Tôi đã dành phần lớn sự nghiệp của mình để trả lời câu hỏi: Căng thẳng và sang chấn có thể thay đổi con người chúng ta như thế nào? Nhưng khi mới bắt đầu, tôi đã quá tập trung vào những sự kiện sang chấn cực độ. Hàng trăm, rồi hàng nghìn trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn đã chia sẻ câu chuyện đời họ với tôi. Tôi lắng nghe và suy ngẫm xem những gì mình đang nghe phù hợp như thế nào với các nghiên cứu khoa học thần kinh sâu rộng về tình trạng căng thẳng ở động vật. Nhiều lần tôi đã nghĩ, à, giờ thì mình hiểu rồi. Sang chấn hoạt động như thế. Sang chấn ảnh hưởng đến não và hành vi như thế. Nhưng tôi đã nhầm. Tôi đã học những điều quan trọng, nhưng tôi đã không hiểu, không hiểu hết.
Tôi bắt đầu nghĩ sâu hơn về việc chữa lành sau sang chấn. Tôi đã tin rằng nếu tiền sử sang chấn của một người càng cực đoan thì việc chữa chạy càng khó khăn. Nhưng vẫn còn những mảnh ghép mà tôi chưa nhìn thấy.
Tôi bắt đầu nhận thức rõ được sự thật này từ 30 năm trước, khi cố gắng hiểu hai cậu bé, đều 12 tuổi, sống trong một cơ sở điều trị nội trú. Cả hai được đưa đến đây vì đã mất kiểm soát ở một loạt các nhà nhận nuôi và trường nội trú khác. Cả hai đều học lớp sáu, đều gặp khó khăn trong việc học ở trường, khả năng đọc chỉ ngang với trình độ lớp bốn. Trong hồ sơ của cả hai đều có cùng ghi chép DSM: ADHD, trầm cảm nặng, rối loạn bùng phát gián đoạn và rối loạn hành vi. Cả hai đều đang dùng đủ loại thuốc chỉ định nhằm kìm hãm các triệu chứng chống đối. Và cả hai đều đã ở cơ sở điều trị nội trú trong khoảng một năm.
Khi gặp riêng từng cậu bé, tôi cảm nhận được có điều gì khang khác. Bầu không khí cảm xúc mà mỗi cậu bé tạo ra khác hẳn nhau. Thomas có tiền sử bị ngược đãi thể chất bởi một ông bố nóng nảy, dữ dằn; lên sáu tuổi đã bị đưa ra khỏi nhà, qua 12 nhà nhận nuôi và 3 lần nhập viện, rồi cuối cùng đến trung tâm nội trú này. Một năm là khoảng thời gian lâu nhất cậu bé từng sống ở bất kỳ đâu trong đời. Cậu bé vẫn tiếp tục được gặp mẹ và thỉnh thoảng là bố đến thăm. Bất chấp tiền sử của mình, Thomas chịu tương tác, mỉm cười và cố gắng giúp tôi hiểu nó. Nhưng rất dễ nhận thấy cậu bé đầy cảnh giác, bồn chồn và tính khí cực thất thường. Trong lần đầu chúng tôi gặp nhau, nhịp tim lúc nghỉ của Thomas là 128bpm. Sự lơ đễnh, thách thức, chống đối và những hành vi hung hăng của Thomas là biểu hiện của phản ứng đánh thức quá mức quyết liệt (xem Hình 5 và 6). Em luôn ở trong trạng thái sợ hãi. Tôi không nghĩ việc chẩn đoán cậu bé này mắc đến bốn chứng rối loạn DSM khác nhau là đúng. Em chỉ bị một – một dạng PTSD thời thơ ấu mà thôi.
James thì đem đến cảm giác khác hẳn, hay đúng hơn là không có cảm giác. Như thể tôi đang ngồi với một bóng ma, như thể em trống rỗng. Ngồi với James, tôi cảm thấy như ngồi một mình. Hồ sơ về cậu bé không cho thấy các sự kiện sang chấn truyền thống thường gặp ở trẻ được nhận nuôi. Người mẹ, dường như bị trầm cảm, đã bỏ theo bạn trai lúc James mới ba tháng tuổi. Sau sáu tuần ở trong mái ấm, James được bà ngoại – sống một mình – đồng ý nhận nuôi dù có vẻ chẳng vui vẻ gì. Từ các ghi chép cũ hiện lên hình ảnh một người chăm sóc chán chường và cay đắng. Nhưng bà đã cố hết sức. Không có tiền sử ngược đãi thể chất, lạm dụng tình dục, không phải tiếp xúc với hành vi sử dụng ma túy hay các hình thức sang chấn khác. Cả xấp ghi chép chỉ đơn giản ghi nhận cách chăm trẻ hời hợt, lãnh đạm, mọi tương tác lời nói lẫn thể chất đều ở mức tối thiểu. Dưới sự chăm sóc của bà ngoại, James bắt đầu trở nên lơ đễnh và không nghe lời. Phần thưởng có vẻ không tác dụng và hậu quả có vẻ cũng không khiến em bận tâm. Cậu bé lấy những thứ có vẻ vô nghĩa của người khác – một cây bút chì, một chiếc vòng tay, một món đồ chơi nhỏ. Khi phải đối chất về các vụ trộm này, em chối đây đẩy, bất kể có bằng chứng rõ ràng hay không. James đã nhiều lần dọa đâm các học sinh khác và được mô tả là có tính hung hăng bùng nổ, nhưng xem xét kỹ thì em chưa lần nào thực sự đánh, xô đẩy hay tấn công ai. Em chỉ dọa thôi.
Lên tám tuổi, bà ngoại James hết sức và buông tay. Bà bỏ em cho hệ thống vì em “nói dối, ăn cắp, vô ơn”, và bà đâm ra sợ em. James đã dọa giết bà lúc bà ngủ. James được chuyển vào hệ thống bảo vệ trẻ em và bị đẩy hết từ nhà nuôi này sang nhà nuôi khác trước khi đến cơ sở nội trú này. Tính lơ đễnh khiến James bị chẩn đoán ADHD không giống như Thomas – cảnh giác, dễ phân tâm. James lơ đễnh vì nó mơ mộng và không quan tâm. Trái ngược với nhịp tim lúc nghỉ 128bpm của Thomas, James chỉ có 60.
Mặc dù cùng được cho là mắc các chứng DSM như nhau nhưng Thomas và James chẳng có gì giống nhau. Tôi bắt đầu băn khoăn về giai đoạn đầu đời của James. Một người mẹ trẻ không có kinh nghiệm, chật vật với chứng trầm cảm, bị quá tải với những nhu cầu không ngớt của đứa trẻ. Có thể bản thân người mẹ cũng có các vấn đề về mối quan hệ hay sự gắn bó. Chuyện gì đã xảy ra với cô ấy? Ta không thể cho đi thứ ta không có.
Hãy hình dung giai đoạn đầu đời khi mẹ của James đáp ứng các nhu cầu của em, nhưng chỉ có thế, không hơn. Ngay khi bộ não James vừa bắt đầu tổ chức các mạng lưới sinh học thần kinh liên quan đến mối quan hệ, toàn bộ thế giới của em liền thay đổi – em được chuyển đến mái ấm cùng một loạt những người chăm sóc mới. Mỗi người lại có mùi, giọng nói, cung cách vỗ về khác nhau. Rồi đột nhiên tất cả cũng lại biến mất. Mới năm tháng tuổi, bộ não đang phát triển vô cùng nhanh của James phải chứa một lô ký ức lộn xộn, rối loạn về kết nối con người, để rút ra kết quả rằng ai rồi cũng đều biến mất. Con người không nhất quán và cũng không dễ đoán. Họ không sẵn lòng đáp ứng các nhu cầu của em, họ không vỗ về, tưởng thưởng em.
Giờ thì hãy hình dung một đứa trẻ bị đói, lạnh, sợ hãi và một người chăm sóc thỉnh thoảng mới cho em ăn, ủ ấm em hay ôm em vào lòng. Phản ứng chiến hay biến của trẻ sơ sinh là khóc, nhưng nếu khóc cũng không đưa được bất kỳ ai đến đáp ứng nhu cầu của em, hoặc nếu tiếng khóc lại đưa đến một người bực dọc hoặc tức giận, trẻ sơ sinh buộc phải sử dụng các lựa chọn tự an ủi khác. Một phản ứng thích ứng với căng thẳng chủ đạo ở trẻ sơ sinh trong những tình huống này là thoát xa khỏi cái thế giới khó hiểu, đe dọa bên ngoài mà rút lui vào thế giới bên trong.
Khi gặp James, tôi đã biết phân ly là kiểu thích nghi hàng đầu khi động vật bị căng thẳng theo những cách đặc biệt – khi không thể trốn tránh mối đe dọa, khi không cựa quậy nổi và khi việc đánh trả là vô ích. Kiểu căng thẳng này dẫn đến phản ứng đầu hàng hoặc chịu thua ở động vật. Hoạt động sinh lý của chúng thay đổi. Chúng giả chết. Nghiên cứu về động vật trong lĩnh vực này rất rộng, nhưng lạ thay, cho đến tận bây giờ, nghiên cứu tương tự đối với hệ thống sinh học thần kinh liên quan đến sự phân ly ở con người vẫn bị tụt hậu khá xa.
Dù thế nào thì, ở đây cũng đang có hai đứa trẻ cùng được chẩn đoán mắc các chứng DSM nhưng lại có hành vi khác nhau và đáp ứng khác nhau đối với việc điều trị. Sự khác nhau đến từ đâu?
Từ chuyện đã xảy ra với chúng.
