Khía cạnh này của thuyết Khắc kỷ chịu ảnh hưởng của Heraclitus1 và có lẽ là một số triết gia về Tự nhiên khác thời kỳ tiền Socrates, thuộc truyền thống “Ionian”.
1 Heraclitus (khoảng 535 – 475 TCN) là một triết gia Hy Lạp cổ đại thời tiền Socrates. Ông là nhà triết học duy vật và được coi là ông tổ của phép biện chứng. Ông là người đưa ra luận điểm nổi tiếng “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông”.
Đạo đức học (êthikê) nghiên cứu về bản chất của cái tốt, đức hạnh và mục tiêu cuộc sống (và cả chính trị, ở một mức độ nào đó), nhưng cũng bao hàm nghiên cứu về chứng rối loạn cảm xúc (những “Cảm xúc2” phi lý) và sự cải thiện tính cách con người (êthos) theo một cách thức giống với phương pháp trị liệu tâm lý và phương pháp tu thân thời hiện đại. Phần này của chủ nghĩa Khắc kỷ có lẽ chịu ảnh hưởng lớn nhất từ các quan điểm đạo đức của Socrates và những người theo chủ nghĩa khuyển nho.
2 Lưu ý về dịch thuật: Nguyên văn của từ này là passion. Passion là một từ tiếng Anh (nghĩa phổ thông là sự say mê, cảm xúc mạnh mẽ…) có nguồn gốc từ tiếng Latinh – passio (có nghĩa là chịu đựng, trải qua một cách khổ sở). Passio cũng được dùng để dịch từ pathos trong tiếng Hy Lạp (có nghĩa là trải qua một sự kiện, chịu đựng một điều gì đó). Vì vậy, từ passion trong tiếng Anh cũng thể hiện những cảm xúc mạnh mẽ khiến bạn phải chịu đựng nó một cách khổ sở. Trong triết học Khắc kỷ, passion là một khái niệm quan trọng, được dùng để mô tả một cảm xúc bốc đồng thái quá và phi lý trí, một phán xét sai lầm và một tâm trí dao động. Vì khó tìm được một từ tiếng Việt tương đồng đảm bảo được các nghĩa này, nên trong bản dịch này, tất cả những chữ passion sẽ được chúng tôi dịch thành “Cảm xúc” (viết hoa), phân biệt với “cảm xúc” (viết thường) theo ý nghĩa thông thường của từ này. Thuật ngữ này sẽ được làm rõ hơn tại trang… (BBT)
Logic học (logikê) nghiên cứu về các định nghĩa, quy tắc, logic học biện chứng (tranh luận triết học) và tam đoạn luận hình thức, một lĩnh vực mà người Khắc kỷ, đặc biệt là Chrysippus, vô cùng nổi trội; nó cũng bao hàm thuật hùng biện Khắc kỷ, khuyến khích sử dụng ngôn ngữ súc tích và khách quan; và ở một vài phương diện, nó bao hàm các khía cạnh mà ngày nay chúng ta gọi là tâm lý học hay lý thuyết về hiểu biết (“nhận thức luận”). Logic học Khắc kỷ có lẽ chịu ảnh hưởng bởi thời gian Zeno bỏ ra để nghiên cứu hai trường phái Socrates cổ đại là Megarian (đặt tên theo người sáng lập là Euclides xứ Megara) và Dialectician (Biện chứng luận), ngày nay chúng ta không còn biết gì nhiều về các trường phái này.
Theo một phép ẩn dụ Khắc kỷ thời kỳ đầu, triết học như một vườn cây ăn trái hay một khu vườn. Logic học là bức tường bao quanh vườn cây, bảo vệ mọi thứ mọc bên trong, đảm bảo khu vườn được an toàn; Vật lý học tương đương với đất đai màu mỡ và cây cối. Nguồn trái tự nhiên liên tục sinh sôi và chín trong vườn tương ứng tới Đạo đức học và tượng trưng cho đức hạnh của con người. Tuy nhiên, ba chủ đề này phần nào đan bện vào nhau. Các triết gia Khắc kỷ khác nhau có sự bất đồng về thứ tự chính xác để giảng dạy các chủ đề này và cũng khác quan điểm về tầm quan trọng tương đối của chúng. Như đã nói ở trên, các triết gia Khắc kỷ cuối thời La Mã có tiếng là quan tâm đặc biệt đến Đạo đức học.
