Mùa hạ.
Trời nóng hực.
Núi Chúa ngun ngút mây bay.
Ông Sa Thổ đưa ông Mùi lên núi Chúa. Hôm nay, hai người lính hẹn nhau, chân trần, đi chơi núi, câu cá và uống rượu. Ông Sa Thổ đeo bao dao nhọn, túi nhỏ gạo kén nương, bi đông rượu, cái ớp đựng rau diếp cá, mùi tầu, lá vón vén, gừng, tỏi, ớt, ông rẽ rừng, dẫn lối, cùng ông Mùi ngược lên thác Tu Mi, là thác Con Gấu, dân bản đặt tên từ xửa xưa thế vì bọn gấu rừng hay ra thác này rình bắt cá ăn. Vòng vèo, quanh co dốc mãi. Ô, một cái thác nước như dải Ngân Hà trắng xóa, đổ từ mãi đỉnh trời xuống trần gian. Thác réo ào ào. Tưởng như cả thế gian này chỉ có mình nó tồn tại. Ông Mùi ngẩng cao đầu nhìn ngược lên thác nước, chợt nhớ lại những ngày vượt Trường Sơn ra trận. Hành quân ngang dọc Trường Sơn, đồng đội và Mùi từng gặp bao nhiêu là thác nước, khiếp nhất là thác Lò So… Ông Mùi còn đang mải ngắm thác Tu Mi thì ông Sa Thổ đã lấy hai cần câu trúc trên lán, ra suối dọn chỗ ngồi câu. Ông Sa Thổ đưa cho ông Mùi một cần, mắc sẵn mồi giun. Hai người ngồi bệt trên hai phiến đá nhỏ, cạnh nhau, cùng vung dây câu xuống nước. Ông Sa Thổ bảo, chân các tảng đá có nhiều cá trèo đồi, tức một loại cá sộp nhỏ rất hay cắn câu, còn loại cá chạch chấu cũng bợm ăn. Quả thật, ông Mùi và ông Sa Thổ thả mồi câu, giật liên tục. Dây cước căng, ông Mùi giật nhẹ. Miệng la, một con này! Con sộp bằng chuôi dao, đen trũi, phồng mồm, giãy giãy. Ông Mùi gỡ con sộp, bỏ vào ống nứa có nước, xong, lại mắc mồi, thả, sộp cắn câu, giật vút lên bở, con nữa. Con nữa. Con nữa. Ông Mùi khoái chí, cười hì hì. Bên cạnh, ông Sa Thổ cũng kéo dây câu, kéo căng, a, cái con chạch chấu đây mà, nó tham ăn nhất hạng cá suối, kéo căng, vút, con chạch chấu vung lên bờ, con chạch chấu mõm nhọn, to bằng cổ tay, dài ngoằng như con lươn, màu xám vàng, béo núc, nhìn sướng, ông Sa Thổ cười ha hả. Một lúc lâu, hai người thi nhau giật cá, chỉ cá sộp, cá chạch chấu, cả chục con quẫy lóc róc trong ống nứa. Ông Sa Thổ bảo với ông Mùi: “Chưa bắt được con cá sỉnh nào thì bữa rượu chưa thật ngon nhé”. Thế là, ông Sa Thổ cởi quần, cởi áo, lội ào xuống suối. Ông Sa Thổ lùa hai bàn tay nghều ngào ngón, úp vào các hốc đá phập phềnh rêu xanh. Ây, lũ cá sỉnh chúi mồm mải ăn rêu, bị ông Sa Thổ túm cả đàn. Cá sỉnh tắp tắp bằng ngón chân cái, màu xám trắng, mồm tày vì đớp rêu đá. Cứ mỗi lần ông Sa Thổ ném cả vốc cá sỉnh lên bờ cho ông Mùi nhặt, lại cười ha hả. Bao nhiêu cá sỉnh được ông Mùi bỏ riêng vào một ống nứa khác. Xem ra hai ống nứa đã ních cá, hai người mới xuống lán canh phía dưới