Khi dành nhiều thời gian hơn cùng Thomas, tôi bắt đầu biết thêm về tất cả những người yêu thương trong cái thế giới náo loạn của đứa trẻ này. Mẹ, dì và bà ngoại đều rất trìu mến và luôn cố tìm đến hệ thống để đưa Thomas về. Nhưng mẹ cậu bé lại không bỏ chồng. Còn người chồng thì không ngừng được hành vi ngược đãi.
Tôi biết được rằng bố Thomas không phải lúc nào cũng hung hăng như vậy. Theo lời gia đình, anh ta bắt đầu gặp vấn đề sau khi từ chiến trường về. Khi đó người ta còn chưa hiểu rõ về PTSD, và nhiều cựu chiến binh đã không hề nhận được bất kỳ sự giúp đỡ nào. Người bố dùng rượu và ma túy dẫn tới bị đuổi việc, và khi không thể chăm lo cho gia đình, lòng tự tôn của anh ta sụp đổ. Vòng lặp sang chấn, xấu hổ, đau đớn, nghiệp ngập, giận dữ, nhục nhã và lạc lõng, càng khiến gia đình thêm tan nát.
Thomas từng có một khởi đầu tốt, được chăm sóc yêu thương nhất quán. Khi Thomas mới được sinh ra, cha em chưa bạo hành em. Nhưng khi người cha gặp khó khăn thì cả gia đình phải chịu khổ, nhất là mẹ em. Ông ta bắt đầu đánh Thomas khi em cố bảo vệ mẹ. Rồi từ đó em trở thành “cột thu lôi” hứng chịu mọi cơn thịnh nộ từ cha. Mặc dù mẹ em và những người khác trong nhà không thể bảo vệ được Thomas đến nơi đến chốn, nhưng họ đã làm tất cả những gì có thể. Sự nâng đỡ của những người chăm sóc này cùng khởi đầu tốt đẹp đã tạo nên sự khác biệt. Thomas có hệ thống sinh học thần kinh liên quan đến sự gắn kết và các mối quan hệ lành mạnh, bất chấp các phản ứng căng thẳng mẫn cảm sau này.
Qua điều trị, Thomas đã có nhiều tiến triển. Khả năng xây dựng và duy trì các mối quan hệ lành mạnh đã giúp em tiếp nhận tốt quá trình trị liệu. Trong vòng 12 tháng, tình trạng rối loạn điều hòa của đứa trẻ này được cải thiện nhiều. Em đã có thể tập trung và việc học cũng trở nên dễ dàng hơn. Em gặp ít vấn đề về hành vi hơn hẳn và được lên tận hai lớp trong một năm. Em đã bắt đầu được chữa lành.
Tốc độ cải thiện của James thì không như vậy. Thực tế là tình trạng còn tệ thêm: hành vi trộm cắp vẫn tiếp diễn và đứa trẻ ngày càng trở nên khôn lỏi hơn để không bị bắt. Mọi nỗ lực định hình hành vi hoặc xây dựng mối quan hệ lành mạnh đều thất bại. Ngay cả với sự giúp đỡ của việc trị liệu, em vẫn không có được công cụ để thành công.
Như ta sẽ còn nói thêm, các mối quan hệ là chìa khóa để chữa lành. Nhưng với James, mọi tương tác quan hệ đều dẫn đến viễn cảnh tách rời. Đối với em, tất cả mọi người đều không an toàn. Trong thế giới quan của James, nếu người ta không làm hại em thì cũng sẽ ruồng bỏ em. Không thể tin vào ai được. Tôi học được rằng, một khía cạnh then chốt của “Chuyện gì đã xảy ra?” là “Chuyện gì đã không xảy ra?”. Bạn đã không nhận được sự chú ý, những cái chạm yêu thương, chăm bẵm, sự vỗ về – về cơ bản là tình yêu thương? Tôi nhận ra rằng sự bỏ bê cũng tai hại như sự kiện sang chấn.
–Tiến sĩ Perry
OPRAH: Ý anh là gì khi nói đến sự bỏ bê? Bỏ bê có phải là sang chấn?
TIẾN SĨ PERRY: Tôi nghĩ rằng, trong phần lớn trường hợp, bỏ bê và sang chấn sẽ cùng diễn ra. Nhưng chúng gây ra những trải nghiệm sinh học rất khác nhau và có thể tác động rất khác đến bộ não và đứa trẻ đang phát triển. Một số người đã dùng khái niệm “sang chấn phức tạp” để lồng ghép sự bỏ bê trong quá trình phát triển nhận được những hành vi ngược đãi, nhưng tôi tin rằng như vậy là quá ôm đồm.
OPRAH: Vậy nhờ anh giúp tôi hiểu về bỏ bê.
TIẾN SĨ PERRY: Vâng, hãy nghĩ về đứa trẻ đang phát triển. Để các yếu tố di truyền tiềm năng của đứa trẻ này được biểu hiện, đòi hỏi phải có nhiều trải nghiệm thiết yếu khác nhau.
Nếu không có những trải nghiệm đó, hoặc nếu thời điểm, kiểu hình hoặc bản chất của những trải nghiệm là bất thường, các tiềm năng quan trọng sẽ không phát triển. Bỏ bê là sự hủy hoại sớm nhất trong đời, khi não bộ đang phát triển với tốc độ nhanh nhất. Sự bỏ bê đầu đời cản trở việc đứa trẻ nhận được sự kích thích cần thiết để phát triển bình thường.
Chị hẳn đã nghe về “trẻ mồ côi Romania”. Khả năng là đã có hơn 500.000 em phải sống những năm đầu đời tại các trại mồ côi của nhà nước thời chính quyền Ceaucescu ở Romania. Năm 1989, khi thể chế cũ kết thúc ở nước này, công chúng và truyền thông mới thấy được điều kiện khủng khiếp mà những đứa trẻ đã phải chịu đựng. Có tới từ 40 đến 60 trẻ sơ sinh hoặc mới chập chững biết đi ở chung trong một phòng lớn, mỗi trẻ một cũi, nằm suốt cả ngày, chỉ có một hoặc hai người chăm sóc theo ca kéo dài 12 tiếng. Bọn trẻ không có được những thứ cần có, phải chịu cảnh thiếu ăn, bị ngược đãi và còn hơn thế nữa. Và kể cả sau khi rời khỏi các cơ sở này thì các em vẫn phải lớn lên với đủ kiểu thiếu thốn. Một số có IQ thấp, số khác không biết đi, hầu hết đều gặp phải vấn đề nghiêm trọng trong khả năng hình thành và duy trì các mối quan hệ. Tôi đã làm việc với nhiều trẻ được đưa ra từ các trại mồ côi ấy. Nhìn chung, càng ở lâu trong các trại mồ côi, trẻ càng chịu nhiều thiếu thốn cũng như càng gặp phải nhiều vấn đề nghiêm trọng. Trớ trêu là trong một số cơ sở quá đông, những đứa trẻ phải dùng chung cũi với nhau rốt cuộc lại khá hơn.
Những đứa trẻ mồ côi Romania ngày nào giờ đã là người lớn, và hầu hết vẫn còn nhiều vấn đề dai dẳng. Nhìn chung họ có tỷ lệ thất nghiệp cao, có nhiều vấn đề về sức khỏe tinh thần và thể chất, cũng như gặp nhiều khó khăn trong việc xây dựng và duy trì các mối quan hệ.
Ở Mỹ cũng có các trường hợp bị cô lập tương tự, và nhóm thăm khám của chúng tôi đã phải làm việc với nhiều trẻ em và thanh thiếu niên bị bỏ bê nghiêm trọng. Những đứa trẻ này không hòa nhập được với xã hội. Chúng không được dạy đi vệ sinh, không biết dùng dụng cụ, có rất ít kỹ năng ngôn ngữ. Trong những trường hợp cực đoan nhất, chúng “chưa được thuần chủng” – thuật ngữ được sử dụng là hoang dại.
Thực ra, chị đã nêu bật câu chuyện của một trong những trẻ đó trên một tập của The Oprah Winfrey Show. Đó là Dani – cô gái trong khung cửa. Dani đã bị nhốt và bị bỏ bê nghiêm trọng trong sáu năm đầu đời, việc đó để lại nhiều hậu quả thê thảm và đau đớn cho cuộc đời cô. May mà cô bé đã được đưa đi và nhận nuôi. Hành trình chữa lành tuy chậm đến đau lòng nhưng may mắn là, chắc chắn.
OPRAH: Khi được đưa vào một ngôi nhà đầy yêu thương, cô bé ấy đã bắt đầu khá lên. Nhưng cô bé vẫn gặp phải rất nhiều khó khăn trong giao tiếp và tương tác xã hội.
TIẾN SĨ PERRY: Đến bây giờ Dani vẫn phải nỗ lực rất nhiều. Có rất nhiều thứ quan trọng xảy ra trong bộ não đang phát triển của đứa trẻ trong sáu năm đầu đời, và nếu các mạng lưới thần kinh chủ chốt không nhận được trải nghiệm phù hợp vào đúng thời điểm, một số khả năng quan trọng sẽ không phát triển một cách bình thường. Về điểm này, chúng tôi vẫn còn rất nhiều điều phải tìm hiểu, song chúng tôi đã biết rằng các yếu tố phát triển khác, như những tổn thương ngay từ khi còn trong tử cung hay sang chấn trong lúc sinh, cũng có thể dẫn tới những trường hợp cực đoan giống như Dani. Hơn hết, như những đứa mồ côi ở Romania, càng ở lâu trong môi trường phát triển thiếu thốn thì các em sẽ càng khó phục hồi.