Ghi nhớ: So sánh chủ nghĩa Khắc kỷ với chủ nghĩa chiết trung
Nhiều sinh viên hiện đại theo học chủ nghĩa Khắc kỷ có lẽ bị hấp dẫn bởi một số khía cạnh này hơn là những khía cạnh khác. Họ thậm chí còn có thể bỏ qua các học thuyết mà Zeno và các môn đồ của ông xem là thiết yếu. Tuy nhiên, nhiều triết gia cổ đại, cả trường phái Khắc kỷ và những trường phái khác, đều rất chiết trung trong cách tiếp cận của mình, chính vì vậy điều này không có gì mới. Cicero là một ví dụ điển hình. Ông tiếp thu chủ nghĩa Khắc kỷ một cách rất nghiêm túc nhưng không đồng ý với mọi khía cạnh của nó, thay vào đó ông lại thích xếp mình vào phái Học viện Plato hơn.
Tương tự, độc giả ngày nay có thể được chia làm hai nhóm: những người tin tưởng vào các nguyên tắc đạo đức trung tâm của chủ nghĩa Khắc kỷ và trung thành hơn với toàn bộ học thuyết, và nhóm gần giống với những người theo thuyết Plato, Aristotle và Epicurus, đơn giản là muốn tiếp thu một số khía cạnh có chọn lọc của lý thuyết và thực hành Khắc kỷ. Tuy nhiên, chắc chắn vẫn có những yếu tố của chủ nghĩa Khắc kỷ, nhất là phần Vật lý học và thần học (như thờ thần Zeus), có vẻ kỳ quặc trong bối cảnh xã hội hiện đại mà ngày nay chẳng mấy ai chấp nhận được.
Thực hành: Rèn luyện thể chất như một người Khắc kỷ
Một trong những khẩu hiệu nổi tiếng của Epictetus là “chịu đựng và buông bỏ”. Chúng ta đã thấy rằng việc từ bỏ những đồ ăn thức uống không lành mạnh hoặc không cần thiết có thể được áp dụng như một cách luyện tập để phát triển tính tự kỷ luật, hay “sự tiết độ” trong ăn uống như thế nào. Khả năng chịu đựng liên quan tới đức tính “can đảm” và có thể được phát triển đơn giản bằng cách tập chịu đựng những khó chịu hay mệt mỏi thông thường, ở một chừng mực nhất định, khi trải qua hoạt động rèn luyện thể chất. Musonius nói rằng chúng ta có cả cơ thể và trí óc, mặc dù luôn cần chú tâm hơn vào trí óc thì chúng ta cũng phải rèn luyện cả hai. “Chúng ta sẽ luyện cả thân thể và trí óc khi chúng ta làm quen với sự nóng, lạnh, đói, khát, khan hiếm thức ăn, giường cứng, thiếu thú vui và chịu đựng đau đớn” (Lectures, 9).
Chúng ta không cần cởi bỏ quần áo và ôm những bức tượng lạnh băng trong mùa đông để luyện khả năng chịu đựng như những người khuyển nho đã làm. Chạy, đi bộ nhanh, yoga duỗi người là các hình thức tập luyện đơn giản giúp chúng ta phát triển sức bền thể chất.
Như đã biết, Zeno, nhà sáng lập chủ nghĩa Khắc kỷ, nổi tiếng về khả năng chịu đựng thể chất. Thay vì ngồi yên giảng bài, ông vừa thuyết giảng vừa đi tới đi lui nơi hành lang mà ông dạy học. Cleanthes, triết gia có ảnh hưởng thứ hai của chủ nghĩa Khắc kỷ, vốn là tay đấm bốc; Chrysippus, triết gia có ảnh hưởng thứ ba, là vận động viên môn chạy đường dài. Nói cách khác, các nhà sáng lập chủ nghĩa Khắc kỷ rất chăm luyện tập thể chất. Tuy nhiên, cùng với quan điểm về chế độ ăn uống, có một sự lắt léo tinh vi kiểu Khắc kỷ ở đây. Trong khi con người ngày nay thường kiêng một số thức ăn nhất định để giảm cân, hoặc tập thể thao để tăng cường sức khỏe, cải thiện dáng vóc, thì người Khắc kỷ chỉ xem những kết quả này là “có thì tốt” nhưng suy cho cùng thì nó “không quan trọng”. Lý do thật sự để họ từ chối ăn một số loại thức ăn hoặc tuân theo một chế độ luyện tập thể chất khắc nghiệt là nhằm mục đích tăng cường đức tính “tự kỷ luật” và “can đảm”, hay khả năng chịu đựng.
Ba kỷ luật được bảo tồn
Epictetus, người rao giảng thuyết Khắc kỷ có ảnh hưởng nhất trong thời đại đế chế La Mã, cũng nói về việc chia các phạm vi thực hành của giáo huấn Khắc kỷ thành ba phần, cái mà Marcus Aurelius đã dẫn chứng và áp dụng một cách có hệ thống trong cuốn Meditations của mình. Dựa trên việc nghiên cứu sâu sắc, cẩn trọng các tài liệu, Pierre Hadot lập luận rằng ông muốn người ta hiểu được ba kỷ luật này là các khía cạnh của ba chủ đề lý thuyết Khắc kỷ được nói đến ở trên, khi chúng được áp dụng vào nghệ thuật sống (Hadot, 1998, tr. 73-100). Các kỷ luật mang tính thực hành này mô tả ba phương pháp mà người Khắc kỷ dùng để hướng tới việc sống một cuộc đời thống nhất chặt chẽ, hòa hợp với bản thân, với nhân loại và với toàn thể Tự nhiên.