động cậu Cóc. Tuyệt vời là sườn núi Chúa cạnh động cậu Cóc có cả một rừng cây gỗ nghiến, mọc xen lẫn bao nhiêu là tảng đá nhọn như tháp đá lô nhô, rêu phủ xanh. Những cây nghiến to cả mấy người ôm không xuể, gốc xù xì nứt nẻ, bạnh to xòe ra xung quanh như rẻ quạt khổng lồ, cao sừng sững, sum suê cành lá xanh rịm. Ông Sa Thổ từ ngày rời quân ngũ, đã làm một cái lán, chủ yếu để thỉnh thoảng lên ngủ, trông giữ rừng gỗ nghiến cổ thụ, được dân bản Nà Lai coi là những cây gỗ thần của núi Chúa. Cái lán bắc xà gỗ nhỏ gác lên mấy chạc cây lùm xùm bên một gốc cây nghiến cổ thụ, sàn ghép cây vầu già, vách nứa đan lóng đôi, mái lợp nứa đan dày, một nửa lán nghiêng ra dòng suối Be. Ông Sa Thổ bảo, mùa hè ngủ ở đây thì chẳng khác gì ngủ trên cõi Tiên, mát lắm. Ông Mùi mê mải ngắm không gian rừng già âm vang suối ngàn, rì rào gió lá, ríu rít chim sơn ca, lòng bồi hồi nhớ những ngày vượt Trường Sơn ra trận. Ông Sa Thổ treo các thứ lên các chạc cây, lấy củi đốt trong bếp đá hộc, rồi mổ cá. Ông Mùi vót mấy cái xiên nhọn bằng vầu tươi. Cá sộp ba xiên dài. Cá sỉnh năm xiên dài. Cá chạch chấu cắt khúc trộn lá vón vén chua và măng nứa non, cho vào ống nứa. Gạo kén nương cũng nhồi đầy ống nứa. Tất cả được nướng trong bếp lửa củi gộc. Bếp lửa đá cuội suối tuyệt lắm. Lửa cháy mãi khiến các hòn đá suối cũng đỏ rực, bén cái nóng tự nhiên vào da nứa tươi non mà nấu chín cơm, cá, cứ gọi là ngọt lừ, thơm phức. Thức ăn đã chín. Ông Sa Thổ cầm một xiên cá sỉnh, một xiên cá sộp, một bát canh cá chạch chấu, một gói cơm lam, một cốc nứa rượu, cùng ông Mùi lên động cậu Cóc. Nghe nước róc rách chảy, ông Mùi ngẩng lên thấy cậu Cóc lừng lững ngẩng cao đầu, chành miệng rộng, hai mắt lồi đỏ, đầu lấp lánh ánh nước, vẻ thiêng liêng. Ô, sao cái động cậu Cóc rộng thế, nhìn kia, bao nhiêu thạch nhũ hình thù kỳ lạ mà đẹp thế. Ông Mùi đương ngẩn ngơ vì cái động đẹp thì ông Sa Thổ giục đưa đồ cúng tế lên. Ông Sa Thổ lấy đồ cúng tế từ tay ông Mùi, đặt xuống cạnh cậu Cóc, rút mấy thẻ hương ra đốt, cắm bên chân cậu Cóc, hương cháy đỏ, tỏa thơm ngào ngạt. Ông Sa Thổ quỳ gối, ông Mùi cũng quỳ gối. Ông Sa Thổ thì thầm khấn nôm: “Kính bẩm cậu Cóc! Hôm nay hai người lính chúng con là Hoàng Sa Thổ và Trần Gia Mùi lên chơi núi Chúa, cùng câu cá, hái măng, làm bữa ăn dân dã. Chúng con không quên cậu Cóc từ xửa xưa một lòng trông nom rừng suối núi Chúa cho dân bản Nà Lai, cho chúng con có cái ăn sống đời. Món ăn dân dã xin dâng lên cậu Cóc! Mong cậu luôn phù hộ độ trì cho mọi người được mạnh khỏe, bình yên, hạnh phúc!”.
