Chương 5Kết nối các dấu chấm
Phần lớn cuộc đời trưởng thành của tôi trải qua cùng nỗi ám ảnh tột bậc khi phải ở một mình, nhất là vào ban đêm. Ngay cả ở Chicago, trên tầng 57 của một tòa nhà có bảo vệ và người gác cửa, tôi vẫn không cảm thấy bản thân được an toàn. Một đêm nọ, dù đã sống ở đây vài năm rồi, tôi vẫn sợ hãi đến mức tự giục mình rời đi vì “nếu không thì sẽ có điều tồi tệ xảy đến”. Tôi bật dậy, đi thật nhanh đến khách sạn bên cạnh. Tôi cảm thấy an toàn hơn tại khách sạn bởi sẽ chẳng có ai biết tôi ở đó. Tôi không hiểu nổi nỗi sợ này, và nó mỗi ngày một tệ thêm. Tôi biết tôi phải tìm hiểu xem chuyện gì đang xảy ra với mình, nhưng tôi cũng chẳng biết tôi phải bắt đầu từ đâu nữa.
Cũng vào lúc đó, Chicago đang rúng động vì một trong những vụ xả súng vào trường học đầu tiên. Ngày 20 tháng 5, năm 1988, Laurie Dann đã bước vào một căn phòng dành cho khối lớp hai ở ngoại ô North Shore, Winnetka, và nổ súng. Sáu đứa trẻ bị bắn, trong đó có Nick Corwin, chỉ mới tám tuổi, bị giết chết.
Sau vụ xả súng, cha mẹ của các em đã vô cùng tức giận và đau khổ. Họ yêu cầu nhà trường phải khóa cửa, chăng xích và phải điều động bảo vệ canh gác ngôi trường. Một ngày nọ, tôi đọc được một bài giải thích lý do tại sao hiệu trưởng nhà trường từ chối thực hiện những thay đổi này. Ông cho rằng việc xích cửa sẽ gửi đến các em học sinh thông điệp rằng chúng không được an toàn.
Bất thình lình, đọc đến đây, tôi bật khóc.
Tôi khóc không chỉ vì bọn trẻ và gia đình chúng – những người đang phải đau đớn và bất an, phải gánh chịu hậu quả sau thảm họa. Tôi khóc còn bởi lời nói của vị hiệu trưởng kia. Câu nói của ông đã gợi lên ký ức về một sự kiện, một sự kiện mà tôi đã không nghĩ đến trong suốt nhiều năm ròng.
Hồi còn ở Mississippi, tôi luôn ngủ cùng bà. Ông tôi bị sa sút trí tuệ và ngủ ở phòng bên cạnh. Một đêm, tôi bỗng thức giấc thì thấy ông đang đứng trước giường. Ngay cả khi chưa mở mắt, tôi đã có thể cảm nhận được nỗi sợ của bà. Tôi cảm nhận được sự cảnh giác cao độ khi bà chầm chậm lặp đi lặp lại: “Earlest, về giường. Earlest, về giường”. Nhưng ông vẫn ở đó. Rồi ông cố siết cổ bà.
“Henry! Henry! Henry!”. Bà chạy đến cửa và gào gọi anh họ Henry – một người hàng xóm của chúng tôi – ngay khi vùng thoát. Henry bị mù, song anh vẫn không chút do dự chạy sang và giúp đưa ông tôi về phòng. Khi ông đã yên vị, bà trở về phòng, đặt một chiếc ghế ở dưới tay nắm cửa và xếp thêm mấy chiếc lon quanh giường. Sáng hôm sau, bà buộc những chiếc lon ấy vào nhau và treo ở cửa. Rồi mỗi đêm trong suốt những ngày tháng tôi ở cùng bà, những chiếc lon ấy vẫn được treo và chiếc ghế ấy vẫn nằm chặn tay nắm. Tôi cố gắng vừa ngủ vừa nghe ngóng để bảo đảm rằng những chiếc lon không động đậy.
Khi đọc về người hiệu trưởng không chịu chăng xích ở cổng, tôi mới chợt hiểu ra. Những chiếc lon trên cửa ở nhà bà tôi đã gửi đi đúng cái thông điệp mà thầy hiệu trưởng cố tránh. Những sợi xích có lẽ sẽ bảo vệ bọn trẻ, nhưng theo suy nghĩ của thầy, việc liên tục nhắc về sự cố đau thương còn gây hại nhiều hơn và khiến chúng tin rằng chúng không được an toàn.
Cuối cùng tôi đã xâu chuỗi được vấn đề và hiểu được tại sao tôi cứ sợ ở nhà một mình, đặc biệt là vào ban đêm. Việc bà tôi bị tấn công trong lúc chúng tôi đang ngủ, lúc chúng tôi dễ tổn thương nhất, đã gây ra sang chấn. Rõ ràng nó đã để lại vết sẹo ăn sâu vào cảm xúc và tâm hồn tôi. Ngay cả khi trưởng thành, khi tôi cố ngủ, cái phản xạ có điều kiện ấy vẫn được giữ nguyên trong tâm trí – tôi phải luôn trong trạng thái tỉnh táo, sẵn sàng cho một cuộc tấn công.
Tìm ra được mối liên hệ, hiểu được cả nguyên nhân lẫn hậu quả của giấc ngủ không yên, đối với tôi đúng là một sự kiện thay đổi hẳn tình hình. Mặc dù bản thân tôi vẫn phản ứng với những dấu hiệu căng thẳng sinh ra từ phòng ngủ của bà nhiều năm về trước, nhưng giờ đây tôi đã có đủ hiểu biết và công cụ để lùi lại, quan sát cảm nhận của mình và chọn cách vượt qua nỗi sợ.
Khi xem xét các kiểu hình phản ứng của bản thân, hãy biết rằng, bằng cách tạo một khoảng trống nhỏ giữa cảm giác tức thời với phản ứng bản năng, bạn đang cho phép và tạo điều kiện cho bản thân ở lại hiện tại và giành quyền kiểm soát.
–Oprah
OPRAH: Cảm giác sợ hãi quá mức có thể di truyền không?
TIẾN SĨ PERRY: À, trước hết tôi muốn mở rộng câu hỏi.
OPRAH: Tôi phải đoán ra mới phải! Anh không định trả lời ngay là “Có” hay “Không”, đúng không nào? Anh đang định khiến nó phức tạp hơn, đúng không?
TIẾN SĨ PERRY: Vâng. Đúng là tôi định thế. Vì chị đang tìm hiểu “Chuyện gì đã xảy ra với ta?” – những điều đã qua ảnh hưởng tới con người ta trở thành, theo nhiều cách phức tạp. Ta tiếp thu nhiều điều từ thế hệ trước rồi chuyển tiếp cho thế hệ sau – gene, gia đình, cộng đồng, xã hội và văn hóa. Thành ra câu hỏi của chị về tính di truyền của nỗi sợ là trọng tâm để ta thấu hiểu sang chấn, nhất là “sang chấn lịch sử”.
Hãy lấy nỗi sợ chó làm ví dụ. Nỗi sợ này có thể dựa trên trải nghiệm cá nhân, bị chó cắn khi còn nhỏ chẳng hạn. Bộ não đứa trẻ tạo ra mối liên hệ giữa chó với mối đe dọa, tương tự như những gì xảy ra với ông Roseman từ trải nghiệm chiến trường. Nhưng ta cũng biết một số người rất sợ chó dù chưa từng gặp phải vấn đề thực sự nào với chó cả. Vậy thì nỗi sợ đến từ đâu? Tôi cho rằng nỗi sợ có thể đến từ sự chuyển tiếp xuyên thế hệ (xem Hình 9). Chẳng hạn, chị hãy hình dung đến việc lớn lên trong một thế giới mà chó được huấn luyện để săn đuổi, theo dấu và tấn công người. Tyler Parry, một trong các học giả hàng đầu chuyên nghiên cứu về chế độ nô lệ và thực dân hóa, đã mô tả chó săn nô lệ là “công cụ hiệu quả và đáng sợ nhất để khép người da đen vào kỷ luật và chiếm lấy không gian của họ”. Nhiều thế hệ sau, chó vẫn được dùng theo cách tương tự để hăm dọa và khủng bố những người biểu tình đòi quyền công dân ở miền Nam, từ đó củng cố nỗi sợ chó xuyên thế hệ trong nhiều người. Hẳn chị còn nhớ những cuộc trò chuyện về chủ đề lây lan cảm xúc, vậy thì, khi người cha hay mẹ nắm tay con mình chặt hơn khi thấy chó hoặc vội vàng sang đường để tránh một người dắt chó đi dạo, đứa trẻ cũng sẽ “cảm thấy” lo sợ khi vô tình bắt gặp hoặc ở gần một chú chó. Nỗi sợ của ông bà trở thành nỗi sợ của cha mẹ, nỗi sợ của cha mẹ trở thành nỗi sợ của những đứa con.