OPRAH: Nhưng những ví dụ này, như ví dụ của Dani, rất hiếm gặp. Sáu năm thực sự là khoảng thời gian khá dài. Điều gì sẽ xảy ra nếu trải nghiệm bỏ bê chỉ kéo dài một năm thôi? Điều gì sẽ xảy ra nếu vấn đề chỉ đến từ một người trông trẻ cụ thể nào đó? Điều gì sẽ xảy ra nếu ta phạt một thiếu niên ở trong phòng trong vòng một tháng? Đó có phải là bỏ bê?
TIẾN SĨ PERRY: Phạt nhốt một thiếu niên không phải là bỏ bê vì các hệ thống then chốt trong não của em đã phát triển rồi. Tôi không ủng hộ việc nhốt một thiếu niên 15 tuổi trong phòng cả tháng, nhưng chuyện này không giống với một tháng thiếu thốn đầu đời.
Chị đã nêu lên một vấn đề quan trọng. Cũng giống như sang chấn, một số câu hỏi thiết yếu có thể giúp ta đánh giá xem tình huống có phải là bỏ bê không, nếu phải thì tác động của nó sẽ lớn tới mức nào? Hành động được xem là bỏ bê sẽ xảy ra vào lúc nào trong quá trình phát triển? Việc này diễn ra theo khuôn mẫu ra sao? Sự thiếu thốn hay bỏ bê khắc nghiệt đến mức nào? Nó kéo dài trong bao lâu? Và, vì việc bỏ bê tuyệt đối là rất hiếm nên có thể có những yếu tố “đệm” nào hiện diện trong quá trình ấy?
Hình thức bỏ bê thường thấy nhất là chăm sóc không liên tục và không có khuôn mẫu. Có những ngày, khi trẻ khóc, người lớn sẽ đến cho ăn và dỗ dành, nhưng vào ngày khác thì lại không có ai đến cả, và lâu lâu thì lại có những ngày người ta đến, nạt nộ, rung lắc hay làm đau bé. Cái thế giới hỗn loạn, khó chịu như thế đối với bé là một thế giới rất rối rắm, thiếu cấu trúc. Từ đó, trẻ sơ sinh nhận không đủ “cấu trúc” từ người chăm sóc để gửi đi một bộ tín hiệu rõ ràng, có tổ chức đến các hệ thống đang phát triển của não bộ. Thế giới đối với em là không thể lường trước, kết quả dẫn đến một sự ơ thờ “hỗn loạn”. Các hệ thống then chốt phát triển theo cách ngắt quãng, vô tổ chức, dẫn đến hàng loạt các vấn đề về chức năng.
Một kiểu bỏ bê khác – bỏ bê “mảnh vụn” – diễn ra khi nhiều khía cạnh phát triển bình thường, một số hệ thống then chốt nhận được trải nghiệm thích hợp kịp thời, nhưng một vài khía cạnh khác thì lại không, dẫn đến việc thiếu mất một hay một vài yếu tố quan trọng cho quá trình phát triển lành mạnh. Xin phép nêu một ví dụ.
Tôi từng làm việc với năm anh chị em, lần lượt là mười một, tám, sáu, bốn và hai tuổi. Tất cả đều vui tươi, thú vị. Mẹ chúng một mình nuôi dạy con, chị có hai bằng tiến sĩ và cũng rất yêu con. Vấn đề là chị có một ảo giác thường trực và rất sợ rằng các con có thể bị hại nếu ở ngoài tầm mắt chị. Thế là chị bắt đầu giữ bọn trẻ ở cùng một phòng với mình – tất cả, cả ngày lẫn đêm. Dần dà, chị bắt đầu cho con học tại nhà và bắt bọn trẻ sử dụng ghế an toàn trên ô tô để ngồi ở ghế dài. Chị bắt các con ngồi cứng trong chiếc ghế an toàn chật chội, không cho phép chúng bò hay đi.
Người mẹ này rất ấm áp, rất yêu thương con và cũng rất tập trung vào việc phát triển nhận thức cho bọn trẻ. Đứa nào cũng đều học vượt hai lớp hoặc hơn. Chúng nói chuyện rôm rả và tương tác tích cực với nhau, nhưng ngay cả đứa lớn nhất cũng không đứng vững được. Đây chính là một ví dụ cực đoan cho kiểu thiếu sót “mảnh vụn” – ở đây là thiếu sót ở khía cạnh vận động. Kết quả là đứa trẻ nào của gia đình này cũng có đôi chân và khả năng vận động thần kinh cực kỳ kém phát triển. Còn rất nhiều ví dụ khác về việc một khía cạnh quan trọng bị coi thường hoặc thiếu sự động viên, khích lệ; cảm xúc chẳng hạn.
OPRAH: Có nhiều cách bỏ bê khác nhau. Tôi từng thấy có em bị bỏ bê theo kiểu không được người trong nhà nhìn ngó đến. Những bóng ma, giống như James.
TIẾN SĨ PERRY: Ồ, phải. Tôi đã làm việc với nhiều trẻ bị bỏ bê về mặt cảm xúc. Các em là con cái của những ông bố bà mẹ rất giàu có, và những vị ấy chọn thuê người nuôi dạy con mình theo cách rất thiếu hiểu biết về quá trình phát triển của trẻ. Họ không hiểu tầm quan trọng của tính nhất quán trong các mối quan hệ đầu đời, vậy nên mới giao đứa con còn ẵm ngửa của mình cho những người chăm sóc khác nhau.
OPRAH: Ý anh là gì? Rất nhiều người quan niệm rằng không quan trọng là ai hoặc có bao nhiêu người chăm sóc đứa trẻ, miễn nó được yêu thương và chú ý. Như vậy là sai sao?
TIẾN SĨ PERRY: Chị hỏi rất hay. Nói chung, ta càng được nhiều người chú ý và yêu thương thì càng tốt. Nhưng, như ta đã từng thảo luận về bộ não đang phát triển và quá trình tạo ra thế giới quan, chị hẳn cũng nhớ rằng trong giai đoạn đầu đời, bộ não cần những trải nghiệm nhất quán, có cấu trúc và khuôn mẫu để phát triển một số hệ thống chủ chốt. Tôi sẽ lấy sự phát triển của ngôn ngữ để minh họa cho ý này.
Giả dụ ta chỉ nói tiếng Anh với trẻ sơ sinh trong sáu tuần đầu, rồi ta tự nhủ: “Tiếng Anh thế được rồi, ta nói sang tiếng Trung Quốc”. Trong năm tháng tiếp theo, đứa trẻ chỉ được nghe tiếng Trung Quốc, nhưng sau đó thì lại: “Tiếng Trung thế là xong, giờ ta nói sang tiếng Pháp”. Và đứa trẻ đã phải nghe thêm 10 thứ tiếng nữa trước khi bé lên ba. Kết quả là, đứa trẻ tội nghiệp rốt cuộc sẽ không nói được bất kỳ thứ tiếng nào. Mặc dù thực tế đây đều là những ngôn ngữ tốt và ngôn ngữ nào cũng đều kích hoạt các phần phụ trách khả năng nói và khả năng ngôn ngữ trong não, nhưng ta đã không lặp lại đủ nhiều để tổ chức và sắp xếp hoàn chỉnh khả năng diễn đạt và khả năng ngôn ngữ trọn vẹn cho đứa trẻ.
Sự gián đoạn về khả năng ngôn ngữ cũng sẽ diễn ra nếu đứa trẻ phải nghe 15 thứ tiếng khác nhau mỗi ngày. Cả thời gian lẫn sự lặp lại đều không đủ để bộ não đang phát triển có thể nhận biết được bất kỳ ngôn ngữ nào. Sự phát triển về mặt ngôn ngữ sẽ bị chậm lại và nhiều khả năng là sẽ phát triển theo cách không bình thường.
Các mối quan hệ cũng tương tự như thế. Nếu ta làm quen với một người trong sáu tuần rồi họ biến mất, và một người khác đến chăm sóc ta, rồi người này lại biến mất,... bộ não non trẻ của ta sẽ không nhận được đủ “sự lặp lại” với bất kỳ ai để hình thành các cấu trúc cho phép hệ thống sinh học thần kinh liên quan đến mối quan hệ lành mạnh được phát triển.
Chìa khóa để có được nhiều mối quan hệ lành mạnh trong đời là chỉ nên có một vài mối quan hệ an toàn, ổn định và đầy yêu thương trong những năm đầu đời. Điều này giúp ta có đủ “sự lặp lại” để xây dựng nền tảng – cấu trúc quan hệ nền tảng – cho phép ta tiếp tục nuôi dưỡng những kết nối quan hệ lành mạnh trong giai đoạn sau này. Một lần nữa, hãy nghĩ đến ngôn ngữ: sau khi đã học được một hoặc hai ngôn ngữ chính rồi, ta có thể tiếp tục học thêm nhiều ngôn ngữ khác. Khi một đứa bé sơ sinh hay trẻ mới chập chững biết đi phải lớn lên trong một gia đình mà việc yêu thương được thuê từ bên ngoài, kết quả có thể dẫn đến các hình thức bỏ bê mảnh vụn, và từ đó, các khả năng then chốt liên quan đến mối quan hệ sẽ không thể phát triển hoặc phát triển một cách “còi cọc”.