Khấn xong, hai người xuống lán. Ông Sa Thổ bày cá nướng lên lá dong rừng, múc cá chạch nấu chua ra cái hăng gô. Cơm lam đợi đấy. Ông Sa Thổ cầm bi đông rượu, chiếc bi đông Trung Quốc còn nguyên cả bao vải - kỷ niệm của lính chiến, cẩn trọng rót đầy hai cái cốc vạt bằng nứa non. Ông Sa Thổ và ông Mùi cầm cốc, nhìn nhau không nói, mắt rưng rưng, dâng cốc rượu ngang mày, một hơi, cạn. Cốc nữa. Cạn. Cốc nữa. Cạn. “Khà khà! Ha ha!”. “Cá suối thơm ngon đây! Nào mời!”. Cá sộp nướng. Cá sỉnh nướng. Chạch chấu nấu chua nữa. Ngon lành. “Bao nhiêu người, cả đời mơ ước cũng chẳng có mà ăn nhé. Nào, em mời bác Mùi”. “Nào, tôi mời chú Sa Thổ, chúc mừng chú tai qua nạn khỏi nhưng không được quên những đứa hại chú!”. “Nào mời”. “Cốc nữa”. “Cạn này”. Cốc nữa. “Cạn này”. Cốc nữa. “Cạn này”. “Khà khà! Ha ha!”. Biêng biêng. Ngả nghiêng say. Hai người lính chiến một thời nay uống rượu giữa núi cao, rừng già, suối reo, mây phủ, nghiêng ngả vào nhau, thì thầm chuyện xưa chiến đấu, sướng vô cùng. “Ư, sướng vô cùng! Đời là gì chứ? Bác Mùi nhỉ?”. Ông Sa Thổ thì thầm: “Ta đã sống những ngày oanh liệt, đã vô tư cống hiến, hy sinh cho Tổ quốc, hy sinh cho nhân dân rồi, thì bây giờ ta phải sống cho ta một chút chứ, một chút thôi, phải không bác Mùi?”. “Ờ, chú Sa Thổ nói phải!” - Ông Mùi thì thầm. Bỗng cánh rừng vút lên tiếng chim họa mi. Huýt chà - huýt chà chà - huýt chà..., chỉ một điệu hót, rồi bùng ra muôn điệu hót líu ríu, hình như cánh rừng có cả một bầy chim họa mi thi nhau hót. “Ai dà! Một bản hòa tấu tuyệt diệu! Rì rào như suối reo, vi vút như gió thổi, vèo vèo như lá rụng, te te như gà gáy, quíu quà quíu như khướu hót, tí tà tí như sáo tập nói, cù cù cù như gáy gù, da dĩ như ve ran, gừm gừm như hổ gầm, ăng ẳng như chó kêu, meo meo như mèo gào...”. “Chú Sa Thổ ơi, không phải một bầy chim họa mi đâu! - Ông Mùi vừa nghênh tai nghe vừa giảng giải cho ông Sa Thổ hiểu. - Cái giống họa mi này “anh hùng nhất khoảnh”, không bao giờ chịu hót chung một cánh rừng với bất cứ chàng họa mi nào đâu, kể cả các loài chim khác. Buổi sớm chim họa mi hót như muốn báo cho các loài khác biết rằng, cánh rừng này đã có chủ, cho nên giọng hót của nó vút cao, vang xa, đầy kiêu hãnh. Buổi chiều giọng hót của nó trầm buồn, man mác như có vẻ luyến tiếc một ngày tươi đẹp đã qua. Còn buổi trưa là lúc chim họa mi “chuyện”. Nghĩa là nó hót bằng giọng hót của tất cả các loài chim khác, thậm chí nó bắt chước cả tiếng kêu của các loài thú, bắt chước các âm thanh trong tự nhiên nữa. Họa mi thế mới là “đệ nhất” hót chứ! Hồi ở Trường Sơn, các chú lính cũng tưởng cả bầy họa mi, chẳng hiểu gì cả, bây giờ chú Sa Thổ người con của núi rừng mà cũng thế, kém hẳn!...”. Ông Sa Thổ cứ há mồm nghe. Cười trừ. Nào thì chúc bác Mùi một cốc, tỏ lòng ngưỡng mộ một người sành chim cò. Cạch. Cạn cốc. Cốc nữa. Cốc nữa. “Khà khà! Ha ha! Thật sướng những người con của núi rừng! Vừa nghe họa mi hót vừa chuyện xửa xưa. Chuyện xửa xưa đi chiến đấu, chúng mình còn trẻ quá, nhiệt huyết quá, lãng mạn quá, gì nhỉ, a, những người lính Trường Sơn hay hát, a, a: Trường Sơn ơi, trên đường ta qua không một dấu chân người. Đi ta đi những trai làng Phù Đổng. Còn gì vui hơn đường ra trận mùa Xuân”…
“A, bác Mùi hát vẫn còn hay lắm! Bác nghe em đây: Chiều dài biên giới, dài theo bước chân chúng tôi. Những đỉnh núi mờ sương, tiếng sóng vỗ trùng dương, nghe đất quê hương hát cùng bước chân chúng tôi… Trập trùng biên giới, dù mưa nắng dù bão bùng, vẫn rộn bước hành quân, cho cây lúa hậu phương, em gái thân thương hát cùng quê hương”...