Cần hiểu ta “thừa hưởng” điều gì và “thừa hưởng” ra sao để có được sự chiêm nghiệm cần thiết, có như thế thì ta mới có thể tạo ra những thay đổi có chủ đích – thay đổi ở cấp độ cá nhân (như chữa lành sau sang chấn) và ở cấp độ văn hóa (như xác định và thay đổi các chính sách phá hoại có liên quan đến nạn phân biệt chủng tộc).
OPRAH: Nhiều năm qua, tôi đã có dịp trò chuyện với tác giả kiêm bậc thầy tâm linh Iyanla Vanzant về việc ta là sản phẩm của tổ tiên mình theo nhiều cách. Iyanla nói: “Mỗi gia đình đều có những khuôn mẫu cũng như các chứng tật trong suy nghĩ, niềm tin và hành vi, và tất cả những thứ đó được truyền từ đời này sang đời khác theo cách tương tự như quá trình truyền lại một đặc tính thể chất”. Và mặc dù ta thích khoe khoang về sức mạnh hay thành tựu của những người đi trước, Iyanla cũng có nói: “Nhiều đặc tính có ý thức hay không có ý thức trong số này rất mạnh mẽ và hữu ích. Số khác thì không”.
Thành ra, tôi tò mò muốn biết khoa học nói gì về điều này. Từ góc độ sinh học, các đặc tính tâm thần, cảm xúc và hành vi có thể được truyền qua nhiều thế hệ hay không?
TIẾN SĨ PERRY: Hoàn toàn có thể đấy – từ thế hệ này sang thế hệ khác. Không chỉ thế, chúng còn có thể chuyển giao qua nhiều con đường (xem Hình 9). Lấy ví dụ câu hỏi của chị về nỗi sợ. Nói cho đúng thì, câu hỏi “Liệu ta có thừa hưởng cảm giác sợ hãi hay không?” cũng tương tự như câu hỏi “Đặc tính đó có phải đã được mã hóa trong gene và truyền đến ta từ cha mẹ ta không?”. Vậy thì câu trả lời sẽ hơi mơ hồ.
Hình 9
CÁC CƠ CHẾ CHUYỂN GIAO XUYÊN THẾ HỆ
Di truyền
– DNA
Ngoại di truyền (sửa đổi và kiểm soát biểu hiện gene)
– Sửa đổi histone
– Methyl hóa DNA
Trong tử cung
– Hoàn cảnh của người mẹ (như stress)
– Yếu tố độc hại từ môi trường
– Các thứ khác (như rượu, ma túy,.. )
Trải nghiệm chu sinh
– Liên kết và gắn bó (định hình đặc tính cốt lõi của các mối quan hệ và kiểu điều hòa căn bản)
Sau sinh
– Qua trung gian gia đình (như ngôn ngữ, các giá trị và niềm tin)
Sau sinh
– Qua trung gian giáo dục, cộng đồng và văn hóa
Nhưng nếu hỏi khác đi một chút: “Nỗi sợ có thể truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác không? Sự sợ hãi của cha mẹ có thể truyền sang con cái không?”, thì câu trả lời là “Có!”, rõ ràng.
Bản chất con người chúng ta, như đã nói, là những sinh vật sống nhờ mối quan hệ, là sinh vật xã hội. Và vì vậy, về mặt sinh học thần kinh, ta hòa vào với những người khác, ta chăm chú, cẩn thận quan sát xung quanh để lý giải sự vật, sự việc. Một phần bộ não ta liên tục theo dõi những người quanh mình, cố gắng thấu hiểu ý định và cảm xúc của người khác. Đó là một phần của quá trình tìm hiểu thế giới – ta cảm nhận và tiếp thu cảm xúc của những người xung quanh. Điều này đặc biệt đúng với những người ta dành nhiều thời gian ở cùng và phụ thuộc vào họ. Trẻ con đặc biệt rất dễ bị lây lan cảm xúc. Hãy nghĩ về chị và bà của chị trong câu chuyện mà chị đã chia sẻ. Nỗi sợ của bà đã truyền sang chị – chị “bắt lấy” nỗi sợ của bà và đưa nó vào trong thời đại của chị.
OPRAH: Vâng, tôi cảm nhận được nỗi sợ của bà mình. Mà bà là người phụ nữ mạnh mẽ “cai quản” cả nhà đấy; đó là một phản ứng bất thường ở bà. Vậy nên tôi biết đó là một tình huống cực kỳ nguy hiểm, và tôi cho rằng chính trải nghiệm ấy đã thay đổi tôi, từ sâu trong cốt tủy.
Suy nghĩ về cộng đồng người Mỹ gốc Phi, tôi thấy tôi có thể truy ngược vết thương lòng về nhiều thế hệ trước, về tận cái thời còn chế độ chiếm hữu nô lệ. Tổn thương hàng trăm năm từ nạn phân biệt chủng tộc, sự cô lập, bạo tàn, nỗi sợ hãi và sự tan rã của các gia đình hạt nhân – tất cả được nhân rộng, lặp lại nhiều lần ở cấp độ vi mô cá nhân và cuối cùng được nhìn thấy và cảm nhận ở cấp độ vĩ mô xã hội. Đó là lý do vì sao những cuộc biểu tình liên quan đến phong trào Black Lives Matter vào năm 2020 lại mạnh mẽ đến như vậy. Cá nhân ở cấp độ vi mô và xã hội ở cấp độ vĩ mô đều đã đạt tới tột đỉnh của nỗi đau.
TIẾN SĨ PERRY: Và tôi phải nói rằng, nếu hiểu rõ hơn cách mà nỗi đau đó, sang chấn đó, được chuyển từ thế hệ này sang thế hệ khác, ta sẽ có thể ngăn chặn và chuyển hóa nó một cách chủ động và hiệu quả hơn.
Việc này đưa chúng ta trở lại với khả năng chuyển giao – sự lây lan cảm xúc. Từ khả năng chuyển giao được dùng để mô tả khả năng một đặc tính (hoặc kỹ năng, niềm tin,...) được truyền từ người này sang người khác. Khi trẻ được nuôi dưỡng trong một gia đình chỉ nói tiếng Tây Ban Nha rồi nói tiếng Tây Ban Nha khi lớn lên, chúng không “thừa hưởng” tiếng Tây Ban Nha. Khả năng tạo liên kết giữa âm thanh với hình ảnh đa phần thuộc về yếu tố di truyền, nhưng cách cụ thể mà ta dùng để biến khả năng di truyền này thành một ngôn ngữ cụ thể nào đó không liên quan gì đến di truyền cả. Không tồn tại loại gene gọi là gene tiếng Trung hay tiếng Anh hay tiếng Tây Ban Nha.
Nhưng, ngôn ngữ có thể được chuyển giao. Trong giai đoạn đầu đời, các hệ thống liên quan đến ngôn ngữ trong vỏ não ta rất giống bọt biển, và chúng sẽ biến đổi khi ta tương tác với những người xung quanh theo những cách khác nhau, bao gồm lời nói. Bằng cách nói chuyện với trẻ, ta sẽ thay đổi bộ não của bé. Bằng cách ấy, trẻ sẽ học được ngôn ngữ của gia đình mình.
Đó là một quá trình phụ thuộc vào trải nghiệm, và quá trình này cũng có thể áp dụng tương tự với nhiều đặc tính khác, kể cả các giá trị và niềm tin. Những thứ này không được mã hóa về mặt di truyền – chúng được học hỏi, tiếp thu, đôi khi sửa đổi và sau đó dạy lại cho thế hệ sau bằng ví dụ, hướng dẫn có chủ đích và quán tính. Một số đặc tính phức tạp, như lòng vị tha, sẽ đòi hỏi siêu cấu trúc di truyền (genetic superstructure); nhưng cách ta kết hợp chúng với các tín ngưỡng và phương pháp thực hành phức tạp của các tôn giáo như đạo Phật, đạo Cơ Đốc hay đạo Hồi thì không phải di truyền. Có thể có những yếu tố di truyền khiến ta cảnh giác hay thủ thế khi tương tác với người có những đặc điểm quá khác so với các thành viên trong gia đình hay dòng tộc; nhưng chủ nghĩa phân biệt chủng tộc lại là một loạt niềm tin về tính ưu việt của một chủng tộc, và đây lại là thứ mà ta có thể học được, chứ không phải là di truyền, trên thực tế là vấn đề quyền lực, sự thống trị và áp bức.
Ngôn ngữ ta nói, niềm tin ta nắm giữ – cả tốt lẫn xấu – được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua trải nghiệm. Có rất nhiều khía cạnh của trải nghiệm làm người được tạo ra – chứ không phải đơn giản đã có sẵn trong gene. Mười ngàn năm trước, loài người đã có tiềm năng di truyền về việc đọc sách, nhưng chưa một người nào trên hành tinh biết đọc cả. Tiềm năng di truyền liên quan đến khả năng chơi piano cũng đã tồn tại, nhưng nào có một ai biết chơi. Tiềm năng úp rổ, đánh máy, đạp xe,... tất cả đều đã có, nhưng tất cả đều chưa được biểu hiện.