OPRAH: Tôi nghĩ, chúng ta đang ngày càng phụ thuộc vào công nghệ. Chúng ta phụ thuộc vào công nghệ trong quá nhiều khía cạnh của cuộc sống. Chăm sóc con cái cũng là một khía cạnh quan trọng trong số đó. Ngày càng có nhiều bậc phụ huynh phó thác việc chăm nom và nuôi dạy con cái cho chiếc điện thoại hay máy tính bảng, hoặc họ mải mê với các thiết bị của mình, bỏ mặc đứa trẻ tự quan sát và diễn giải thế giới quanh chúng. Có lần, ở Chicago, xe của tôi đi sau một chiếc xe ngựa kéo. Bọn trẻ nhoài người ngó nghiêng xung quanh còn mẹ chúng mải mê chít chát trên điện thoại. Suốt cả chuyến đi. Người mẹ ấy không một lần nào quay sang chơi với các con hay thậm chí nhìn chúng. Tôi cứ nghĩ: Khi hết chuyến xe, hẳn cô này sẽ đăng một tấm ảnh nói rằng: “Nhìn chúng tôi xem, tuyệt vời chưa, chúng tôi đang ngồi xe ngựa đây này”. Dạo gần dây tôi rất hay thấy mấy chuyện như thế. Cha mẹ ở cạnh con nhưng không thực sự ở cùng con.
TIẾN SĨ PERRY: Tôi nghĩ đấy là một vấn đề lớn trong xã hội đầy xao nhãng này của chúng ta. Ta không giỏi việc thực sự có mặt cho lắm.
OPRAH: Ngay cả trẻ sơ sinh cũng có thể biết ta có đang thực sự hiện diện hay không. Chúng biết ta có vui vẻ hay hạnh phúc không. Chúng cảm nhận được hết. Chúng biết mình có được an toàn hay không. Chúng muốn được giao tiếp bằng mắt.
TIẾN SĨ PERRY: Chúng muốn sự hiện diện thực chất. Chúng muốn ta ở bên. Việc không thể thực sự ở bên gây ảnh hưởng tai hại đến sự phát triển lành mạnh. Như ta đã nói, bộ não của trẻ sơ sinh đang cố nhận biết thế giới, và vì ta là những sinh vật xã hội nên một phần thiết yếu của quá trình nhận biết thế giới là xây dựng cảm giác thuộc về: Mình quan trọng, mình là một thành viên của gia đình. Điều này đến từ việc nhận được những tín hiệu “Con quan trọng!” từ người khác, nhất là từ gia đình. Việc này đòi hỏi ta phải dành cho các em sự chú ý. Không phải chú ý một phần, phải là chú ý toàn phần. Ta đang nhìn con đây. Ta đang lắng nghe. Ta đang ở ngay đây với con.
Tất cả chúng ta hẳn đều từng có trải nghiệm trò chuyện với ai đó và cảm thấy hụt hẫng khi họ ngó lơ ta mà chỉ chú ý đến chiếc điện thoại. Mặc dù ta là người lớn, bộ não đã phát triển đầy đủ và hiểu thế giới vận hành như thế nào nhưng ta vẫn cảm thấy không được tôn trọng. Tổn thương là có thật.
OPRAH: Cảm thấy Mình không đủ quan trọng để giữ được sự chú ý của họ.
TIẾN SĨ PERRY: Vâng. Mình không đủ quan trọng. Người trưởng thành, như chúng ta, phải nhận thông điệp như vậy là đã đủ tệ rồi. Nhưng chị hãy hình dung nếu đó là thông điệp mà một đứa trẻ thường xuyên phải nhận trong quá trình tạo ra thế giới quan của bé: Mình chả là gì, mình không hề quan trọng. Khả năng cảm thông và chăm sóc – năng lực yêu thương của chúng ta – phụ thuộc vào bản chất, chất lượng và số lượng của các tương tác yêu thương mà chúng ta được trải nghiệm trong giai đoạn đầu đời. Sự xem thường, thờ ơ không tạo được nền tảng cho một con người biết yêu thương. Trái lại, nó tạo nền tảng cho một con người đói khát cảm xúc, luôn có cảm giác thiếu thốn, luôn ao ước được thuộc về nhưng lại không có khả năng sinh học thần kinh để thực sự tìm thấy thứ mình cần. Việc chăm sóc qua quýt có thể dẫn đến cơn khát tình yêu khôn nguôi. Ta không thể yêu thương nếu chưa từng được yêu thương.
OPRAH: Từ góc độ khoa học, điều gì sẽ xảy ra nếu một người mẹ hoặc cha cứ chúi mặt vào điện thoại trong khi đứa con đang cố xây dựng một trải nghiệm chung cùng họ?
TIẾN SĨ PERRY: Người bạn và cũng là đồng nghiệp của tôi, Tiến sĩ Ed Tronick, đã thực hiện một thử nghiệm tâm lý học phát triển nổi tiếng, gọi là thử nghiệm Still-Face (mặt trơ). Thử nghiệm này có thể giúp chúng ta hiểu thêm về chuyện này. Nói ngắn gọn thì các ông bố bà mẹ được dặn là không để lộ bất kỳ biểu cảm nào khi tương tác với con mình. Họ được yêu cầu phải tỏ ra lơ đãng, thụ động và lạnh lùng. Khi ấy, đứa trẻ sơ sinh lập tức cố gắng thu hút sự chú ý của bố mẹ, và trong vài giây sau khi không thành công, các bé trông buồn rầu thấy rõ.
OPRAH: Đứa trẻ sẽ khóc ư?
TIẾN SĨ PERRY: Thường là thế. Một cách bản năng, trong vài giây sau khi nhận thấy bố mẹ lơ đãng và thiếu vắng cảm xúc, đứa trẻ sẽ bắt đầu cảm thấy buồn bực và tìm cách kết nối lại với họ. Nhưng khi nỗ lực đó thất bại, đứa trẻ sẽ ngắt kết nối và rút lui về mặt cảm xúc. Nếu đó là một trải nghiệm liên tục thì đứa trẻ sẽ bị tác động ra sao? Một người chăm sóc lạnh lùng, lơ đãng, không hiện diện trọn vẹn có thể gây tác động tai hại không chỉ ngay lập tức mà còn có khả năng kéo dài suốt cuộc đời đứa trẻ. Đứa trẻ này khi lớn lên có thể cảm thấy bản thân không đủ tốt, không đáng được yêu thương. Khi trưởng thành, ngay cả có nhiều năng khiếu và kỹ năng, chúng sẽ vẫn cảm thấy mình “chưa đủ tốt” và từ đó dẫn đến một loạt hành vi thích nghi sai bao gồm các hình thức tìm kiếm sự chú ý không lành mạnh, phá hoại hoặc thậm chí là hành vi tự hủy hoại.
OPRAH: Và khi một đứa trẻ phụ thuộc vào bố mẹ hoặc người chăm sóc để điều hòa cho mình, mà người chăm sóc đó lại tùy tiện, thờ ơ hay thậm chí không có mặt khi đứa trẻ cần sự vỗ về hay thức ăn, điều đó sẽ tạo ra kiểu mẫu kích hoạt căng thẳng khó dự đoán và không thể kiểm soát ở đứa trẻ.
TIẾN SĨ PERRY: Vâng, điều đó tạo ra phản ứng căng thẳng mẫn cảm (xem Hình 3). Về việc đó, ta đã biết cơ thể người – dù là trẻ con hay người lớn – đều có một số hệ thống giúp đối phó với các thử thách đang phải đối mặt. Cách quen thuộc với hầu hết mọi người là phản ứng chiến hay biến mà ta đã nói đến (xem Hình 6).
OPRAH: Tôi đang nhìn vào hình ấy đây – bình tĩnh, cảnh giác, báo động, sợ hãi, hoảng loạn. Nhờ anh giải thích giúp tôi.
TIẾN SĨ PERRY: Khi ta bị căng thẳng, sẽ có một phản ứng theo cấp độ, lần lượt kích hoạt các hệ thống trong não bộ và cơ thể để hỗ trợ ta trở về trạng thái cân bằng. Khi không bị căng thẳng, chị sẽ ở trong trạng thái Bình tĩnh – chị có thể suy ngẫm về quá khứ, tiên liệu hay lập kế hoạch cho tương lai. Nhưng ngay khi gặp bất kỳ một thách thức nào – phải thuyết trình trước mặt nhiều người ở công ty chẳng hạn – chị sẽ tiến vào trạng thái Cảnh giác. Chị quét mắt qua đám đông, nghiên cứu các khuôn mặt trong khi trình bày, cố đánh giá xem các luận điểm của mình đang được thể hiện như thế nào. Họ có hiểu không? Họ có thích phần thuyết trình của mình không? Họ có chán không?
Còn nếu chị bị vướng vào một vụ va quẹt nhỏ, trong giây lát chị sẽ rơi vào trạng thái Báo động: chị như bị đóng băng, không biết phải làm gì,... Mình có nên gọi cho bảo hiểm không? Có cần báo cảnh sát không? Có nên lấy thông tin của anh ta không? Não chị tạm thời bị “đóng băng” khi đột nhiên gã tài xế của xe kia nhảy ra, bắt đầu la lối và giơ súng lên dọa nạt. Lúc này chị sẽ rơi vào trạng thái Sợ hãi thực sự.
Và, đây chính là lúc mà một thành tố quan trọng của khả năng ứng phó với căng thẳng xen vào – đó là cơ chế phân ly. Não của chị vẫn tiếp tục theo dõi tình hình và liên tục đánh giá các lựa chọn: Mình có thể chạy trốn không? Nếu đánh lại thì mình có thắng được không? Bộ não nói rằng chị không thể thắng một kẻ cầm súng, thế nên chị bắt đầu cố tránh gây thêm xung đột và ra sức xin lỗi. Trước việc đang xảy ra, chị có cảm tưởng như đang xem một cuốn phim. Chị răm rắp chấp nhận đòi hỏi của gã tài xế kia rằng chị phải bồi thường ngay tại chỗ. Cảm giác về thời gian của chị bị bóp méo. Chị đang phân ly. Cơ thể chị đang chuẩn bị cho vết thương có thể phải hứng chịu; nhịp tim chị chậm lại. Toàn bộ máu trong cơ thể sẽ không dồn đến các cơ để chuẩn bị cho việc chiến đấu hoặc chạy trốn, lưu lượng máu ngoại vi sẽ được kìm hãm. Chị có thể tái mét hoặc thậm chí ngất xỉu. Cơ thể chị đang chuẩn bị chịu thương tích bằng cách ngắt chị khỏi mối đe dọa của thế giới bên ngoài và đưa chị vào thế giới bên trong. Cơ thể sẽ bắt đầu tiết ra chất giảm đau nội sinh – endorphin, enkephalin – thuốc giảm đau tự nhiên của mỗi người, và chị sẽ thực sự có cảm tưởng như chị có thể theo dõi những chuyện đang xảy ra với mình.
