“Trẻ con dễ phục hồi lắm, chúng sẽ vượt qua được thôi”.
Tôi đã rất nhiều lần bắt gặp câu nói này. Đứng cùng một quan chức thành phố New York trước đống đổ nát còn bốc khói của Trung tâm Thương mại Thế giới, ngồi cùng các đặc vụ FBI và lính biệt động Texas Rangers sau cuộc đột kích của Cục rượu, thuốc lá, vũ khí và chất nổ ATF vào khu đất của giáo phái Branch Davidian ở Waco, bước qua căn hộ đẫm máu cùng những người được giải cứu đầu tiên sau vụ xả súng trước sự chứng kiến của ba đứa trẻ, nói chuyện cùng các quan chức quận sau một vụ xả súng trường học – trời ơi, hàng chục vụ xả súng trường học. Cái điệp khúc này thật sao quá quen tai: “May mà trẻ con dễ hồi phục. Chúng sẽ ổn thôi”.
Ta thường áp niềm tin của mình lên “khả năng phục hồi” của người khác như một tấm khiên cảm xúc. Ta tự bảo vệ mình khỏi sự khó chịu, bối rối và bất lực khi phải đối mặt với tổn thương của họ. Đó là một kiểu ngoảnh mặt đi, để cho thế giới quan của ta không bị thách thức và để cuộc sống của ta tiếp tục với ít đổ vỡ nhất.
Quá trình này thường diễn ra khi một cá nhân bị ảnh hưởng bởi sang chấn hoặc bởi nỗi buồn khổ: gia đình, bạn bè và đồng nghiệp của họ bắt đầu hơi né ra một chút, e ngại sức hút mạnh mẽ của nỗi đau sau sang chấn. Khi các cuộc “thăm hỏi” đã vãn, các cuộc trò chuyện trở nên hời hợt, các tương tác cũng ngắn lại và những người khác lại tiếp tục với cuộc sống riêng, người đau buồn hoặc bị sang chấn ngày càng cảm thấy bị cô lập và đơn độc. Cảm xúc không rơi xuống đáy ngay trong những tuần đầu sau sự kiện sang chấn. Trong những tuần đầu đó, gia đình, bạn bè và cộng đồng nói chung vẫn tập trung cố gắng mang đến cho họ sự hỗ trợ về mặt tinh thần. “Kho dự trữ” về thể chất và tinh thần của bản thân nạn nhân khi này cũng giúp ích đôi phần, thường là thông qua sức mạnh của sự phân ly. Tuy nhiên, dù trải nghiệm của mỗi người là khác nhau, nhưng sau khoảng sáu tháng, ta sẽ bắt đầu chạm đáy. Sau đó ta chìm đắm dưới đáy, trồi lên hụp xuống với những kỷ niệm, những dấu hiệu khơi gợi và những cơ hội chữa lành. Một số người có thể nổi lên, và một số khác sẽ chìm xuống. Sau sang chấn, ta không còn như trước.
Ta cũng thấy sự biện minh và lảng tránh tương tự khi phải đối mặt với sang chấn quy mô lớn hoặc sang chấn của cả cộng đồng – chiến tranh, nạn đói, thiên tai, xả súng trường học, tác động xuyên thế hệ của chế độ nô lệ,... Các nhóm sở hữu đặc quyền ngoảnh mặt khỏi nỗi đau. Đối mặt với nạn phân biệt chủng tộc có hệ thống, ta nói: “Hãy nhìn xem, họ đã đi được bao xa”. Đối mặt với nạn diệt chủng văn hóa, ta bảo: “Họ cần trở thành một phần của đa số”. Đối mặt với nạn nhân của sang chấn, ta cảm thán: “Họ thật kiên cường, thế chẳng tuyệt lắm sao”. Rất dễ để tạo ra một người “khác”. Sự phân biệt ta-với-họ đã ăn sâu vào hệ thống sinh học thần kinh, đó là điều khiến sự kết nối trở thành con dao hai lưỡi. Chúng ta gắn kết chặt chẽ với dòng họ của mình, nhưng không chặt lắm với các dòng họ khác – ta cạnh tranh với họ vì nguồn tài nguyên giới hạn.