Loài người, hơn bất cứ giống loài nào khác, có thể tiếp nhận kinh nghiệm được tích lũy, sàng lọc qua nhiều thế hệ trước rồi tiếp tục trao truyền những phát minh, niềm tin và kỹ năng ấy cho thế hệ sau. Đây là sự tiến hóa về văn hóa xã hội. Ta học hỏi từ người lớn hơn, và ta phát minh, đồng thời trao truyền những gì đã học và đã phát minh cho thế hệ kế tiếp. Cơ quan cho phép ta làm việc này là bộ não – cụ thể là vỏ não. Như chúng ta đã nói đến, vỏ não là phần người độc nhất trong cơ thể ta, vậy nên không có gì phải ngạc nhiên khi vỏ não sinh ra hầu hết những khả năng độc đáo nhất chỉ có ở con người: ăn nói, ngôn ngữ, suy nghĩ trừu tượng, hồi tưởng quá khứ, dự tính tương lai. Những hy vọng, mơ ước và một phần lớn thế giới quan của chúng ta là do vỏ não định hình và sắp đặt.
OPRAH: Vậy, nếu các trải nghiệm từ thế hệ trước – các trải nghiệm góp phần tạo ra thế giới quan của ta – là tiêu cực, ta phải giải quyết như thế nào?
TIẾN SĨ PERRY: Đầu tiên, ta cần ý thức được rằng, mỗi khía cạnh của thế giới đều có thể ảnh hưởng đến ta, theo cách rất mạnh mẽ và thường chưa được biết đến.
Các phương tiện truyền thông, các thiết chế và hệ thống, các cộng đồng của ta – tất cả đều có thiên kiến. Trong rất nhiều trường hợp, ta truyền lại thông qua ngôn ngữ về sự ưu việt, vượt trội và áp chế theo những cách lặng lẽ và vô hình, nhưng lại vô cùng mạnh mẽ.
Vỏ não, phần phụ trách việc đọc, viết, làm toán, học lịch sử cũng như hình thành và định hình các niềm tin và giá trị của ta, là phần rất dễ uốn nắn. Ai cũng biết rằng, nếu xây dựng trải nghiệm lặp đi lặp lại những hướng dẫn liên quan tới việc nhìn mặt chữ, nghe âm của từ và nghe người khác đọc, cuối cùng ta sẽ xây dựng được năng lực sinh học thần kinh liên quan đến khả năng đọc hiểu. Ta học đọc. Bằng cách kích thích các mạng lưới thần kinh cụ thể theo cách lặp đi lặp lại, ta thay đổi bộ não. Đây là sự trao truyền kỹ năng dựa trên kinh nghiệm từ thế hệ này sang thế hệ khác: dạy một đứa trẻ biến đổi não bộ. Và với bộ não đã được biến đổi này, đứa trẻ sẽ lớn lên, dạy lại những gì mình đã học cho thế hệ tiếp theo. Đó là sự chuyển giao xuyên thế hệ, chuyển giao cho thế hệ tiếp sau.
Những niềm tin của ta cũng thế – những niềm tin nhân đạo và nhân ái, và cả những niềm tin thù ghét, áp bức, vô nhân đạo. Chính đặc tính dễ uốn nắn của não bộ – tính chất giống bọt biển cho phép trẻ sơ sinh tiếp thu và học hỏi ngôn ngữ từ cha mẹ – đã cho phép trẻ tiếp thu những niềm tin, cả tốt lẫn xấu, của những người lớn có ảnh hưởng đến chúng.
Vậy cho nên, hiểu được cách ta trao truyền cho thế hệ kế tiếp là một việc rất quan trọng. Nếu muốn làm giàu thêm việc truyền tải các giá trị, niềm tin và thực hành nhân đạo, nhân ái, giảm thiểu chuyển giao niềm tin hận thù, phá hoại, ta cần hết sức lưu ý đến những gì ta cho con em mình tiếp xúc. Chúng có đang dành thời gian cho những người khác mình không? Sự đa dạng có được tôn vinh ở môi trường quanh chúng? Hay chúng được dạy phải sợ hãi và phán xét bất kỳ ai không nghĩ, không nói và không trông giống bản thân? Sự trao truyền định kiến qua các thế hệ có thể bị gián đoạn. Ta có thể ngưng chuyển tiếp niềm tin hận thù, phá hoại và sai lầm cho thế hệ sau, nhưng để làm được như vậy thì phải hết sức chú tâm về cách mà ta ảnh hưởng tới đứa con ẵm ngửa, mới chập chững biết đi và còn thơ dại của mình. Phải nghĩ về những hình ảnh chúng thấy trên báo chí ta đọc, những người ta chào đón đến nhà, cách ta đối xử với người khác ta. Và đó mới chỉ là khởi đầu. Ta còn cần thay đổi rất nhiều khía cạnh trong thế giới xung quanh nữa. Tất cả những điều ấy đều có thể ảnh hưởng đến quá trình chuyển giao xuyên thế hệ.
OPRAH: Điều này khiến tôi nghĩ đến một điều – điều tôi đã biết, đã thuộc nằm lòng suốt cả đời và ngày càng hiểu sâu sắc hơn: Mọi thứ đều quan trọng . Mọi thứ từng xảy ra với ta, từng xảy ra với mẹ ta, cha ta, từng xảy ra với ông bà ta, Tất cả đều quan trọng.
TIẾN SĨ PERRY: Trải nghiệm của bản thân ta lẫn những tiếng vọng từ trải nghiệm của ông bà tổ tiên đều ảnh hưởng đến cách ta suy nghĩ, cảm nhận và hành xử. Chúng là yếu tố quan trọng quyết định sức khỏe tổng thể của ta. Ý thức được như thế có thể giúp ta nhớ rằng mọi thứ ta làm ngay lúc này sẽ vang vọng tới tương lai. Hành động của chúng ta ngay hiện tại là vô cùng quan trọng, ta đang tác động tới các thế hệ tương lai. Vậy ta đã chú tâm như cần phải thế chưa?
OPRAH: Hành động của ta có tác động lan tỏa rất lớn. Vì vậy, việc hiểu chuyện gì đã xảy ra càng thêm quan trọng đối với sự tiến hóa của ta.
TIẾN SĨ PERRY: Và điều này đưa ta ngược về câu hỏi đơn giản của chị: “Cảm giác sợ hãi cao độ có thể di truyền không?”. Giờ ta hãy trả lời cho xong câu hỏi này.
Một trong những cách trao truyền thông tin quan trọng nhất là truyền qua gene. Và một vài khía cạnh của các hệ thống ứng phó với căng thẳng của ta “có thể được di truyền”; các cơ chế di truyền có vị trí quan trọng trong cách thức hoạt động của các mạng lưới điều tiết cốt lõi CNR (xem Hình 2).
Một số người dường như được di truyền phẩm chất “cứng cỏi” – họ có khả năng đón nhận và chịu đựng nhiều loại cảm giác phức tạp và tác nhân gây căng thẳng hơn. Những người này khó rơi vào tình trạng rối loạn kiểm soát. Trái lại, có những người dường như sinh ra cùng hệ thống ứng phó mẫn cảm với căng thẳng. Họ dễ bị ngợp trước những thay đổi nhỏ trong quá trình nhận thức những cảm giác phức tạp. Đôi khi, những người này bộc lộ phẩm chất gọi là “tính khí khó xoa dịu” từ lúc mới chào đời.
Ngoài các yếu tố di truyền liên quan tới việc điều hòa căng thẳng thì ta còn có thể thừa hưởng cả các yếu tố ngoại di truyền. Ngoại di truyền lại là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi nhưng khó hiểu nữa trong lĩnh vực của chúng tôi, vì vậy có lẽ tôi cần nói sơ qua một chút.
Mọi tế bào trong cơ thể đều có cùng các gene như nhau, nhưng không phải tế bào nào cũng có cùng các gene “được bật”. Đó là vì một số gene chuyên về xương, một số về máu, một số về thần kinh,... Chẳng hạn trong quá trình phát triển, các gene tham gia vào cơ cấu tế bào cơ có thể được “bật lên” trong khi các gene liên quan đến máu, xương và não “bị tắt”. Khi các tế bào trở nên “chuyên môn hóa”, nhiều gene trong chúng bị tắt đi.
Tuy nhiên, trong một số tình huống, như khi quá đói, cơ thể gửi thông điệp hóa học đến các gene bị tắt, yêu cầu chúng bật trở lại. Này, bình thường bọn tôi không cần đến các anh, nhưng vì ta đang đói quá, phải sử dụng đường và chất béo hiệu quả hơn, nên phải bật các anh lên để làm việc đó. Đây được gọi là thay đổi ngoại di truyền (epigenetic) – epi trong tiếng Hy Lạp là “bên trên”, bởi các gene thực tế không hề thay đổi, nhưng cơ chế tế bào “bên trên” gene có thể bật các gene chủ chốt lên và tắt các gene khác đi. Quá trình điều chỉnh gene này diễn ra liên tục trong cơ thể, cố giữ cho ta “cân bằng” – được điều hòa tốt và khỏe mạnh nhất có thể.