OPRAH: Và đó là điều mà người ta mô tả như “trải nghiệm xuất hồn” và thường không nhớ được hết chuyện xảy ra sau đó.
TIẾN SĨ PERRY: Chính xác. Phản ứng phân ly được sử dụng khi não bộ đánh giá rằng ta không thể chạy thoát, không thể trốn tránh mối đe dọa và nỗi đau. Tâm trí và cơ thể ta bảo vệ ta. Ta không thể chạy trốn về mặt thể chất và việc đánh trả là vô ích, vậy nên ta chỉ có chạy trốn về mặt tâm lý, trốn vào thế giới bên trong.
Trở lại với những đứa trẻ có phụ huynh thờ ơ. Phản ứng chiến hay biến của trẻ sơ sinh là khóc. Nhưng nếu khóc cũng không đưa được ai đến – hoặc họ đến mà tức giận, làm đau bé – bé bất lực sẽ tách mình ra để sống sót qua tình huống khốn khổ này. Điều này cũng đúng đối với trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành phải đối mặt với nỗi đau hay hiểm nguy không thể chạy thoát, không thể trốn tránh – ta phân ly. Và một loạt thay đổi trong mạng lưới sinh học thần kinh sẽ giúp ta thực hiện điều này, bao gồm cả việc giải phóng “thuốc phiện” của chính cơ thể ta.
OPRAH: Đó có phải là lý do khiến người ta thường nói: “Mọi thứ dường như chậm lại”?
TIẾN SĨ PERRY: Đúng vậy. Khi ở trong trạng thái phân ly, ý thức về thời gian của ta tan biến. Những trải nghiệm chỉ dài vài giây mà cứ ngỡ như nhiều phút. Những phút đó ta tưởng chừng như mình bị kẹt trong thời gian ngừng trôi.
Chẳng hạn, tôi đã phỏng vấn một vài đặc vụ FBI sau những lần họ phải nổ súng. Một vài người có thể mất tới tám phút để mô tả một sự kiện chỉ diễn ra trong vài giây. Lý do là vì ở thời điểm đó, não của họ trôi bồng bềnh. Họ rời khỏi thân thể và quan sát điều đang xảy ra.
Nhiều người trong chúng ta có thể hiểu được cảm giác này nếu đã từng nếm trải đau khổ – ta như tê dại đi. Đôi khi chúng ta thực hiện các chuyển động cuộc sống thường nhật như một con robot hoặc có những khoảnh khắc ta cảm thấy như thể đang ở trong một bộ phim.
OPRAH: Tôi vẫn thường băn khoăn, những người trên chiếc máy bay trong vụ khủng bố ngày 11 tháng 9, họ biết rằng có một kẻ khủng bố và rằng họ chỉ còn một chút thời gian để gọi về cho gia đình. Trong khoảnh khắc kinh hoảng đó, có thể chỉ có một số giác quan rơi vào trạng thái phân ly vì nhiều giác quan khác vẫn còn có thể vận hành đủ để gọi điện cho gia đình, viết lời nhắn, hoặc lao vào buồng lái.
TIẾN SĨ PERRY: Điều chị vừa chỉ ra là khả năng phân ly một phần – một cách thích ứng trong nhiều tình huống. Nếu trong trận đánh mà một người lính cứ ở trạng thái đánh thức – chạy hoặc đánh trả – anh ta sẽ nhảy lên và bị bắn. Để duy trì đường lên vỏ não – để suy nghĩ và hành động theo cách đã được huấn luyện nhằm giữ lại mạng sống mà chiến đấu – anh ta cần phân ly ở một mức độ nhất định. Đó là điều quan trọng để tồn tại. Nếu không có sự phân ly, một người càng bị đe dọa sẽ càng trở nên khiếp sợ, và vỏ não càng bị đóng chặt. Có thể phân ly một phần, ngắt khỏi các phần của thế giới đe dọa bên ngoài và tập trung vào các hành vi được huấn luyện là chìa khóa để thành công trong thể thao đối kháng hoặc biểu diễn nghệ thuật áp lực cao. Các thuật ngữ “bay” và “phiêu” thường được dùng để mô tả trạng thái phân ly một phần như vậy.
OPRAH: Trong thực tế, mỗi ngày chúng ta ai cũng đều có lúc phân ly cả. Đó là mơ mộng, đúng không? Và đó có thể là một cơ chế đối phó lành mạnh.
TIẾN SĨ PERRY: Chính xác. Ta để cho tâm trí lang thang. Tư duy phản tư và sáng tạo đòi hỏi ta phải tạm dừng trong một khoảnh khắc, suy ngẫm và dành thời gian “ở trong đầu”. Ta ngẫm về quá khứ và hình dung về tương lai, biến việc phân ly thành một phần then chốt trong cuộc sống hằng ngày. Và điều đó cũng quan trọng trong cả các mối quan hệ nữa.
OPRAH: Tôi đã ngạc nhiên khi anh bảo rằng hầu hết mọi người chỉ có thể tập trung hoàn toàn vào ai đó và những điều đối phương nói trong khoảng 15 giây rồi sau đó tâm trí sẽ đi lang thang. Tâm trí ta tập trung rồi lại thôi, dựa trên việc những điều người kia nói có liên quan đến điều gì đó trong cuộc sống của ta hay không và nếu có thì liên quan như thế nào.
TIẾN SĨ PERRY: Và đó là một khả năng thích ứng rất bình thường. Ta nên hiểu rằng phân ly không phải là một điều xấu, mặc dù nó có thể xảy ra trong những tình huống xấu. Bản thân phân ly là một điều tốt. Ví dụ như một đứa trẻ mơ mộng trong lớp có thể phát triển tính sáng tạo. Hệ thống giáo dục hiện thời của chúng ta rất tốt trong việc tạo ra những người sản xuất, nhưng lại có thể là nơi khốn khổ cho những người sáng tạo, các nghệ sĩ và các nhà lãnh đạo tương lai.
OPRAH: Ta thường phạt đứa trẻ hay mơ mộng.
TIẾN SĨ PERRY: Đúng thế. Trong một môi trường học đường nhận thức về phát triển và sang chấn, người ta sẽ hiểu thời gian “đóng băng” có vai trò rất quan trọng đối với việc củng cố ký ức. Phản xạ phân ly nên được khuyến khích.
OPRAH: À, vâng. Tôi hiểu về cơ chế phân ly này nhờ vào ngôi trường mà tôi đã xây dựng ở Nam Phi. Những cô gái ở đó thật tuyệt vời – anh cũng đã gặp nhiều người trong số họ. Nhưng họ đến từ những hoàn cảnh đầy khó khăn, đã phải chịu sang chấn, và chúng tôi đã phải đào tạo để các giáo viên hiểu rằng mơ mộng hoặc phân ly thực ra là tốt cho các em ấy. Đó là cơ chế đối phó khi ta lớn lên trong môi trường hỗn loạn không thể chạy thoát, khi sự hỗ trợ từ bên ngoài hay những cách khác để tự điều tiết chỉ có được ở mức tối thiểu. Ta cần phải có khả năng tạm dừng. Ta phải tách khỏi môi trường độc hại cùng sự căng thẳng mà nó mang lại, để tồn tại.
TIẾN SĨ PERRY: Chính xác. Sự phân ly, với tư cách là một cơ chế đối phó, sẽ xảy ra thường xuyên hơn khi một cá nhân cảm thấy mình không thể trốn chạy khỏi tình huống đe dọa. Nếu là con cái trong gia đình có nhiều xung đột, ta không có nhiều lựa chọn. Ta không thể nói: “Thôi, con ra ngoài sống”. Trẻ quá nhỏ cũng không thể đánh trả hay chạy trốn. Chúng buộc phải ở lại.
OPRAH: Đến mức nào thì phân ly từ chỗ là một cơ chế đối phó hiệu quả trở thành một rối loạn? Khi đứa trẻ ngày càng thu mình vào thế giới nội tâm?
TIẾN SĨ PERRY: Chị đã phần nào hiểu rõ được vấn đề này khi nói về những đứa trẻ có cha mẹ lơ là. Hãy nhớ rằng, dạng căng thẳng không thể đoán trước, không thể kiểm soát và kéo dài sẽ khiến các hệ thống ứng phó với căng thẳng trở nên mẫn cảm. Và nếu phân ly là phương thức thích ứng chủ đạo của ta trong suốt một thời gian dài khi còn nhỏ, trong ta sẽ hình thành phản ứng phân ly mẫn cảm đối với bất kỳ thách thức nào. Phản ứng phân ly lúc này sẽ hoạt động quá tích cực và quá mức.
Như một số cô gái trẻ tại OWLAG, vì tuổi thơ đã phải trải qua quá nhiều hỗn loạn và đe dọa, vậy nên, khi lớn lên, các em cũng thường rơi vào trạng thái phân ly mỗi khi phải đối mặt với bất kỳ thử thách hay bất kỳ sự khó chịu nào.