Hai người cứ hát qua hát lại, nhớ đến đâu thì hát đến đấy. Hát đại ý thôi mà, để không bao giờ quên đời lính cách mạng. Thế nên, hai giọng hát của hai người lính từ chiến trường xưa hòa cùng một nhịp, một giọng trầm khàn, to vang, một giọng nhỏ đanh và ấm, nghe lạ, thật cảm động. Đang “suốt đời vì nhân dân” thì ông Mùi dừng hát, cười vang núi rừng: “Ha ha! Quân đội ta vì nhân dân mà chiến đấu, vì nhân dân mà chiến thắng! Nhân dân Việt Nam chiến thắng! Chú Sa Thổ ơi! - Ông Mùi thì thầm - Chú còn nhớ gì những ngày chiến đấu gian lao chứ? Hành quân không nghỉ. Đèo cao. Vực sâu. Muỗi rừng. Vắt núi. Đói. Rét. Nhớ mẹ. Ôi, tất cả chưa là gì nhé! Này, tôi nhớ mãi, một đêm trăng sáng đẹp, cái lũ giặc khốn kiếp bỗng giội pháo chụp, tiếp ngay là trận bom B-52 thả xuống đội hình Tiểu đoàn 4 chúng tôi đang lơ mơ ngủ trong rừng thông Xi Khoa. Bao nhiêu thương vong, toàn lính trẻ măng tơ, đứa vừa rời ghế lớp mười, đứa vừa ngồi giảng đường trường đại học, đang còn bao mơ ước xa xôi, có cả các em nông dân hiền như đất nữa. Tiểu đội trưởng Đán của tôi bị vỡ toác đầu, ngồi nghẹo cổ, máu thấm đỏ người. Đồng đội tôi, đứa vỡ đầu, đứa mất mặt, đứa xả vai, đứa thủng bụng, đứa cụt đùi...! Yên bình trở lại. Tôi bò lê trên cỏ, bò quanh các gốc thông, bò bên những tảng đá nhỏ, sờ khắp từng đứa, sao không khóc được, chỉ khào khào, khô bỏng cổ. Tôi ôm từng đứa, dụi đầu vào ngực từng đứa. Máu đồng đội thấm đẫm cả người tôi. Tôi vật ra. Ngẩng nhìn lên bầu trời trăng tỏa ánh vàng qua chùm chùm lá thông nhọn. Tôi run rẩy. Sợ hãi khủng khiếp. Căm thù khủng khiếp. Thương bạn khủng khiếp. Lính tò te chưa đánh trận nào đã chết thảm khốc khiến tôi sốc quá. Ngất lịm. Đồng đội đưa tôi vào trong hang đá chân núi lúc nào cũng không biết nữa. Ngay đấy, cùng chiến dịch Z, đánh liên tiếp các đồn cao Phu Theng, Sam Tho, Tà Can, Na Ti, bạn tôi - Lập quê Phố Ràng, Chước quê Nghĩa Đô, Thăng quê Bảo Hà, Thắng quê Âu Lâu, Quy quê bến Cóc..., đứa toác bụng, đứa vỡ háng, đứa cụt hai chân, đứa bị mổ bụng tẩm xăng đốt, đứa bay sườn, tôi không có dịp được chôn cất một đứa nào, thương lắm. Hết chiến dịch, ta thắng lớn. Mùa xuân cũng đang về trên khắp các bản làng bên tây dãy Trường Sơn. Hoa ban nở trắng rừng. Nhiều rừng hoa ban đã bị bom đạn giặc chém nát, xác ban tơi tả như máu vãi. Tự dưng tôi thao thức, suốt đêm viết mấy câu, kiểu như làm thơ ấy, đại ý thế này: Chiến tranh là con quỷ tàn ác! Ngươi đã giết chết