Giờ thì, như đã nói, các kiểu mẫu căng thẳng khác nhau có thể đưa đến kết quả mẫn cảm hoặc kiên cường. Trong cả hai trường hợp, những thay đổi ngoại di truyền đều tham gia vào quá trình thay đổi độ nhạy của các CRN. Đây là một ví dụ khác của tính linh hoạt phi thường của cơ thể trong việc tạo ra những thay đổi nhằm giữ cho ta cân bằng.
Trong một số trường hợp, thay đổi ngoại di truyền được lưu lại trong trứng hoặc tinh trùng và truyền sang thế hệ sau. Hãy trở ngược lại vài thế kỷ, hình dung về một chàng trai trẻ bị bắt ở châu Phi, bị áp bức tàn bạo, bị xiềng xích, bỏ đói, bị chở trên tàu buôn nô lệ đến một cuộc sống khốn cùng đầy những mất mát, bạo lực và nhiều hình thức sang chấn. Việc sống sót sau những sang chấn cực độ, nhiều lần và không ngớt như vậy – như hàng triệu con người phi thường khác đã sống sót – rất dễ tạo nên một loạt thay đổi, trong đó có cả mức độ điều chỉnh biểu hiện gene. Phải nói rõ là bản thân gene không thay đổi, thay vào đó, như vừa đề cập ở trên, chúng có thể được bật lên hay tắt đi. Con cái của chàng trai kia, rồi đến cháu chắt, vẫn là thân phận nô lệ và chịu đựng những sang chấn khác, sẽ được lợi từ những sự thích nghi dưới dạng phân tử, ngoại di truyền này. Nhưng như ta cũng đã nói, việc có một mạng lưới ứng phó với căng thẳng mẫn cảm dai dẳng cũng có cái giá phải trả. Khả năng cao là, qua nhiều thế hệ khác, trong các môi trường khác, những thay đổi từng một thời là thích nghi đúng sẽ trở thành thích nghi sai.
Hãy hình dung một đứa trẻ được sinh ra với bộ máy ứng phó đã sẵn sàng cho các sang chấn, cho một thế giới khó lường, hỗn loạn và đầy đe dọa. Nếu thế giới không còn hỗn loạn, đe dọa và khó lường quá mức nữa, những thay đổi ngoại di truyền đã sửa soạn sẵn có thể tạo nên một thế giới quan ít nhiều méo mó. Nghiên cứu ngoại di truyền học vẫn còn rất non trẻ và còn nhiều điều phải tìm hiểu, nhưng có thể hiểu được rằng những trải nghiệm của ông bà ta, cụ kị ta và tổ tiên thậm chí còn xa hơn nữa có ảnh hưởng đáng kể đến biểu hiện DNA của ta, và để trả lời câu hỏi ban đầu của chị, những trải nghiệm đó ảnh hưởng đáng kể đến cảm giác sợ hãi của ta.
Tin tốt là ta vẫn có thể thay đổi bộ não. Có thể đảo ngược các cơ chế ngoại di truyền điều chỉnh gene – thực ra, cơ chế này sẽ không mang lại được nhiều lợi thế thích nghi nếu không làm được như thế. Mối đe dọa và sang chấn có thể đưa đến thay đổi ngoại di truyền thì tương tác nuôi dưỡng có thể đảo ngược thay đổi đó. Môi trường và các thách thức luôn thay đổi, và nếu muốn giữ cân bằng thì tâm sinh lý của ta cũng phải thay đổi.
OPRAH: Ở trên, ta đã nói về việc tuổi thơ bất trắc có thể gây ảnh hưởng như thế nào. Bây giờ, ta lại nói về những khuôn mẫu cảm xúc và hành vi, những niềm tin và trải nghiệm có thể được trao truyền qua các thế hệ ra sao. Từ đây, tôi càng thấu tỏ được rằng, ưu tiên của ta là phải hiểu chuyện gì đã xảy ra với ai đó. Tuy vậy, vẫn có nhiều người không có đủ cơ hội để tìm hiểu chuyện đã xảy ra với mình hoặc đủ nhận thức để hiểu những chuyện đã qua vẫn là một phần của họ, rằng những trải nghiệm ấy không phải là lỗi của họ.
Vậy, khi ta tìm hiểu về sự kết nối giữa lịch sử với sức khỏe cảm xúc và thể chất hiện tại, có những vấn đề tiềm ẩn nào cần lưu ý?
TIẾN SĨ PERRY: Một trong những khía cạnh quan trọng hơn cả là cách ta kết nối với người khác. Sang chấn trong quá trình phát triển có thể gây rối loạn trong khả năng xây dựng và duy trì các mối quan hệ. Trong các mối quan hệ chăm sóc, dù sang chấn hay bỏ bê xảy ra vào thời điểm nào thì cũng đều làm nảy sinh nguy cơ các mạng lưới thần kinh tham gia vào việc hiểu và phản hồi người khác sẽ bị què quặt, thậm chí là nguy cơ cao nữa là đằng khác. Khi năng lực kết nối và gắn bó bị suy yếu, ta sẽ gặp khó khăn trong việc kết bạn, trong nhà trường, trong công việc, trong gia đình và trong các mối quan hệ thân mật; thậm chí còn có nguy cơ lặp lại các kiểu ngược đãi xuyên thế hệ.
OPRAH: Có người gần như không thể hòa nhập. Họ nổi khùng lên với sếp. Họ không phải là người bạn đáng tin. Họ phá hoại những mối quan hệ mới.
TIẾN SĨ PERRY: Tuy nhiên, ấy lại là những người hầu như luôn thật tình khao khát được kết nối. Họ thậm chí còn có thể rất giỏi bắt đầu các mối quan hệ, họ chỉ dở tệ trong việc duy trì chúng mà thôi. Và tất nhiên, vì chúng ta, từ sâu tận trong cốt lõi là những sinh vật sống nhờ quan hệ, nên khó khăn này tàn phá cả về mặt sinh lý lẫn tâm lý. Nó dẫn đến sự xa cách, tách biệt, cô độc và dẫn đến đủ mọi loại vấn đề khác, gồm cả nguy cơ mắc phải những vấn đề về sức khỏe thể chất.
OPRAH: Đây là lý do vì sao, ngoài cộng đồng chăm sóc sức khỏe tâm thần, các nhân viên chăm sóc sức khỏe và các bác sĩ trong mọi lĩnh vực cũng cần cân nhắc đến những chuyện từng xảy ra với các bệnh nhân bên cạnh các vấn đề về sức khỏe thể chất mà họ mắc phải.
TIẾN SĨ PERRY: Đúng! Và sức khỏe thể chất cũng là một khía cạnh tiềm tàng các vấn đề lớn liên quan tới sang chấn phát triển. Như ta đã nói ở các chương trước, nghịch cảnh phát triển làm tăng nguy cơ mắc phải đủ kiểu vấn đề về sức khỏe, bao gồm bệnh tim mạch, hen suyễn, bệnh tự miễn và các vấn đề ở đường tiêu hóa. Hiểu được mối tương quan giữa sức khỏe thể chất với sang chấn có thể thay đổi cách ta chẩn đoán và điều trị các vấn đề này.
Bệnh tiểu đường là một ví dụ tuyệt vời. Trên thế giới có 415 triệu người mắc bệnh này. Ở Mỹ, con số ước tính là 34 triệu – tức hơn 10%. Có 88 triệu người Mỹ trưởng thành bị tiền tiểu đường và có nguy cơ mắc các bệnh tim mạch chuyển hóa. CRN bị sang chấn biến đổi (xem Hình 2) sẽ kéo theo những vấn đề điều tiết sâu xa, gồm cả việc điều tiết lượng insulin và lượng đường trong máu. Cả nguy cơ mắc bệnh tiểu đường và khả năng kiểm soát bệnh tiểu đường đều liên quan đến lịch sử sang chấn.
OPRAH: Vâng, xin phép ngắt lời anh một chút, vì tôi biết có người sẽ bảo: “Tiểu đường hoàn toàn là vấn đề sinh học”. Nhưng cuộc trò chuyện này đã cho thấy, cũng như nghiên cứu của anh suốt 30 năm qua đã chứng minh, mọi thứ không tồn tại tách bạch với nhau, không có thứ gì cả. Sức khỏe thể chất và sức khỏe tâm thần của chúng ta tác động lẫn nhau rất chặt chẽ.