OPRAH: Tôi nghĩ phần thảo luận này của chúng ta sẽ hữu ích cho rất nhiều người đang băn khoăn tự hỏi tại sao bản thân lại thường có xu hướng bỏ cuộc. Tại sao mình không thể tiếp tục khi mọi việc trở nên khó khăn? Đó là bởi vì bộ não của họ đã được huấn luyện để phân ly khi cảm thấy bất tiện hoặc cảm thấy như bị đe dọa. Ngay cả khi ta biết một bài kiểm tra toán không phải là mối đe dọa lớn như việc có người muốn hại ta, thì phản ứng phân ly của ta vẫn quá tích cực đến mức ngắt ta khỏi cả bài kiểm tra toán.
TIẾN SĨ PERRY: Đúng vậy. Nhưng phản ứng không phải lúc nào cũng là ngắt mạch hoàn toàn. Như ta đã nói ở trên, phản ứng phân ly trước các thách thức và đe dọa diễn ra theo một chuỗi liên tục (xem Hình 6). Ở những người có xu hướng phân ly với căng thẳng, bước đầu tiên trong chuỗi là né tránh. Những người này không muốn xung đột. Họ muốn không ai nhìn thấy họ. Họ tránh tiếp xúc bằng mắt. Họ không xung phong. Họ ngồi im trong các cuộc thảo luận. Nếu họ không thể vô hình được và có người “đối đầu” với họ – Còn anh/chị nghĩ sao? – họ sẽ chuyển sang trạng thái phục tùng, nhưng đó là sự phục tùng không thật tâm.
OPRAH: Họ trả lời điều họ nghĩ người kia muốn nghe, nhưng họ không thật sự tham gia vào cuộc trao đổi.
TIẾN SĨ PERRY: Đây là một trong những phần khó khăn nhất khi làm việc với trẻ em bị sang chấn phát triển.
OPRAH: Không chỉ trẻ nhỏ đâu. Tôi đã thấy hành vi này ở cả người lớn. Nhiều năm trước, trong một chương trình được thực hiện cùng với Gary Zukav, có một phụ nữ giải thích rằng sau tuổi thơ bị lạm dụng tình dục, cô phá hoại hết các mối quan hệ trưởng thành của mình, bất chấp có đang hạnh phúc hay không, bằng cách tự xa cách về mặt cảm xúc. Cô xa cách ngay cả khi nói rằng cô quan tâm sâu sắc tới người mà mình đang ở bên. Cô ấy đi qua các bước của chuỗi – phục tùng – nhưng như anh nói, đó là sự phục tùng rỗng tuếch. Cô không thực sự ở đấy. Nhưng sau khi làm việc với chuyên gia trị liệu, hiện tại cô ấy đã có thể thực tập “có mặt” – hoàn toàn hiện diện ở khoảnh khắc hiện tại. Gary Zukav cũng đã xác nhận cảm giác của cô ấy khi anh thừa nhận rằng, trong nhiều người luôn tồn tại một “nỗi sợ phải sống”. Tôi sẽ không bao giờ quên được câu nói ấy.
TIẾN SĨ PERRY: Thật thú vị khi nghe anh ấy nói thế. Một trong những hành vi thường thấy đi kèm phản ứng phân ly mẫn cảm là tự cắt rạch. Và những người tự cắt rạch ấy thường nói: “Việc đó khiến tôi cảm thấy còn sống, việc nhìn thấy máu của mình. Thật dễ chịu”.
OPRAH: Anh có thể giải thích cơ chế tâm lý đằng sau việc tự cắt rạch được không? Có lẽ không chỉ có mình tôi không hiểu được sao người ta lại nghiện việc đó.
TIẾN SĨ PERRY: Từ bên ngoài nhìn vào, ta có thể thấy việc tự cắt rạch là rất khó hiểu. Ta đã nói về cách các hệ thống ứng phó với căng thẳng có thể tạo nên các phản ứng quá mức, về việc người phải trải qua sang chấn không thể tránh khỏi và không thể chạy trốn sẽ phân ly ra sao – và nếu kiểu sang chấn đó kéo dài mãi hoặc đến mức cực đoan, các hệ thống phân ly sẽ trở nên mẫn cảm: hoạt động quá tích cực và quá mức.
Hãy nhớ rằng quá trình phân ly sẽ giải phóng các chất giảm đau nhóm opioid (enkephalin và endorphin) – đây là các chất giảm đau nội sinh. Nếu một người không có phản ứng phân ly mẫn cảm, cơ thể họ sẽ tiết ra một chút chất giảm đau đó để họ có thể chịu đựng cơn đau – lượng opioid tiết ra khá nhỏ và tỷ lệ với vết cắt. Nhưng khi người có phản ứng phân ly mẫn cảm tự cắt rạch mình, lượng chất giảm đau sẽ được tiết ra nhiều hơn, gần giống như khi dùng một chút chất gây nghiện như heroin hay morphine vậy.
OPRAH: Anh đang nói rằng họ thực sự cảm thấy dễ chịu? Vết cắt không có cảm giác đau đớn?
TIẾN SĨ PERRY: Chất giảm đau từ vết cắt có thể thực sự tạo cảm giác điều hòa và an ủi. Đối với một số người thì đó là phần thưởng. Nó khiến họ cảm thấy thoải mái.
OPRAH: Họ không đau.
TIẾN SĨ PERRY: Hoàn toàn không. Thực tế thì đó có thể trở thành cách tự điều hòa yêu thích của họ.
OPRAH: Tôi chưa bao giờ nghĩ theo cách này. Vậy là, để việc cắt rạch tạo ra cảm giác được xoa dịu, ta phải ở trong trạng thái rối loạn điều hòa. Còn nếu ta đang ở trạng thái điều hòa thì cắt vào sẽ đau lắm, đúng không?
TIẾN SĨ PERRY: Đúng thế, phải có phản ứng phân ly mẫn cảm. Điều này thường xuất phát từ tiền sử bị lạm dụng đau đớn, không thoát được, không tránh được – về cơ bản là sự hỗn loạn và đe dọa kinh niên khi ta còn là trẻ sơ sinh hoặc rất nhỏ, rất thường thấy là ở trường hợp bị lạm dụng tình dục.
OPRAH: Chuyện xảy ra là không thể tránh được.
TIẾN SĨ PERRY: Vâng, và sau đó hệ thống sinh học thần kinh phân ly của ta trở nên “mẫn cảm” – phản ứng thái quá. Rồi ta phát hiện được một cách giúp ta tự vỗ về và giảm bớt nỗi đau, đó là cắt vào da thịt mình.
OPRAH: Thú vị thật. Bấy lâu nay tôi cứ băn khoăn mãi, vì tôi từng gặp những cô gái, như ta đã nói, xuất thân từ những hoàn cảnh khó khăn, đầy thử thách. Tôi đã lập ra OWLAG để trao cho họ cơ hội, và quỹ đạo cuộc đời của họ đã thay đổi. Nhưng ở trường chúng tôi vẫn còn vấn đề tự cắt rạch. Cứ mỗi lần được báo về chuyện này, tôi lại tự hỏi làm sao người ta lại biết tự cắt vào da thịt mình? Sao họ biết làm việc đó? Họ đã thấy ai khác làm như vậy sao? Nếu không có trường học và những cô gái vẫn còn ở trong làng hay thị trấn của họ thì sao? Liệu ở đó họ có cắt rạch mình không? Có phải người dân ở các làng đó cũng tự cắt rạch không?
TIẾN SĨ PERRY: Một câu hỏi thực sự rất hay. Từ sang chấn tuổi thơ, trẻ nhỏ, với phản ứng phân ly mẫn cảm, khi bóc vết thương hoặc gãi một vết muỗi đốt sẽ cảm thấy dễ chịu. Từ đó, các em bắt đầu biết rằng các em có thể điều hòa bằng cách tự làm đau mình. Nhưng số này chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng số những người tự cắt rạch. Hóa ra nhiều người học cách tự điều hòa này từ những người cùng cảnh ngộ. Đôi khi tỷ lệ tự cắt rạch sẽ tăng khi có một chương trình truyền hình nổi tiếng nói về nó.
Một số trẻ thử nghiệm việc cắt rạch mình và cảm thấy: Không được, đau lắm. Mình sẽ không làm thế nữa. Một số trẻ khác thì bảo: Chà, được đấy. Cũng giống như ma túy vậy. Sẽ có một tỷ lệ học sinh trung học thử dùng chất kích thích, nhưng chỉ có 18-20% sa đà sử dụng thường xuyên. Và nếu để ý những người dùng đi dùng lại nhiều lần, chị sẽ thấy một tỷ lệ rất cao trong số đó là những người đã phải trải qua nghịch cảnh phát triển. Trong nhóm không tái sử dụng, số người từng chịu nghịch cảnh phát triển là ít hơn.
OPRAH: Ma túy là một hình thức điều hòa khác đối với một số người đã trải nghiệm sang chấn.
TIẾN SĨ PERRY: Đúng thế. Có nhiều dạng tự điều hòa sai lầm, nhưng tất cả đều gắn liền với cùng một cơ sở sinh học thần kinh của các hệ thống căng thẳng và phần thưởng. Một số trẻ có thể rung lắc và đập đầu vào tường.
OPRAH: Vâng, tôi đã thấy những chuyện như vậy.
TIẾN SĨ PERRY: Những việc đó cũng có tác dụng tương tự. Lại có những trẻ khác phát hiện ra rằng việc nhổ tóc hay lông mày cũng sẽ giúp chúng thoải mái hơn.
OPRAH: Chúng ta thật sự rất cần phải hiểu những điều này. Tôi đã không nhận ra rằng tất cả lại liên hệ mật thiết với nhau như vậy.