những người bạn của ta đương mười chín tuổi, ngươi đã đốt cháy những cánh hoa ban trong trắng như cuộc đời của bạn ta đương mười chín tuổi. Nhưng không phải thế đâu, ơi những con quỷ chiến tranh! Bạn của ta vẫn mãi mãi trẻ trung cùng đất nước. Hoa ban rừng không bao giờ chết, vẫn mãi mãi nở trắng ngần mùa xuân mơ ước! Các bạn ơi! Đồng đội của tôi ơi!” - Tự nhiên ông Mùi bật khóc, tiếng khóc gừ gừ trong họng, nghẹn ngào quá thể. Nghe thế, ông Sa Thổ cũng không cầm lòng. Ông Sa Thổ thì thầm: “Thôi mà! Chiến tranh mà! Không hy sinh thì làm sao có chiến thắng hôm nay, phải không bác Mùi? Như chúng em đây, gần chục năm trời đánh nhau tít mù ở Vị Xuyên. Núi cao ngút. Suối sâu. Vực thẳm. Nằm ngay trên đất quê mình mà chịu đói, rét, hy sinh khủng khiếp. Đợt ấy, gần hai nghìn chiến sĩ ta đã anh dũng hy sinh giữ từng tấc đất biên cương của nước Việt Nam thân yêu. Điểm cao 468 được đồng đội em đặt là “Điểm hội quân 468”, có Nhà tưởng niệm anh hùng, liệt sĩ, vàng son câu đối: Trải tấm lòng son vì đất nước/ Đem dòng máu đỏ giữ biên cương! hay “Hồn thiêng tụ nghĩa lưu muôn thuở/ Tên tuổi nghìn năm Tổ quốc ghi!. Và những câu hát về đồng đội: Về đây đồng đội ơi, người chiến sĩ Sư đoàn. Hà Giang đã ngừng chiến trận. Về đây đồng đội ơi, những chiến hữu đơn vị bạn. Đài hương 468 ta hội quân. Hãy về đồng đội ơi! Còn nằm khe đá hay thung sâu. Về đây có nhau như nguyện ước chiến hào”...
Ông Sa Thổ chợt im lặng một lúc, rồi thì thầm: “Trời không dung, đất không tha kẻ xâm lược! Sao mà lạ lùng! Chiến tranh bắt đầu từ đâu ra, bác Mùi nhỉ? Người Việt Nam mình từ xa xưa chỉ yêu hòa bình, mà sao người khác lại ngạo mạn, tham lam, độc ác thế, người khác chỉ muốn giết người Việt Nam, chiếm đất của Việt Nam ta, khốn kiếp thế!... Ờ, cũng có thể?”. Ông Mùi ngồi khoanh chân, mắt chớp chớp, trên mặt sẹo đỏ sẹo tím cứ giật giật. Ông Mùi thì thầm: “Con người ta ấm lạnh có lúc mà! Rất có thể, con người, con người, gì nhỉ? Ờ, con người thái độ cố chấp? Con người tự ái cố hữu? Con người… đủ các loại. Mà thôi, chú Sa Thổ ơi, tôi với chú nhắc mãi chuyện xưa, buồn lắm. Nhưng cũng không được quên nhé. Tôi rất thích bài hát của nhạc sĩ gì nhỉ? Bài gì nhỉ? A, phải rồi: Có một bài ca không bao giờ quên, là lời đất nước tôi chẳng phút bình yên…”.
Ông Mùi bỗng dừng hát, nghênh mặt sẹo nhìn Sa Thổ, hỏi:
- Này, chú Sa Thổ! Tôi nghe đâu cái tay Tử Pín quyết mua bằng được núi Chúa để làm du lịch sinh thái à?