TIẾN SĨ PERRY: Chắc chắn rồi. Tôi biết phần lớn mọi người khi nghĩ về sức khỏe – kể cả nhiều bác sĩ – luôn tách biệt “sinh học” với “tâm lý học”. Rất thường xuyên, cộng đồng y tế đã gạt đi các triệu chứng thể chất liên quan tới sang chấn như đau đầu hay đau bụng – những triệu chứng này xuất hiện do phản ứng phân ly mẫn cảm. Từ kho tư liệu về bệnh đau bụng do một trung tâm y tế hàn lâm phát hành vào năm 2020, chúng tôi đã tìm được một ví dụ: có một cơ sở đã giảng dạy các bác sĩ mới rằng, “Phần lớn trẻ em và thiếu niên bị đau bụng tái phát có biểu hiện đau bụng cơ năng hoặc đau ‘không tự nhiên’, nghĩa là cơn đau không phải do bất thường thể chất gây ra”.
Câu này hàm ý cơn đau xuất hiện là do “tâm lý” hoặc “bệnh tưởng”. Đó là hành động gạt bỏ. Thực sự là nhiều vấn đề sức khỏe liên quan tới sang chấn đã bị gạt đi, bị bỏ sót và bị hiểu sai. Nhưng một khi đã hiểu hơn về khoa học thần kinh cùng cách mà các giác quan và bộ não của ta chuyển trải nghiệm thành hoạt động sinh học, sự phân biệt ấy sẽ biến mất. Nếu hiểu các cơ chế sinh học thần kinh liên quan đến sang chấn, ta sẽ biết ngay rằng: bất thường thể chất gây ra cơn đau bụng thường xuất hiện cùng biểu hiện phân ly mẫn cảm. Ta bắt đầu thấy rằng thế giới quan của một người có thể thay đổi hệ miễn dịch của họ, và rằng cuộc trò chuyện tích cực cùng bạn bè có thể ảnh hưởng như thế nào tới chức năng tim hay phổi của bệnh nhân vào ngày hôm đó. Mối liên kết sẽ trở nên rõ ràng. Đúng như chị đã nói, mọi thứ đều quan trọng.
Quan trọng hơn cả, chị hiểu được rằng, sự gắn kết và cảm giác thuộc về là vấn đề sinh học, và sự mất kết nối hoàn toàn có khả năng hủy hoại sức khỏe của ta. Sang chấn khiến ta bị mất kết nối và điều đó tác động đến mọi hệ thống trong cơ thể.
Xin kể ra một ví dụ. Tôi từng được yêu cầu tham gia hội chẩn cho Tyra, một cô bé 16 tuổi nhập viện vì bệnh tiểu đường. Tyra mắc tiểu đường tuýp 1, phụ thuộc insulin (IDDM), đôi khi còn gọi là “tiểu đường thanh thiếu niên”. Nói rõ ràng hơn thì dạng tiểu đường này liên quan tới cả yếu tố di truyền lẫn một số trải nghiệm nghiêm trọng đầu đời (ví dụ như nhiễm trùng hoặc phản ứng tự miễn). Tôi không cho rằng ca IDDM của Tyra là do sang chấn gây ra; bệnh đã được chẩn đoán lúc Tyra còn nhỏ hơn nhiều và cũng đã được kiểm soát tốt từ trước khi nhập viện. Cô bé biết cách tự kiểm tra đường huyết và tự tiêm insulin.
Tyra nhập viện trong tình trạng hôn mê do tiểu đường; lượng đường huyết tăng quá cao gây bất tỉnh. Đội ngũ y tế đã xử lý khủng hoảng và cô bé đã ổn định trở lại. Vài ngày sau, dù liên tục cố gắng xác định đúng liều lượng insulin nhưng đội ngũ y tế bệnh viện vẫn không thành công. Liều có vẻ hiệu quả vào buổi sáng hóa ra lại quá cao (khiến lượng đường trong máu của Tyra tuột dốc) hoặc quá thấp (khiến lượng đường trong máu cô bé vọt lên mức nguy hiểm). Người ta bắt đầu nghĩ rằng Tyra đang cố tình điều chỉnh mức insulin hoặc lén ăn đồ ngọt. Họ không thể hiểu nổi tình trạng đường huyết lên xuống điên khùng của cô bé trước liều lượng insulin mà họ cho là thích hợp. Nghi ngờ Tyra có hành vi tự hủy hoại, họ yêu cầu một bác sĩ tâm thần đến và tham vấn cho cô bé.
Tôi gặp Tyra trong phòng bệnh. Cô bé trông tích cực, dễ chịu, hợp tác và bối rối bởi việc đội ngũ y tế không thể tính được lượng insulin cho mình. Cô bé vẫn quản lý tốt được liều lượng của bản thân trong nhiều năm kia mà.
Cuộc trò chuyện của chúng tôi diễn ra chừng 10 phút, Tyra đột nhiên im bặt và rõ là căng thẳng. Tôi tưởng mình đã làm gì sai. Rồi tôi nhận thấy cô bé đang nhìn ra cửa sổ, theo hướng chiếc xe cứu thương đang chạy vào phòng cấp cứu. Nếu làm việc tại bệnh viện, chị sẽ nghe thấy tiếng còi cấp cứu suốt cả ngày và không để ý đến nó nữa. Tôi thậm chí còn không nhận thấy. Nhưng Tyra thì có.
“Bác đo nhịp tim cháu được không?”, tôi hỏi.
Câu hỏi làm cô bé sực tỉnh. “Được ạ”.
Tôi đến gần, cầm lấy cổ tay cô bé: 128 nhịp/phút. Rất cao đối với một thiếu niên đang nghỉ ngơi.
“Hình như tiếng còi xe cứu thương đã khiến cháu khó chịu”.
“À. Chắc vậy ạ. Nó khiến cháu tự hỏi không biết ai bị thương”.
“Cháu có biết người nào đã phải lên xe cứu thương không? Tất nhiên là trừ cháu ra”. Câu hỏi khiến cô bé chững lại và bất động trong vài giây. Tôi cứ để yên như vậy.
Cuối cùng, Tyra chớp mắt và khẽ kể. “Khoảng hai tuần trước, cháu cùng vài người bạn đến công viên chơi. Bọn cháu ngồi ở một bàn picnic. Bọn cháu chẳng làm gì hết”.
“Cháu không cần phải nói về chuyện đó đâu”.
“Không. Không sao ạ”. Tôi không dám chắc nhưng vẫn để cô bé tiếp tục kể.
“Cháu thậm chí còn không nghe thấy tiếng súng. Keisha bảo là nghe thấy. Cháu đang ngồi ngay bên Nina, thế rồi đột nhiên bạn ấy nhìn thẳng vào cháu. Mắt bạn ấy trợn ngược, như thế này...”. Tyra mở to mắt cho tôi thấy.
“Bạn ấy trông rất sửng sốt – kêu lên một tiếng rồi đổ ập xuống. Máu loang khắp lưng bạn ấy”. Tôi có thể thấy Tyra đang trở lại khoảnh khắc đó; nỗi sợ và sự bối rối hiện trên gương mặt em rất rõ ràng.
Khi không còn nghe thấy tiếng còi bên ngoài, Tyra kể tiếp. “Rồi có tiếng còi và xe cảnh sát. Mãi sau xe cứu thương mới đến. Họ đưa Nina đi. Lúc đó là giữa trưa. Bọn cháu chỉ ngồi ở đó thôi”.
Tôi lại cầm cổ tay Tyra. Nhịp tim lên tới 160bpm. Cô bé thở gấp, rõ ràng đang trong trạng thái sợ hãi (xem Hình 6).
“Các bác sĩ có biết chuyện đã xảy ra không?”.
“Cháu không nghĩ thế. Sao họ biết được chứ?”.
“Ừ. Cháu nói đúng, bác không nghĩ họ đã hỏi cháu những việc này. Vậy thì Tyra, để bác nói cháu nghe bác nghĩ lượng insulin của cháu đang có vấn đề gì nhé”. Tôi vẽ hình tam giác ngược và nói về phản ứng với căng thẳng, cách cơ thể chuẩn bị để ta chiến đấu hay trốn chạy mỗi khi ta sợ hãi.
Tyra hiểu insulin giúp đưa đường từ máu vào các tế bào của cơ thể, nhưng không biết gì về chuyện adrenaline được giải phóng vào lúc hiểm nghèo hay lúc bị đe dọa thực sự đã huy động lượng đường dự trữ để hỗ trợ cho hành vi chiến hay biến. Adrenaline làm tăng lượng đường trong máu. Phản ứng với căng thẳng của Tyra, bị kích hoạt quá mức bởi sang chấn mới đây, đã làm tăng lượng adrenaline – vì vậy mà lượng đường trong máu cao hơn hẳn. Liều lượng insulin từng hiệu quả nay đã không còn phù hợp. Thêm vào đó, khi Tyra đối mặt với bất kỳ dấu hiệu kích động nào, như tiếng còi xe, hệ thống quá mẫn cảm của cô bé đã phản ứng quá mức, giải phóng lượng adrenalin quá cao, dẫn đến lượng đường quá nhiều. Thành ra khi ở đây, mỗi ngày, việc chốc chốc lại có tiếng còi xe cứu thương đã khiến lượng đường trong máu Tyra cứ thế mà tăng lên. Cô bé không ăn gian insulin hay ăn vụng đồ ngọt. Câu hỏi “Chuyện gì đã xảy ra?” với Tyra đã thay đổi được bộ điều chỉnh lượng đường huyết thường xuyên biến động của cô bé.