TIẾN SĨ PERRY: Trẻ luôn tìm cách để tự xoa dịu bản thân. Tự khiến mình nôn cũng có thể làm chất giảm đau tiết ra. Thành ra, một số chứng rối loạn ăn uống có liên quan tới việc tự xoa dịu chứ không phải chỉ là các vấn đề về ngoại hình. Đó cũng là một hình thức xoa dịu không phù hợp.
OPRAH: Hay thật, nhưng những hành vi này đôi lúc quá cực đoan. Có hành vi đối phó nào phổ biến hơn không?
TIẾN SĨ PERRY: Có chứ. Chúng có thể phát triển thành đặc điểm tính cách. Thoạt đầu, chúng ta sẽ không dễ để nhận ra, nhưng phản ứng phân ly mẫn cảm có thể ảnh hưởng đến việc người ta chọn né tránh hay đối mặt với tình huống rắc rối cũng như trốn chạy hay tương tác với kẻ thách thức mình.
OPRAH: Tôi đã từng nhắc đến việc, trong một thời gian dài, một trong những đặc điểm tính cách chính của tôi là muốn làm vừa lòng mọi người. Điều này ảnh hưởng đến mọi thứ – cân nặng của tôi, sức khỏe của tôi, công việc của tôi, các mối quan hệ của tôi. Khi là nạn nhân của ngược đãi và sau đó được dạy rằng phải im lặng về việc đó, sau cùng ta sẽ luôn muốn làm vừa lòng mọi người. Lên tiếng sẽ dẫn đến kết quả bị trừng phạt, vậy nên ta không còn biết phải nói “Không” như thế nào.
TIẾN SĨ PERRY: Làm vừa lòng mọi người là cơ chế đối phó kinh điển, đó là một phần của hành vi phục tùng đi cùng phản ứng phân ly. Nhưng một lần nữa, điều quan trọng cần nhớ là, không phải tất cả các hành vi phân ly và tự điều chỉnh mang tính phân ly đều xấu.
Khả năng kiểm soát hành vi phân ly có sức mạnh rất lớn. Nó cho ta khả năng nhận thức phản tư, giúp ta tập trung cao độ vào một nhiệm vụ cụ thể. Thôi miên, “bay”, “phiêu”, trong dòng chảy – tất cả đều là ví dụ cho trạng thái “xuất thần” liên quan đến phân ly. Kiểm soát trạng thái “xuất thần”, khi nào thì nên đi vào trạng thái đó và đi vào đó bằng cách nào, là một tài năng đấy. Tôi xin bảo đảm với chị, Oprah, rằng chị thực sự giỏi trong việc phân ly. Đó là một trong những siêu năng lực của chị.
OPRAH: Thật sao?
TIẾN SĨ PERRY: Chắc chắn. Hãy bắt đầu với việc chị thích đọc sách như thế nào.
OPRAH: Ồ, phải, đúng là thế. Đối với tôi, sách luôn là một lối thoát. Đó là con đường đưa tôi tới tự do. Thực tế thì tôi biết đọc từ năm lên ba, và ngay khi vừa biết đọc thì tôi cũng đã nhanh chóng nhận ra rằng có cả một thế giới bên ngoài trang trại của bà mình ở Mississippi.
TIẾN SĨ PERRY: Đúng. Và chị có năng lực phản tư sâu sắc.
OPRAH: Vâng, đúng thật thế.
TIẾN SĨ PERRY: Và chị có thể đào sâu nhiều ngóc ngách trong đầu và hình dung những điều trong tương lai theo cách nhiều người khó mà làm được. Đó là phân ly đấy. Nó lành mạnh, có tác dụng chữa lành, và hiệu quả. Đây là lý do vì sao ta cần cẩn thận trong việc xem hành vi phân ly như một chứng bệnh hay một hành vi tiêu cực. Nó có thể là một sức mạnh vô song.
Nhưng đối với chị, đôi khi, có vẻ cơ chế thích nghi phân ly đã đưa đẩy chị vào con đường tuân phục. Chị cố đem lại cho mọi người cái mà họ muốn.
OPRAH: Vâng, chiều lòng mọi người.
TIẾN SĨ PERRY: Đó là trạng thái mặc định của chị: quan sát, làm những gì được yêu cầu, không cho ai có lý do để tức giận – luôn đem lại cho người khác thứ mà họ muốn.
OPRAH: Chính xác là như thế. Chỉ cần đem lại cho người ta thứ mà họ muốn.
TIẾN SĨ PERRY: Nhưng dần dà chị đã thay đổi. Chị đã điều chỉnh được hành vi tuân phục quá mức. Chị thường dùng khái niệm ý định, và khi chị nói vậy, tôi nghĩ đến khái niệm “có thể kiểm soát” (xem Hình 3). Cuộc sống của chị hiện tại rất bận rộn, đầy những thách thức và yêu cầu, nhưng chị đã tiếp nhận những yếu tố gây căng thẳng đó, sử dụng các ranh giới và ý định của riêng mình để những căng thẳng trong cuộc sống trở nên dễ đoán, có thể kiểm soát và vừa phải hơn. Đó là mô thức chữa lành và xây dựng phẩm chất kiên cường của các kiểu mẫu kích hoạt căng thẳng.
OPRAH: Ý định có sức mạnh to lớn, đó là điều tôi đã học được từ Gary Zukav. Điều này thực sự đã thay đổi mọi thứ, là sức mạnh dẫn đường cuộc đời tôi. Gary đã dạy tôi rằng, ý định đi trước mọi ý nghĩ và hành động, và kết quả của những trải nghiệm được định đoạt bởi ý định ta đưa vào đó. Nghe có vẻ phức tạp, nhưng thực sự mọi việc tôi làm đều bắt đầu bằng câu hỏi: Ý định của mình là gì?
Một khi đã hiểu được điều này, mọi quyết định của tôi đều được đưa ra dựa trên những gì tôi đã định; không còn dựa vào những gì người khác muốn tôi làm hay những gì tôi nghĩ sẽ khiến họ hài lòng. Tôi đã từng bị rất nhiều người bắt nạt, nhưng sức mạnh của ý định đã giúp tôi tạo ra ranh giới để chỉ làm những gì tôi muốn làm – những thứ thật sự phù hợp với con người thật và hệ giá trị của tôi. Với mọi quyết định, dù lớn hay nhỏ, việc học được cách nói không đã chữa lành tôi, và ý định đã cứu chuộc đời tôi.
Nhân nói về các quyết định và lựa chọn, tôi muốn trở lại một câu hỏi đã khiến rất nhiều người trong chúng ta bối rối. Tại sao những người là nạn nhân của sang chấn lại thường bị cuốn vào các mối quan hệ ngược đãi?
TIẾN SĨ PERRY: Trước hết, tôi cần mở rộng câu hỏi, bởi ta cần thấu hiểu không chỉ mỗi hành vi ngược đãi mà phải hiểu là tương tự với mọi hành vi. Việc đó rất quan trọng. Điểm mấu chốt là tất cả chúng ta đều có xu hướng bị thu hút bởi thứ quen thuộc, kể cả khi thứ quen thuộc đó không lành mạnh hay mang tính hủy hoại. Ta luôn bị thu hút bởi những thứ đã cùng ta lớn lên.
Như đã nói, khi ta còn nhỏ, não bộ sẽ bắt đầu tìm hiểu và diễn giải các trải nghiệm, từ đó, nó sẽ xây dựng trong tâm trí ta một mô hình về thế giới. Bộ não được tổ chức xoay quanh sắc thái và mức độ căng thẳng của những trải nghiệm đầu tiên. Vì vậy, nếu ngay từ sớm ta được chăm sóc theo cách lành mạnh, được nuôi dưỡng một cách an toàn, ta sẽ nghĩ rằng con người ai cũng có tính tốt. Và, như cũng đã nói, ta sẽ phóng chiếu thế giới quan này lên những người ta gặp, và sự phóng chiếu đó sẽ thực sự khơi dậy những điều tốt đẹp trong những người ấy.
Nhưng nếu khi còn nhỏ, ta phải trải qua hỗn loạn, đe dọa hoặc sang chấn, não bộ của ta sẽ được sắp xếp theo quan điểm rằng thế giới này không an toàn và mọi người đều không đáng tin. Hãy nghĩ đến James. Cậu bé không cảm thấy an toàn khi ở gần người khác. Sự gần gũi khiến em cảm thấy bị đe dọa.
Ở đây có chút rối rắm. James cảm thấy thoải mái nhất khi thế giới bên ngoài khớp với thế giới quan của em. Bị từ chối hay bị đối xử tệ là những thứ phù hợp với thế giới quan này. Điều gây mất ổn định nhất đối với bất kỳ ai là những niềm tin cốt lõi của họ bị thách thức. Như nhà tâm lý học Virginia Satir đã nói: ta cảm thấy dễ chịu khi chắc chắn về sự khốn khổ hơn là khốn khổ về sự không chắc chắn. Dù tốt hay xấu, chúng ta đều bị thu hút bởi những thứ quen thuộc.
OPRAH: Vậy là, nếu lớn lên trong cảnh bị ngược đãi, ta có thể rơi vào mối quan hệ với người có xu hướng ngược đãi ta, tất cả là vì cảm giác quen thuộc?