Kỷ luật Khát khao (orexis) và Chán ghét (ekklisis), tức là kỷ luật với các “Cảm xúc” mãnh liệt, đòi hỏi chúng ta phải khao khát hướng tới và có được cái tốt đẹp, đồng thời chán ghét và tránh xa cái xấu xa, cũng như xem những thứ khác là không quan trọng. Cái tốt đẹp duy nhất được xác định là những gì nằm trong khả năng kiểm soát, trong ý muốn hay hành động – trí tuệ và đức hạnh trở thành cái duy nhất thật sự tốt. Hadot lập luận rằng đây là hình thức ứng dụng của Vật lý học khắc kỷ, sống hòa hợp với Tự nhiên của vũ trụ và với những gì được định đoạt bởi số phận. Điều này đặc biệt liên quan tới các đức tính can đảm và tự kỷ luật, hai đức tính chủ yếu liên quan đến việc tự kiểm soát trước những khao khát (thèm muốn) và chán ghét (sợ hãi) phi lý trí, không lành mạnh. Nó cũng liên quan tới việc giảm bớt những đau đớn cảm xúc qua phương pháp trị liệu bằng cảm xúc mạnh mẽ kiểu Khắc kỷ. Câu châm ngôn nổi tiếng của Epictetus “chịu đựng và buông bỏ” dường như đặc biệt liên quan đến kỷ luật này.
Kỷ luật Hành động (hormê) đòi hỏi chúng ta thực hiện các nhiệm vụ hay “hành động phù hợp” (kathêkonta) của mình để làm điều đúng đắn trong các mối quan hệ, trong việc phục vụ nhân loại, với sự bổ sung của “mệnh đề dự phòng” kiểu Khắc kỷ – “tùy số phận”. Hadot kết luận rằng đây là hình thái ứng dụng của Đạo đức học Khắc kỷ, liên quan tới sống nhân ái và hòa hợp với cộng đồng nhân loại. Nó liên quan tới công lý, công bằng và lòng nhân từ.
Kỷ luật về sự đồng thuận (sunkatathesis) hay Kỷ luật Phán xét đòi hỏi chúng ta nhận biết và đánh giá những ấn tượng ban đầu của mình, gạn lọc các nhận định về “tốt” và xấu”, và chỉ tán thành những biểu hiện khách quan của thực tại. Hadot kết luận rằng đây là hình thái ứng dụng của Logic học Khắc kỷ, nó đòi hỏi chúng ta phải sống thuận theo bản chất lý trí của mình. Nó có thể liên quan tới đức hạnh Khắc kỷ về trí tuệ, tức sự hoàn hảo về lý luận và đây là kỷ luật quan trọng vì nó giúp bảo vệ hai kỷ luật còn lại.
Nói đơn giản thì những kỷ luật này xử lý các “cảm xúc”, “hành động” và “tư duy” của chúng ta – ba phạm vi chính của trải nghiệm ý thức mà chúng ta có thể học cách tự kiểm soát. Epectetus nói rằng trong ba kỷ luật này thì Kỷ luật Khát khao là thứ người học nên tiến hành ngay lập tức vì các “Cảm xúc” phi lý, thái quá, hay không lành mạnh đơn giản là không tương thích với một cuộc sống tốt đẹp, và có thể ngăn cản chúng ta hưởng lợi ích thật sự từ việc nghiên cứu Đạo đức học và Logic học.
Chính vì vậy, chúng ta có thể cũng mô tả giai đoạn đầu tiên trong quá trình rèn luyện theo thuyết Khắc kỷ như là sự kỷ luật đối với cảm xúc khát khao và sợ hãi thông qua việc thực hành đức tính tự kiềm chế. Thật ra đây cũng là cách Zeno bắt đầu sự nghiệp triết học của mình, trở thành môn đồ của Crates, người đã dạy ông chịu đựng gian khổ và buông bỏ khao khát vật chất thông thường bằng cách chấp nhận sống theo chủ nghĩa khuyển nho. Mãi sau này ông mới bắt đầu nghiên cứu sâu Vật lý học và Logic học bằng cách tham dự các trường dạy triết học khác ở Athens.