Chúng tôi chuyển Tyra sang phía khác của bệnh viện, nơi không còn tiếng còi hú liên miên, và bắt đầu trị liệu. Chỉ trong vài ngày, một chế độ insulin ổn định đã được thiết lập và cô bé đã được về nhà.
OPRAH: Các bác sĩ không thể giải thích điều đang xảy ra về mặt sinh học nên cứ nhè cô bé ra mà trách cứ. Họ không nghĩ rằng một số sang chấn có thể ảnh hưởng đến các hoạt động sinh lý.
TIẾN SĨ PERRY: Họ thậm chí còn không buồn hỏi. 20 năm trước, sang chấn chưa từng thực sự được coi là một yếu tố liên quan mật thiết đến sức khỏe con người. Thành thật mà nói, khi đó, nó còn hiếm khi được coi là một yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần của bất kỳ ai. Đến tận ngày nay, vai trò của sang chấn và tuổi thơ đối với sức khỏe tâm thần và thể chất vẫn còn bị đánh giá khá thấp.
Trẻ em và người lớn bị sang chấn phát triển thường bị đau bụng, đau đầu, đau ngực, ngất xỉu, và có các cơn giống như co giật – tất cả đều là những triệu chứng rất phổ biến liên quan đến phản ứng mẫn cảm với căng thẳng. Phần lớn bác sĩ, nếu không thấy được những biểu hiện y khoa điển hình này, sẽ quy cho các triệu chứng ấy là “chức năng” hay “tâm lý”. Thái độ gạt bỏ kiểu này chỉ càng xát thêm muối vào vết thương.
OPRAH: Anh thực sự đã cố gắng giải quyết vấn đề này trong nhiều năm nghiên cứu của mình. Một trong những thuật ngữ mà tôi nghe anh sử dụng khi giảng dạy về bộ não và sang chấn là tính tuần tự . Ta từng đề cập đến rồi, nhưng anh có thể giải thích lại điều đó nghĩa là gì và tại sao lại quan trọng trong việc hiểu rõ chuyện gì đã xảy ra với ta không?
TIẾN SĨ PERRY: Được chứ. Tuần tự là xảy ra theo trình tự, theo một loạt các bước – trước hết là a, rồi b, rồi c. Và như đã nói, bộ não của ta xử lý các trải nghiệm một cách tuần tự. Tất cả các đầu vào giác quan (cảm nhận, mùi, vị, hình ảnh, âm thanh) được xử lý trước hết ở các vùng não bên dưới; não bên dưới nhận tín hiệu trước nhất. Điều này có nghĩa là trước khi một trải nghiệm nào đó có cơ hội được phần “biết nghĩ” xem xét, phần não bên dưới đã diễn giải và phản ứng trước rồi. Nó so sánh các thông tin đầu vào – các cảm giác – của trải nghiệm mới với danh mục ký ức được lưu giữ, trước khi phần thông minh của não có cơ hội tham gia vào quá trình này.
Hình 10
TRÌNH TỰ TƯƠNG TÁC
Bộ não của ta liên tục nhận thông tin đầu vào từ cơ thể mình (nội cảm thụ) và từ thế giới (năm giác quan). Những tín hiệu này được xử lý tuần tự, với việc phân loại ban đầu diễn ra ở phần não dưới (thân não, não trung gian). Để lý luận với người khác, ta cần qua hết các phần bên dưới và lên được vỏ não - phần chịu trách nhiệm tư duy, bao gồm cả giải quyết vấn đề và nhận thức phản tư. Nhưng nếu ai đó bị căng thẳng, tức giận, cáu kỉnh hay mất cân bằng, đầu vào sẽ bị “chập” dẫn đến thông tin đưa lên vỏ não không đầy đủ, bị bóp méo. Đây là lúc trình tự tương tác xuất hiện. Nếu không đủ điều hòa thì rất khó kết nối với người khác, và không kết nối thì rất khó lý luận. Điều hòa, kết nối rồi lý luận. Cổ lý luận với người nào đó trước khi họ cân bằng trở lại là việc sẽ không đem lại kết quả và thực sự chỉ làm tăng bực tức (rối loạn điều hòa) cho cả hai bên. Muốn giao tiếp, giảng dạy, huấn luyện, nuôi dạy con cái và trị liệu hiệu quả thì đều đòi hỏi phải hiểu và tuân thủ trình tự tương tác.
Vấn đề là, như ta đã thấy trong trường hợp của Mike Roseman, phần não phía dưới không thể “báo thời gian”, thành ra đôi khi nó diễn giải thông tin đầu vào không chính xác. Nếu bất kỳ thông tin đầu vào nào khớp với ký ức đã được lưu trữ, phần não phía dưới sẽ phản ứng như thể trải nghiệm hiện tại là trải nghiệm từng xảy ra trong quá khứ. Rắc rối nảy sinh khi trải nghiệm quá khứ là một sang chấn. Bộ não của Mike đã so sánh tiếng pô xe máy với tiếng súng đạn và nỗi kinh hoàng của chiến tranh. Bộ não của Tyra đã khớp tiếng còi xe cứu thương với nỗi kinh hoàng về cái chết của bạn mình. Đối với chị, Oprah, việc ở một mình vào ban đêm đã khơi dậy ký ức về cái đêm bà của chị bị tấn công.
OPRAH: Như vậy, bộ não hiểu hai trải nghiệm là giống nhau mặc dù chúng xảy ra cách nhau hàng thập kỷ. Ta có thể thấy chúng là các sự kiện riêng biệt, nhưng não của ta lại cho chúng là một. Theo cách anh mô tả, đây là một dạng hiểu lầm bên trong não.
TIẾN SĨ PERRY: Đúng. Và việc hiểu được rằng não bộ xử lý mọi trải nghiệm một cách tuần tự còn giúp giải thích sự hiểu lầm giữa các bộ não – nói cách khác là giữa người với người. Suy cho cùng thì giao tiếp chính là ta đưa ý tưởng, khái niệm hoặc câu chuyện từ vỏ não của mình sang vỏ não của người khác, từ phần thông minh của bộ não mình sang phần thông minh của bộ não họ. Vấn đề là ta không giao tiếp thẳng từ vỏ não sang vỏ não. Ta phải đi qua các phần dưới của não. Tất cả suy nghĩ lý trí từ vỏ não của ta phải đi qua những bộ lọc cảm xúc của phần não dưới. Vẻ mặt của ta, tông giọng và lời lẽ của ta được giác quan của người khác chuyển thành hoạt động thần kinh trước khi bắt đầu quá trình tuần tự đối chiếu so sánh, diễn giải và chuyển lên vỏ não. Dọc đoạn đường này, ý nghĩa đằng sau hành vi giao tiếp có nguy cơ bị chiết tách, bóp méo, phóng đại, thu nhỏ hoặc mất hẳn là rất lớn.
Hãy nghĩ về điều sẽ xảy ra khi quá trình phản ứng với căng thẳng được kích hoạt. Sự bực bội, giận dữ và sợ hãi có thể đóng lại các phần của vỏ não. Khi ai đó bị rối loạn điều hòa, họ đơn giản là sẽ không thể dùng phần thông minh nhất của não mình nữa. Hãy xem lại Hình 6, chị càng đi xa về phía “đánh thức”, phần não bên dưới sẽ càng khống chế hoạt động của chị.
Trong công việc, chúng tôi hay nói về việc “lên vỏ não” – đến được phần não giúp ta giao tiếp thuận lợi với người khác. Nếu người này điều hòa, ta có thể kết nối với họ thuận lợi theo cách giao tiếp có lý trí. Nhưng nếu người này bị rối loạn, điều ta nói sẽ không thực sự lên được vỏ não của họ và khó mà tiếp cận được với những gì có ở vỏ não. Đây là điều cần phải hiểu nếu ta là giáo viên, vì cùng một lúc, đứa trẻ điều hòa có thể hiểu được bài giảng song đứa trẻ rối loạn thì lại không. Tương tự như vậy đối với việc giám sát mọi người trong môi trường làm việc hoặc giao tiếp với đồng nghiệp, với bạn đời, với con cái – với bất cứ ai. Điều hòa là bí quyết để tạo ra một kết nối an toàn. Và kết nối là cách trọn vẹn và hiệu quả nhất để đưa thông tin lên vỏ não. Giáo viên, huấn luyện viên, cố vấn, nhà trị liệu – tất cả đều phải phụ thuộc vào mối quan hệ để có thể tìm được con đường cao tốc dẫn lên vỏ não.