Khi sang chấn ảnh hưởng đến một nhóm người hoặc một cộng đồng nào đó, tâm chấn của sự kiện này là những người bị mất mát và nỗi đau tác động nhiều nhất. Và, lập tức, sự chú ý, năng lượng và nguồn lực được huy động để tập trung vào tâm chấn. Mọi người lao vào giúp đỡ họ. Nhưng sự trợ giúp thường không đúng lúc, thiếu tổ chức và hầu như là chưa có nhiều hiểu biết về sang chấn. Trong vài tuần đầu, hàng nghìn người tình nguyện dành thời gian; sáu tháng sau, không còn ai nữa. Sau lần dồn sức giúp đỡ ban đầu, sự dữ dội của mất mát và sang chấn bắt đầu vắt kiệt sức rồi đẩy mọi người ra xa. Các trường học hay thị trấn không muốn bị xem là “vẫn đang tổn thương”; họ muốn được xem là “đang vươn lên và hồi phục”. Người ta phát mệt vì nghe về sang chấn; họ muốn nói về sự chữa lành và hy vọng. Và những nỗ lực có chủ đích sẽ xuất hiện tại đây. Những chiếc áo phông với những câu khẩu hiệu về sức mạnh. Những chú gấu bông dành cho những đứa trẻ còn đang mất hồn. Các thanh thiếu niên đã mất được “vinh danh” ở các trận bóng đá, trước các vị phụ huynh đang than khóc. Những cử chỉ nhân ái vụng về đó là một phần trong cố gắng giúp đỡ của ta – và trong nỗ lực xóa bỏ đi cảm giác bất lực.
Sau sang chấn, điều khó nhất cần hiểu là không điều gì và không một ai có thể lấy đi nỗi đau từ các nạn nhân khốn khổ. Nhưng đó cũng chính là điều chúng ta muốn làm nhất – vì ta là những sinh vật xã hội, dễ bị lây lan cảm xúc, khi ở gần người đang đau đớn thì ta cũng đau đớn theo. Ta không muốn bị đau đớn. Khó mà không cảm thấy xót xa khi ở giữa những mảnh đời bị tàn phá. Việc cố xóa đi hay phủ nhận, việc “ngoảnh mặt đi” với nỗi đau của người khác giúp ta điều hòa.
Vì vậy, ta thường đưa ra những nhận định tùy tiện về khả năng phục hồi tự nhiên của người khác. Ta đưa ra tuyên bố chung chung, cốt cho phép mình rời bỏ những đứa trẻ bị sang chấn. Ta thôi tập trung vào bi kịch, bước tiếp với cuộc sống của mình, tự nhủ rằng họ sẽ ổn thôi. Nhưng như ta sẽ thấy qua cuộc thảo luận này, tác động của sang chấn không thể tự nhiên mà phai nhạt.
Ta có thể giúp nhau chữa lành, nhưng thường thì những giả định về khả năng phục hồi và sức chịu đựng sẽ che mắt ta, khiến ta không thấy được cách chữa trị phù hợp – cách chữa trị có thể đưa ta từ khổ đau đến sáng suốt.
–Tiến sĩ Perry
OPRAH: Anh từng nói: Trẻ em không có khả năng phục hồi bẩm sinh, chúng chỉ sinh ra với tính dễ uốn nắn. Đây là một câu nói có thể khơi gợi rất nhiều suy nghĩ. Anh có thể giải thích hai điều ấy khác nhau như thế nào không?
TIẾN SĨ PERRY: Nếu chị bóp, vặn, nói chung là tác động lực lên một quả bóng Nerf, cuối cùng nó vẫn sẽ trở lại hình dạng ban đầu. Quả bóng Nerf dễ phục hồi. Đó là kiểu phục hồi người ta nói đến khi bảo rằng trẻ con có “khả năng phục hồi bẩm sinh” sau sang chấn. Họ “ru ngủ” bản thân trong ước muốn rằng đứa trẻ có thể trải qua chấn thương tâm lý và, bằng cách diệu kỳ nào đó, vẫn sẽ không bị ảnh hưởng. Như thể trẻ con sẽ khỏe mạnh trở lại về mặt cảm xúc, thể chất, xã hội giống hệt như trước đó và quay về nhận thức ban đầu mà không hề hấn gì. Nhưng như ta đã dành cả cuốn sách này để thảo luận, mọi chuyện không đơn giản diễn ra như vậy. Chúng ta luôn thay đổi. Ta thay đổi sau tất cả những trải nghiệm của mình, cả tốt lẫn xấu. Đó là vì não bộ luôn có thể thay đổi – nó dễ uốn nắn. Nó luôn thay đổi.