- Vâng!
- Ý chú thế nào?
- Thì cái lần ông ta thuê đầu gấu đánh dằn mặt em cũng là vì chuyện đó thôi.
- Đã đành, nhưng ý chú thế nào?
- Em đã bàn với dân bản Nà Lai rồi, không ai đồng ý cả.
- Thế là phải!
- Nhưng ông Sò với ông Lỉn lại khuyến khích ông Tử Pín.
- Ồi, mấy ông ấy thì cần gì nhỉ? A, mấy ông ấy chỉ cần có phong bì nặng đô-la là xong phứt mà.
- Ầy, ông Tử Pín cũng tưởng em máu tiền như các ông ấy. Ông ta công khai mua em năm mươi triệu đồng chỉ để thuyết phục dân Nà Lai bán núi Chúa.
- Thế chú đã cầm tiền của người ta chưa?
- Ơ, sao mà cầm tiền của người ta chứ? Tiền chưa phải là tất cả, phải không bác Mùi? Bộ đội cách mạng chúng mình làm gì cũng phải nghĩ đến đồng đội đã cống hiến, hy sinh xương máu và cả mạng sống cho nhân dân, cho Tổ quốc vĩ đại, chớ đùa! Con người phải có danh dự. Bộ đội Cụ Hồ càng phải giữ danh dự!
- Tôi tin chú!
Ông Mùi bắt tay ông Sa Thổ, tỏ ý tin tưởng. Ông Mùi thì thầm: “Chú Sa Thổ đúng rồi! Con người phải có danh dự, cần phải giữ gìn danh dự, thiêng liêng lắm. Bộ đội Cụ Hồ càng phải giữ danh dự! Ta làm gì cũng phải nghĩ đến đồng đội đã từng cống hiến, hy sinh xương máu và cả cuộc đời cho nhân dân, cho Tổ quốc vĩ đại, đừng bao giờ quên điều đó, phải không chú Sa Thổ? Tôi tin chú! Không bán núi Chúa cho bọn tham tiền, hại dân lắm!”.
Chuyện vãn, hai người bạn lính lăn ra ngủ, một mạch đến ngang chiều. Ông Sa Thổ dậy trước, lay gọi ông Mùi: “Dậy tắm. Tắm truồng”. Cả hai ùm xuống suối Be, sóng nước ào lên các tảng đá, lấp loáng. Hai người lặn ngụp, khỏa nước, té nước vào nhau, cười vang cả núi rừng. Hai người thi nhau lặn sâu xuống lựng nước, khỏa tay đuổi theo đàn cá trắng bạc bơi bơi, lẩn quanh chân các tảng đá. Vừa nhô lên, ông Mùi kêu ú ớ: “Ô, ai như..., ớ ớ, cô Sao!”. Cô Sao đi lấy cây thuốc trên rừng về, thấy hai người đang tắm truồng, vội nép vào gốc cây nghiến. Ngại quá, ông Mùi lặn ngay vào hườm đá, trèo lên sau một tảng đá to, lấy quần áo, mặc vội, rồi chuồn vào rừng mất tăm. Ông Sa Thổ vẫn đang đạp chân, quạp tay ùm ùm dưới suối, chẳng biết gì. Cô Sao ngó nghiêng, không thấy bóng ông Mùi, liền tháo bỏ túi cây thuốc xuống gốc cây, chạy nhanh ra tảng đá ven suối, lưỡng lự, vừa lúc ông Sa Thổ nhô đầu lên, Sao nhào xuống suối, ngụp ngoạp nước. Ông Sa Thổ nhổm người khỏi mặt nước, tưởng Sao ngã suối, vội nhào ra, ôm chặt lấy Sao, kéo vào bờ. Sao rũ tóc, hai tay nguẩy nguẩy, chân đạp nước oạp oạp, miệng kêu cứu với, cứu với. Ông Sa Thổ ôm Sao đặt lên tảng đá. Ô ô, ông Sa Thổ chợt nhận ra mình đang trần truồng, vội buông Sao, chạy tút lên rừng.