Chúng tôi dùng thuật ngữ trình tự tương tác để mô tả các bước liên quan đến quá trình một thông tin đi từ phần bên dưới lên trên vỏ não. Xin phép dẫn ra một ví dụ về việc ứng dụng trình tự này trong đời thực.
Trong nhiều năm, tôi đã có cơ hội làm việc với các cơ quan thực thi pháp luật, bao gồm cả Cục Điều tra Liên bang (FBI); công việc của tôi chủ yếu là giảng dạy về tác động của sang chấn và thẩm vấn những đứa trẻ. Có một thời gian tôi làm công việc tư vấn cho Lực lượng đặc nhiệm chống bắt cóc trẻ em và giết người hàng loạt của FBI. Trong vai trò này, tôi thỉnh thoảng được yêu cầu thẩm vấn trẻ em – các nạn nhân và nhân chứng.
Joseph là một cậu bé ba tuổi đã phải chứng kiến chị gái 11 tuổi của mình bị bắt cóc trước đó vài tuần. Vào thời điểm xảy ra vụ bắt cóc, hai chị em đang chơi loanh quanh trong khu phố, vào giữa buổi chiều. Khi Joseph chạy về nhà, cậu bé chỉ nói được với mẹ rằng: “Ông ta bắt Sissy”. Một tuần sau, người ta tìm thấy thi thể cô bé.
Cơ quan thực thi pháp luật địa phương và FBI đã thẩm vấn Joseph, nhưng em đã bị ngợp và không thể cung cấp đủ thông tin chi tiết về “ông ta” lẫn vụ bắt cóc.
Thẩm vấn trẻ ba tuổi trong hoàn cảnh nào cũng vô cùng khó khăn, tôi lại là một người hoàn toàn xa lạ đang xới lên trải nghiệm đau đớn nhất trong đời Joseph. Tôi biết mọi thông tin hữu ích được lưu trong ký ức tường thuật – sự kiện sẽ được diễn lại, được xây dựng lại trong não bộ cậu bé. Các yếu tố chính của ký ức tường thuật được lưu trữ trong các phần cao hơn của não, đặc biệt là vỏ não.
Tôi cũng biết, nỗi sợ sẽ ức chế nhiều hệ thống vỏ não nhằm đóng chúng lại, đóng cả những hệ thống liên quan đến ký ức tường thuật (xem Hình 11). Joseph không thể cung cấp cho tôi bất kỳ thông tin hữu ích nào nếu cậu bé không cảm thấy an toàn.
Nhận thức được sức mạnh của sự lan truyền xã hội, chị còn nhớ việc tụm bầy chứ, tôi suy luận rằng, nếu mẹ của Joseph có thể thể hiện tín hiệu rằng chị chấp nhận tôi và cảm thấy tôi quen thuộc, có thể cậu bé sẽ cảm thấy an toàn hơn khi ở bên tôi – một dạng “bạn của bạn là bạn của tôi”.
Một điều khác góp phần tạo nên cảm giác an toàn với người khác là lịch sử trải nghiệm tích cực với người này. Chị càng dành nhiều thời gian tích cực cho ai đó, bộ não của chị sẽ càng phân loại người này là an toàn và thân thuộc. Đó là lý do vì sao phải đến buổi trị liệu thứ mười hay mười hai thì bệnh nhân mới cảm thấy đủ an toàn để chia sẻ một số trải nghiệm khó khăn nhất của mình. Với liều lượng 50 phút mỗi tuần một lần của quá trình trị liệu truyền thống, sẽ phải mất 10 tuần để Joseph cảm thấy an toàn với tôi. Như thế là không có giá trị thực tiễn đối với kiểu thẩm vấn này.
Hình 11
SỰ PHỤ THUỘC TRẠNG THÁI VÀ KÝ ỨC
Trong trạng thái sợ hãi (rối loạn), một số hệ thống ở các vùng não cao hơn (ví dụ: vỏ não) sẽ tạm thời bị đóng. Điều này làm cho việc truy xuất ký ức tường thuật tuyến tính trước đó không hiệu quả. Một ví dụ điển hình là sự lo lắng khi đi thi; tuy kiến thức đã được lưu giữ nhưng trong nhất thời, việc truy xuất thông tin là không thể. Khi người ta được điều hòa, cảm thấy được kết nối và an toàn, nội dung đã được lưu giữ sẽ có thể được tiếp cận và khôi phục dễ dàng hơn.
Vậy làm thế nào để trở nên an toàn và thân thiết, thật nhanh, với Joseph đây? Làm sao để các mạng lưới trong não cậu bé xem tôi là đối tượng an toàn? Như cậu bé phải chứng kiến cái chết của mẹ trong vụ đột nhập, liều lượng – hay thời lượng kích hoạt – hợp lý đối với các mạng lưới thần kinh chỉ dài vài giây. Vậy nên thay vì 10 phiên, mỗi phiên 50 phút trị liệu để Joseph tạo ra một loạt ký ức về tôi, tôi sẽ tạo 10 hoặc 12 tương tác kéo dài năm phút. Tương tác, kết nối, làm rõ, tách ra: năm phút. Tương tác, kết nối, chơi đùa, tách ra: năm phút. Đi ra đi vào tầm mắt của cậu bé, trong không gian của cậu bé. Ghi nhớ tất cả các yếu tố có thể tác động đến cảm giác an toàn trong mọi tương tác. Những tương tác ngắn của tôi phải giảm thiểu mọi yếu tố gây rối loạn đồng thời tăng tối đa yếu tố điều hòa và kết nối.
Một phần vấn đề ở đây là sự chênh lệch uy quyền tự nhiên giữa người lớn với trẻ nhỏ. Ở mọi tương tác giữa người với người, bộ não của chúng ta đều thực hiện những tính toán phức tạp: Người này có an toàn không? Người này là bạn hay thù? Người này sẽ làm hại hay giúp đỡ mình? Người này đang tính làm gì? Người này đang cố làm gì? Người này muốn gì? Phép tính này giúp xác định vị trí của chúng ta trong thế chênh lệch uy quyền. Hai bên bình đẳng: Mình không cảm thấy bị đe dọa. Mình chiếm ưu thế: Mình an toàn. Họ chiếm ưu thế: Mình dễ bị tổn thương. Nếu cảm thấy bản thân dễ bị tổn thương, hệ thống ứng phó với căng thẳng của ta sẽ thay đổi tùy thuộc vào trạng thái mà ta rơi vào, và do đó, cách ta cảm nhận, suy nghĩ và diễn giải tương tác cũng thay đổi.
Tính toán quan hệ là để giữ cho ta an toàn và còn sống. Nếu không cảm thấy an toàn, ta trở nên rối loạn. Nhân tiện thì hàm ý của điều này rất sâu sắc; những động lực uy quyền được ghép vào các hệ thống chính trị xã hội của ta và đóng một vai trò then chốt, chẳng hạn như trong nạn phân biệt chủng tộc có hệ thống.
OPRAH: Tôi nhớ anh đã giải thích sự chênh lệch uy quyền bằng câu chuyện giọng nói của một người có thể được diễn giải theo nhiều cách khác nhau. Về tôi, khi ta đang nói về những thách thức liên quan đến vấn đề lãnh đạo ở OWLAG, anh đã bảo: “Tiếng thì thầm của chị nghe như tiếng hét”. Tôi đã bất ngờ thật đấy.
TIẾN SĨ PERRY: Vâng, chị là hiệu ứng Oprah. Khi ở trên đỉnh uy quyền, đôi khi ta không nhận ra uy quyền mà mình có hay tác động mà sự hiện diện đơn thuần của mình có thể gây cho người khác. Ta sẽ nói nhiều hơn về điều này khi bàn đến việc chữa lành.
Trong trường hợp này, hãy tưởng tượng một ông cao gần mét chín nói chuyện với đứa trẻ cao chưa đến một mét về kẻ giết hại chị nó – chênh lệch uy quyền là rất lớn. Nếu muốn tiếp cận vỏ não của đứa trẻ, tôi phải tìm cách giảm bớt chênh lệch.
Sau khi tôi nói chuyện với các đặc vụ FBI, người mẹ, và các thành viên cùng nhóm, chúng tôi quyết định việc thẩm vấn sẽ diễn ra tại nhà Joseph, nơi cậu bé cảm thấy an toàn nhất. Khi chúng tôi bắt đầu, người mẹ và tôi ngồi bên bàn bếp trò chuyện trong khi Joseph cảnh giác đi ra đi vào. Người mẹ giới thiệu tôi (chị đã được dặn dò từ trước).
“Joseph, lại đây con yêu”, chị ấy nói. “Đây là bác sĩ Perry, chú là bạn của mẹ”.
Joseph lo lắng lại gần. Tôi rời khỏi ghế và ngồi xuống sàn. Tôi cố giảm thiểu chênh lệch quá rõ về mặt thể chất, thu mình nhỏ lại để có thể giao tiếp bằng mắt với em.