Hãy nghĩ đến cái móc áo kim loại. Giả sử chị cần câu móc thứ gì đó thì móc áo là công cụ tốt nhất. Chị có thể dùng sức uốn nó thành hình dạng chị cần. Móc áo là thứ dễ uốn. Sau khi xong việc, chị có thể uốn nó trở lại hình dáng ban đầu, nhưng dù có là nhà vô địch uốn móc áo đi nữa, chị cũng không thể đưa nó về chính xác hình dạng ban đầu. Không chỉ thế, những điểm uốn sẽ bị yếu đi. Và nếu chị cứ tiếp tục uốn đi uốn lại ở cùng một vị trí thì chiếc móc áo rốt cuộc sẽ bị gãy.
Ta đã nói về khả năng phục hồi, đúng là cả trẻ con lẫn người lớn đều có thể “thể hiện khả năng phục hồi”, như cách trong ngành chúng tôi vẫn nói, khi đối mặt với thử thách hoặc thậm chí cả sang chấn. Chị có thể thể hiện khả năng phục hồi, và như ta đã nói, chị có thể xây dựng khả năng phục hồi. Nhưng đó không phải khả năng phục hồi theo kiểu quả bóng Nerf. Nó cũng không phải “vốn liếng tự có” của tuổi thơ. Khả năng trở lại đường cơ sở sau sang chấn chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố, chủ yếu là từ sự kết nối của chị.
OPRAH: Ý anh là, bất kể độ tuổi, không ai có thể không bị tổn thương sau sang chấn? Và cũng không ai có thể trở lại như cũ một khi sang chấn đã xảy ra?
TIẾN SĨ PERRY: Ở một mức độ nào đó, thì vâng, đó là ý tôi muốn nói. Tuy nhiên, một lần nữa cần làm rõ: khái niệm khả năng phục hồi là một khái niệm được sử dụng trong lĩnh vực của chúng tôi, nhưng nếu ta xem xét kỹ hơn về đặc điểm sinh học của mình sau một trải nghiệm đau thương – tất cả các cách thức biểu hiện gene, thì sang chấn vẫn sẽ thay đổi mọi người theo một cách nào đó.
Những thay đổi này tồn tại ngay cả khi không gây ra bất kỳ vấn đề rõ ràng nào trong cuộc sống thực, ngay cả khi người đó thể hiện khả năng phục hồi của mình. Chẳng hạn, một đứa trẻ có thể tiếp tục học tốt ở trường, nhưng phải tốn nhiều năng lượng và nỗ lực hơn. Hoặc ta có thể thấy một đứa trẻ trở lại được mức cảm xúc khi trước, nhưng những thay đổi trong hệ thống thần kinh nội tiết có thể khiến em dễ mắc bệnh tiểu đường hơn. Về bản chất, đó là điều mà các nghiên cứu ACE đã cho thấy: nghịch cảnh có tác động đến đứa trẻ đang phát triển. Thế đấy. Tác động đó như thế nào, bao giờ bộc lộ, làm sao để “đỡ” nó thì không phải lúc nào cũng có thể nói trước được. Nhưng sang chấn phát triển sẽ luôn ảnh hưởng tới cơ thể và bộ não của ta.
OPRAH: Nếu ta nhìn vào não của một đứa trẻ bị sang chấn thì liệu ta có thấy điểm khác biệt nào không?
TIẾN SĨ PERRY: Các kỹ thuật chụp ảnh não hiện tại tuy đã khá tân tiến nhưng vẫn chưa đủ nhạy để quét từng đứa trẻ và tự tin đưa ra nhận định, chẳng hạn như: “Vùng vỏ não trước hoạt động kém là do bị lạm dụng”. Ta chỉ biết là, nếu so sánh một nhóm trẻ chưa từng bị lạm dụng với một nhóm trẻ đã trải qua thời gian và kiểu lạm dụng tương tự nhau thì ta sẽ thấy những khác biệt có ý nghĩa thống kê trong kích thước của một số vùng não, một số khác biệt nằm ở phần kết nối, một số lại nằm trong phần vận động. Nhưng sự phức tạp của quá trình phát triển, não bộ và bản chất sang chấn khiến các nghiên cứu hình ảnh thần kinh rất khó diễn giải.