TIẾN SĨ PERRY: Vâng. Thực tế là, nếu ở trong mối quan hệ với người không đối xử tệ với mình, ta có thể cảm thấy không thoải mái và cảm giác ấy sẽ mỗi ngày mỗi lớn hơn. Và thế là, trong vô thức, trí óc ta sẽ tìm kiếm và hình thành các phản ứng “có thể đoán trước”. Ta có thể cố kích động một chút. Hay là mình làm điều này để khiến anh ta/cô ta bực mình nhỉ? Nếu hành động này khơi dậy hành vi quen thuộc – người kia nổi giận và đối xử tệ với ta, hành động này sẽ trở thành một sự xác nhận. Thế giới quan của ta được chứng thực. Kết quả là hỗn loạn và xung đột, nhưng lại thoải mái, bởi vì sự hỗn loạn là điều vốn quen thuộc.
OPRAH: Tôi đã vượt qua điều này cùng rất nhiều các cô gái ở OWLAG. Các cô gái của chúng tôi vô cùng thông minh và đầy tiềm năng, nhưng đa phần các em đều lớn lên trong môi trường không có tình yêu – các em không được thấy hay trải nghiệm tình yêu thực sự, và các em cũng chưa từng được thấy biểu hiện của tình yêu. Với phụ nữ, trong cộng đồng, ở nhà và ngay trong gia đình của các em, ngược đãi là một việc mang tính hệ thống. Và không chỉ là ngược đãi về mặt thể chất. Người ta không xuất hiện khi bảo rằng sẽ xuất hiện, cũng không làm những việc người ta đã hứa sẽ làm. Cuối cùng, các em bắt đầu tin rằng tình yêu là như thế. Các em đã được dạy như thế. Thế rồi, khi một trong các cô gái ấy gặp được chàng trai thực sự tôn trọng em, em cứ nghĩ rằng anh này có gì đó không ổn. Và như anh đã nói, em ấy thực hiện hành vi khiêu khích, thực tế là em ấy cố ý phá hoại mối quan hệ để “được” đối xử theo cách mà em đã quen – em khiến người kia từ bỏ mình. Như Maya Angelou đã luôn nói: “Ta dạy mọi người cách đối xử với ta”.
Vì vậy, tôi thực sự muốn biết: Liệu có thể khắc phục được vấn đề này không, nếu đó là cách bộ não ta phát triển? Và nếu có thì ta phải làm như thế nào?
TIẾN SĨ PERRY: Tin tốt là bộ não có thể được “uốn nắn” trong suốt cuộc đời. Ta có thể thay đổi. Nhưng ta không được thay đổi nó một cách tùy tiện. Ta có thể thay đổi nếu ta biết vấn đề gì cần được giải quyết. Theo cách nói ưa thích của chị, ta thay đổi theo một ý định cụ thể. Điều quan trọng là ta phải nhận ra khuôn mẫu.
OPRAH: Vâng, được rồi. Ta bắt đầu bằng cách xâu chuỗi các vấn đề, kết nối các dấu chấm lại với nhau. Nhưng rồi làm sao ta giúp mọi người thấy rằng mọi vấn đề thực chất chỉ là một vấn đề? Rằng đây chỉ là vấn đề cũ nhưng được khoác một lớp áo mới? Đó là cách vấn đề xuất hiện trong cuộc sống của mọi người. Cùng một kiểu người liên tục xuất hiện trong cuộc đời họ, nhưng lại mang những bộ mặt khác – một người sếp hay một người bạn độc đoán.
Tôi nói với các cô gái của mình: “Hãy nhìn xem, có một sợi chỉ xuyên suốt cuộc đời các em. Hãy nhìn kiểu bạn bè mà các em chọn, các mối quan hệ cá nhân mà các em có, mẫu bạn trai có thể thu hút em, nhìn xem điểm chung của tất cả những người ấy. Sau đó hãy tự hỏi mình xem những người ấy đem lại cho em cảm giác gì, và cảm giác nào trong đó gợi lên những cảm giác mà em từng có Và rồi, khi em trải nghiệm những cảm giác này và thốt lên: ‘Ôi, chán nản quá’, hãy để ý xem người kia có đang khơi dậy những thứ đã sẵn có ở em không”.
TIẾN SĨ PERRY: Những khuôn mẫu đó sẽ theo ta xuyên suốt cuộc đời – và thường là qua cả cuộc đời của cha mẹ và ông bà ta nữa. Nếu không nhận biết được chúng thì rất khó mà thay đổi. Những đứa trẻ và người lớn mà chúng tôi làm việc cùng đã quá quen với hỗn loạn, họ thực sự cảm thấy thoải mái hơn khi hỗn loạn, họ không thoải mái với sự bình lặng. Thành ra, khi họ tham gia một lớp học hay vào một nhà nhận nuôi mới – nơi mọi người hành xử theo cách có thể dự đoán, nhất quán và đầy quan tâm – họ lại cảm thấy không thoải mái. Dần dần, họ ngày càng trở nên khó chịu, dẫn đến việc họ cố gắng tìm kiếm và kích hoạt những hành vi mà họ có thể tiên liệu. Một số giáo viên và người nhận nuôi nói với tôi rằng: “Đứa trẻ ấy hành động như thể muốn bị phạt vậy”.
Ở một mức độ nào đó, họ nói đúng. Đứa trẻ ấy đang tìm kiếm một phản ứng có thể lường trước từ thế giới. Đối với nó, có thể lường trước nghĩa là bị phạt, bị đánh đuổi, bị hạ thấp. Em đang tìm kiếm các bằng chứng để chứng minh thế giới quan của mình là đúng: Thế giới hỗn loạn. Con người không đáng tin. Mình không thuộc về nơi này. Em cố gắng để bị đuổi khỏi lớp. Em tìm cách để bị đuổi khỏi nhà. Khi bắt đầu công việc trị liệu của mình, chúng tôi cố giúp người lớn hiểu hành vi này thực sự có ý nghĩa gì và làm cách nào để nhận ra, tất cả là nhằm không kích hoạt hành vi đó một lần nữa.
OPRAH: Đó chính xác là điều anh đã nói với tôi 10 năm trước, ngay trong tuần đầu của OWLAG. Tôi đã gọi anh vào ngày thứ ba tuần ấy.
TIẾN SĨ PERRY: Tôi nhớ chứ.
OPRAH: Các cô gái mới đến bỗng loạn lên mà chúng tôi chẳng biết tại sao. Tôi hiểu đó có thể là nhớ nhà, nhưng anh lại nghĩ một số người có thể có các vấn đề liên quan tới sang chấn, thậm chí có thể là PTSD. Anh đã chỉ ra rằng, bất kể điều kiện sống của các em từng bất lợi đến mức nào, thì chúng tôi cũng đã tách các cô gái ra khỏi nơi quen thuộc của các em. Ở nhà, có tới sáu người ngủ chung một giường, còn bây giờ lại ngủ một mình. Bộ chăn ga khác. Mức độ thoải mái khác. Cảm giác về trật tự cũng khác hẳn. Tất cả mọi người đều ở đây để yêu thương, để thể hiện sự ủng hộ, hỗ trợ và hỗ trợ nhiều hơn nữa.
TIẾN SĨ PERRY: Và sự trật tự, ổn định và những yêu thương vỗ về đó là thách thức đối với thế giới quan của những cô gái trẻ. Não bộ của họ tự hỏi: Cái quái gì đây? Họ nghĩ: Mình muốn những gì quen thuộc. Thế là họ bắt đầu giở chứng. Họ gây lộn xộn ở nơi trật tự. Họ nghĩ rằng: Mình làm gì đó cho quen thuộc mới được.
OPRAH: Mình muốn mất trật tự. Mình muốn thứ quen thuộc.
TIẾN SĨ PERRY: Chính xác. Vậy nên, điều chị cần làm là cho các em thời gian và các trải nghiệm. Họ cần sự kiên nhẫn, thấu hiểu và đủ trải nghiệm mới để “đẽo gọt” lại cái nhìn cũ và định hình cái nhìn mới về thế giới. Cần một khoảng thời gian nhất định để các mạng lưới thần kinh và tập hợp các liên hệ mới được hình thành. Và đó là điều mà OWLAG đã đem lại cho rất nhiều cô gái – những năm tháng đầy những cơ hội mới, những năm tháng được học hỏi một cách có ý thức về những điều mới mẻ, và quan trọng hơn là những năm tháng của các mối quan hệ, cấu trúc, kỳ vọng, và những bài học xã hội và cảm xúc mới. Thế giới quan của họ được chỉnh sửa, mở rộng, sáng tỏ, củng cố. Việc này cần thời gian, sự kiên trì và đôi khi cả sự giúp đỡ hay quá trình trị liệu.
OPRAH: Nhưng phải là trị liệu đúng cách.
TIẾN SĨ PERRY: Vâng. Hầu hết mọi người đều nghĩ trị liệu là một việc gì đó chỉ liên quan tới hiện tại mà không nhắc lại những gì đã xảy ra trong quá khứ. Nhưng bất kể trải nghiệm trước đây đã tạo ra những gì trong não bộ, những mạng lưới kết nối vẫn luôn còn ở đó và ta không thể chỉ đơn giản là xóa chúng đi. Ta không thể rũ bỏ quá khứ.
Trị liệu thiên về xây dựng những kết nối mới, tạo ra những lối đi mặc định lành mạnh mới. Trị liệu gần giống với việc lấy lại con đường đất hai làn và xây nên một xa lộ trải nhựa bốn làn dọc theo đó. Con đường cũ vẫn còn, nhưng ta không dùng lại nó nhiều nữa. Trị liệu là xây dựng một lựa chọn tốt hơn, một chế độ mặc định mới. Và việc đó cần sự lặp lại và thời gian; thực ra, việc này sẽ hiệu quả nhất nếu người ta hiểu cách bộ não thay đổi. Đó là lý do vì sao thấu hiểu cách sang chấn tác động đến sức khỏe lại quan trọng đến vậy, với tất cả mọi người.