“Chào Joseph. Chú là bác sĩ Perry. Chú đến thăm mẹ cháu và cháu đấy!”. Joseph nhìn tôi. Bởi ta thường sợ những điều không biết nên tôi muốn đứa trẻ biết tôi là ai, làm gì ở đây và tại sao tôi lại làm như vậy. “Chú là bác sĩ làm việc với những bạn nhỏ có gia đình gặp phải chuyện khó khăn ấy. Mẹ cháu đã kể với chú chuyện của chị cháu, chú rất tiếc”. Joseph ngưng cử động và nhìn chằm chằm vào khoảng không. “Hôm nay chú cháu mình sẽ cùng chơi. Rồi lát nữa, khi cháu đã sẵn sàng, chú sẽ hỏi mấy câu về chị cháu nhé”. Rồi tôi đứng dậy.
“Chú đi lấy cà phê đây”, tôi nói. “Cháu có muốn uống gì không?”.
Joseph không nhìn tôi và cũng chẳng nói gì.
Tôi hỏi người mẹ. “Chắc chắn rồi”, cô ấy nói, “tôi cũng uống cà phê nhé”.
Tất cả diễn ra trong khoảng ba phút. Tôi bước ra cửa trước. 10 phút sau, tôi trở lại, ngồi nói chuyện với người mẹ thêm 10 phút nữa trong lúc Joseph thơ thẩn ra vào bếp. Cậu bé lúc này đã tiến đến gần bàn bếp hơn. Có mấy chiếc xe tải đồ chơi trên sàn. Tôi ngồi xuống và cầm lấy một chiếc. Thoạt đầu, Joseph phớt lờ, nhưng sau đó cậu bé đi đến và thận trọng kéo chiếc xe ra xa tôi.
“Chú xin lỗi Joseph nhé. Lẽ ra chú phải xin phép trước”. Em ngồi cách tôi mấy bước và làm bộ như vẫn đang chơi chiếc xe tải. Sau đó tôi đứng dậy, nói: “Chú phải đi làm chút việc, nhưng chú sẽ quay lại”, rồi lại ra ngoài.
Khoảng 10 phút sau, tôi quay lại, lần này thì mang theo giấy với bút màu. Tôi ngồi ở bàn bếp lặng lẽ tô. Mẹ Joseph ngồi cùng tôi, nhâm nhi cà phê. Tò mò, Joseph mon men lại gần xem. Tôi không nhìn cậu bé mà từ từ chìa một cây bút màu và giấy ra. Joseph không cầm.
Tôi lại xuống sàn và cầm theo giấy với bút màu. Joseph đẩy chiếc xe đồ chơi đến trước mặt tôi. Tôi đón lấy và đưa lại cho em giấy cùng mấy cây bút màu. Cậu bé nằm sấp ngay bên cạnh tôi, chúng tôi im lặng tô màu trong khoảng 5 phút. Sau đó tôi đứng dậy. Joseph nhìn theo như muốn hỏi tôi định đi đâu. “Chú sẽ quay lại. Cháu trông giúp chú mấy cây bút màu này được chứ?”.
“Dạ”, em nói với tôi lời đầu tiên.
Cứ như thế thêm khoảng ba lần nữa. Đến một lúc, Joseph nói: “Đây là đồ chơi cháu thích nhất”. Cậu bé cầm tay tôi dắt vào phòng mình. Chúng tôi xem hết đống đồ chơi. Joseph đã nói trọn vẹn một câu, đã tương tác với tôi, đã cảm thấy thoải mái. Tôi đã có thể đưa cậu bé trở lại trạng thái điều hòa thông qua trò chơi, việc tô màu lặp đi lặp lại theo mẫu, sự chứng thực mối quan hệ từ người mẹ, việc đi lại và trò chuyện. Và sau mấy lần tương tác qua lại, các hệ thống nhận diện trong não bộ Joseph đã xếp tôi vào loại thân quen. Đã có chừng một chục tương tác chớp nhoáng như thế. Các hệ thống không ghi nhận chúng là một phần của cùng một cuộc gặp kéo dài bốn giờ.
Joseph và tôi đã kết nối. Tôi đã được chấp nhận, được xem là an toàn và thân thuộc, đã có thể tiếp cận các mạng lưới vỏ não và ký ức tường thuật của Joseph. Liệu cậu bé đã có thể nói về vụ bắt cóc mà không bị ngắt mạch chưa?
Tôi dành quyền kiểm soát cho Joseph. “Cháu nhớ chú nói là ta sẽ trò chuyện về chị cháu chứ?”.
“Dạ”, Joseph gật đầu và ngừng chơi.
“Ta sẽ không phải nói đâu nếu cháu không muốn”.
“Dạ”, Joseph nói, nhưng em không chơi tiếp nữa.
Tôi hỏi Joseph có nhớ người đàn ông kia trông thế nào không. Cậu bé đưa ra vài chi tiết. Tôi cần nhiều hơn – tóc dài, tóc ngắn, ria mép, quần áo, gầy, béo? Tôi lấy ra một tờ báo cũ, có nhiều hình ảnh nam giới, để làm ví dụ. Tôi đã không để ý rằng trên đó có những tấm ảnh liên quan tới vụ bắt cóc.
Thấy một tấm ảnh của chị mình, Joseph chỉ: “Sissy này. Sissy chết rồi”.
Tôi chỉ sang các quảng cáo khác nhau, “Tóc ông ta có giống thế này không?”, cố tìm thêm một vài chi tiết. Sau đó tôi lật trang và tư thế của Joseph thay đổi.
Nhìn thấy ảnh một nghi can, cậu bé nhổm lên. “Ông ta đấy”, cậu bé nói. “Đấy là kẻ xấu. Ông ta đeo kính”.
Tôi cho cậu bé xem thêm các bức ảnh của những người đàn ông khác có các đặc điểm tương tự với nghi can, nhưng Joseph đều bỏ qua. Một lúc sau, cậu bé lập tức nhận ra ngay người đàn ông ấy trong một hàng người, tất cả đều có những nét tương đồng.
Đến cuối buổi thẩm vấn, tôi hỏi: “Joseph, cháu có nhớ người kia bắt chị của cháu ở đâu không?”.
“Có”.
“Cháu đưa chú đến đó được không?”.
Khi chúng tôi đi qua khu phố, Joseph kể lại cho tôi nghe những việc đã xảy ra. Sissy đang chơi quả bóng của Joseph, rồi quả bóng rơi xuống một rãnh nước bên lề đường. Lúc cậu bé đi nhặt bóng, một chiếc xe tải đỏ chạy đến, một gã đàn ông bước xuống, bắt chị cậu bé lên xe. Hắn không nhìn thấy Joseph.
Lúc thuật lại chuyện, Joseph bồn chồn thấy rõ. Em đã đạt đến ngưỡng chịu đựng rồi. Chúng tôi dừng lại. Việc nhận dạng và thuật lại vụ bắt cóc đã đưa chúng tôi thẳng đến bằng chứng buộc tội kẻ đã giết Sissy.
OPRAH: Anh đã lên được vỏ não của cậu bé.
TIẾN SĨ PERRY: Vâng. Câu chuyện của Joseph là một ví dụ điển hình về trình tự tương tác. Để giao tiếp dựa trên lý tính và thành công với bất kỳ ai, ta phải bảo đảm rằng họ được điều hòa, bảo đảm họ cảm nhận được sự kết nối với ta, và chỉ khi đó thì ta mới nên lý luận với họ. Hai mươi năm trước tôi đã hiểu về điều đó và về tác động của căng thẳng cùng sang chấn đến bộ não nói chung để có thể giao tiếp với Joseph mà không khiến vỏ não của cậu bé đóng sập lại. Nhưng khi rời khỏi ngôi nhà ấy, tôi đã để lại một gia đình tan nát. Nỗi đau mất con vẫn còn trong người mẹ, còn đối với Joseph, chị của cậu bé đã mãi mãi ra đi. Mỗi năm lại có một sinh nhật vắng Sissy, mỗi ngày lễ lại thấy rõ một chỗ vắng bên bàn ăn gia đình. Ngày của Mẹ diễn ra đau đớn và cay đắng.
Chúng tôi chỉ hiểu về não bộ mà vẫn chưa hiểu về việc chữa lành. Mặc dù chúng tôi đã làm việc với hàng trăm gia đình, và mặc dù tôi có thể đưa ra lời giải thích khá chuẩn xác về những gì tôi nghĩ là nguyên nhân gây nên nỗi đau, sự kiệt quệ, trầm cảm, lo âu, hình ảnh xâm nhập, thậm chí cả sức khỏe rối loạn của ai đó, nhưng tôi vẫn thực sự không biết phải làm sao để cải thiện những vấn đề ấy.
Nhưng chúng tôi không ngừng lắng nghe và học hỏi.