Tư tưởng chính: Ba kỷ luật Khắc kỷ của Epictetus
Như chúng ta biết, Epictetus là triết gia Khắc kỷ đầu tiên phân biệt ba kỷ luật rèn luyện “khát khao và chán ghét”, “hành động” và “tán thành” (hay phán xét). Marcus Aurelius và những môn đồ khác của trường phái Epictetus cũng thừa nhận sự phân chia ba phần này. Sau khi nghiên cứu các văn bản chi tiết và phân tích về mặt triết học, học giả người Pháp Pierre Hadot đã kết luận rằng đây lần lượt là các nhóm bài tập thực hành theo các chủ đề lý thuyết Khắc kỷ là Vật lý học, Đạo đức học và Logic học.
Các học giả khác như A.A. Long, một chuyên gia hàng đầu nghiên cứu về Epictetus, cơ bản đồng tình với cách diễn giải này (Long, 2002, tr. 117). Hadot cũng gợi ý một cách dè chừng rằng những nhánh kỷ luật này có thể tương đương với các đức tính cốt yếu và với luận điểm “sống hòa hợp theo Tự nhiên” ở ba cấp độ khác nhau. Ba “chủ đề” của thuyết Khắc kỷ, cụ thể là ba kỷ luật này, sẽ là khung sườn cho phần còn lại của cuốn sách này. Dù tập trung vào Đạo đức học nhiều hơn Vật lý học và Logic học, nhưng chúng tôi cũng sẽ viện đến một số yếu tố trong các chủ đề lý thuyết kia để thảo luận về các kỷ luật tương ứng và những bài tập thực hành tâm lý trong các tài liệu về chủ nghĩa Khắc kỷ.
Ghi nhớ: Chủ nghĩa Khắc kỷ không “khô khan”
Có một hiểu lầm phổ biến là người Khắc kỷ là những người không thể hiện cảm xúc. Việc đó được cho rằng đến từ các vấn đề về dịch thuật và diễn giải. Những “Cảm xúc cần vượt qua” mà người Khắc kỷ nói đến được định nghĩa cụ thể là các dạng sợ hãi và khao khát phi lý, thái quá, phi tự nhiên (hoặc không lành mạnh) và những cảm giác hệ quả của đau đớn (đau đớn về cảm xúc) và thích thú (cảm giác “khoái lạc” hời hợt). Nhận xét của Marcus Aurelius về việc “giải thoát khỏi cảm xúc nhưng vẫn đầy tình yêu” hay “tình cảm yêu mến tự nhiên” đã đúc kết rất hay lý tưởng của người Khắc kỷ (Meditations, 1.9). Các triết gia Khắc kỷ thời kỳ đầu nêu rõ rằng mục tiêu của họ không phải là trở nên lạnh lẽo như những bức tượng đá, và cộng đồng lý tưởng của họ vốn được xây dựng trên tình yêu và tình bằng hữu. Như chúng ta sẽ thấy, “tình yêu” hay “tình cảm yêu mến tự nhiên” được người Khắc kỷ đánh giá cao cũng như các cảm xúc có lý trí, điều độ và lành mạnh (eupatheiai), chủ yếu bao hàm niềm vui có lý trí, cảm xúc có suy xét và những lời chúc tốt đẹp hay tình cảm yêu mến dành cho người khác. Người Khắc kỷ dùng lý trí và sự rèn luyện tâm lý để vượt qua những khao khát và cảm xúc không lành mạnh, mở đường cho các khao khát và cảm xúc lành mạnh.
Các điểm trọng tâm
Các điểm chính cần ghi nhớ của chương này:
• Chủ nghĩa Khắc kỷ có lịch sử lâu dài, hơn 500 năm, nhưng học thuyết trung tâm của nó, “sống hòa hợp với Tự nhiên”, là bất biến.
• Sống hòa hợp với Tự nhiên bao hàm ý nghĩa hành động với đức hạnh, miễn là trong khả năng kiểm soát, và vẫn chấp nhận các sự kiện ngoại tại, ngoài tầm kiểm soát, coi chúng là một phần của tổng thể.
• Giáo huấn Khắc kỷ chia thành ba chủ đề lý thuyết phù hợp với ba kỷ luật thực hành. Chúng ta sẽ khám phá chúng trong phần còn lại của cuốn sách này.
Bước tiếp theo
Theo truyền thống, triết học đề ra triển vọng đạt được một ý thức sâu sắc hơn về sự toại nguyện và Hạnh phúc trong cuộc sống. Điều này khuyến khích người học theo đuổi công việc nghiên cứu và luyện tập để hướng tới đức hạnh. Chương kế tiếp sẽ giới thiệu về triển vọng của triết học và khám phá mục tiêu sau cùng của chủ nghĩa Khắc kỷ, trạng thái thăng hoa của nhà Hiền triết được khai sáng, gọi là eudaimonia hay là Hạnh phúc và sự viên mãn đích thực.