OPRAH: Vậy nếu nhìn vào bộ não của một đứa trẻ ba tuổi được nâng niu và chăm sóc và não của một đứa trẻ ba tuổi bị bỏ bê và ngược đãi, anh có thấy được sự khác biệt không?
TIẾN SĨ PERRY: Một lần nữa, việc này rất phức tạp, nhưng nếu bỏ bê là loại “bỏ bê toàn cục” thì được. Với các kỹ thuật hình ảnh phù hợp thì ta có thể thấy sự khác biệt. Nhưng một lần nữa, những điều này thực sự khó giải thích lắm.
Chỉ báo thực sự tốt nhất về sự thay đổi của não bộ sau sang chấn hoặc bỏ bê là những thay đổi về chức năng: Trẻ bốc đồng hay thiếu chú ý? Chúng có gặp phải vấn đề trong giao tiếp và ngôn ngữ hoặc các vấn đề về vận động tinh không? Chúng có chán nản hay lo lắng không? Có gặp khó khăn trong việc học không? Chúng có thể hình thành và duy trì các mối quan hệ lành mạnh không? Tất cả những thứ kể trên là những chỉ báo tốt hơn nhiều so với ảnh chụp quét não.
Chụp quét não cho thấy, mỗi người chúng ta có một bộ não độc nhất vô nhị – là điều không có gì ngạc nhiên, căn cứ trên mọi thứ ta đã nói tới. Và vì mỗi người có một bộ não độc nhất, ta sẽ trải qua căng thẳng, đau khổ và sang chấn theo những cách độc nhất. Hai người trải qua cùng một sự kiện sang chấn có thể có phản ứng khác nhau – và khả năng phục hồi cũng khác nhau.
Khi một người có thể phục hồi về mặt cảm xúc – trở lại mức hoạt động trước sang chấn – chúng tôi gọi đó là thể hiện khả năng phục hồi. Và khả năng này là điều có thể phát triển. Nói cách khác, khả năng đối phó với căng thẳng, đau khổ và sang chấn là có thể thay đổi. Đó là thứ mà chúng ta có thể xây dựng, ở mọi người. Ta có thể làm cho cơ chế đối phó của mình mạnh mẽ hơn và hiệu quả hơn.
OPRAH: Khi tôi còn nhỏ thì chúng tôi dùng từ phong hóa – thay đổi và trở nên cứng rắn hơn sau một thời gian bị môi trường tác động. Chúng tôi không có từ nào để chỉ loại sang chấn mà nhiều người Mỹ gốc Phi đã trải qua, nên chúng tôi nói rằng chúng tôi đã “bị phong hóa”. Nhà thờ có vai trò rất lớn đối với cách chúng tôi vượt qua. Chúng tôi cùng nhau “trải qua quá trình phong hóa”.
TIẾN SĨ PERRY: Chị đang nói đến một khía cạnh trung tâm của việc xây dựng khả năng phục hồi đấy. Sự kết nối với người khác là yếu tố đệm đỡ quan trọng cho bất kỳ tác nhân gây căng thẳng nào cũng như để chữa lành vết thương lòng trong quá khứ. Ở bên những người thật sự hiện diện, những người giúp đỡ và vỗ về ta. Cảm giác thuộc về.
Tất nhiên, còn có các yếu tố khác có khả năng ảnh hưởng đến năng lực thể hiện khả năng phục hồi. Một số yếu tố quan trọng hơn cả là những yếu tố liên quan tới độ nhạy của các hệ thống ứng phó với căng thẳng. Bất cứ điều gì làm cho các hệ thống đó phản ứng tích cực hoặc mẫn cảm hơn đều khiến ta dễ bị tổn thương hơn. Ở đây có thể bao gồm các yếu tố di truyền, việc tiếp xúc với rượu khi còn trong bụng mẹ, lịch sử các vấn đề với việc gắn bó hoặc các sang chấn cũ.
Hãy trở lại với phần đầu của cuộc trò chuyện, với các mạng điều tiết cốt lõi CRN. Các CRN bao gồm một loạt các mạng lưới thần kinh rất quan trọng cùng nhau vươn đến mọi phần của cơ thể và bộ não. Khi các hệ thống này được tổ chức tốt, linh hoạt và mạnh mẽ, ta sẽ có khả năng đối phó với mọi kiểu tác nhân gây căng thẳng (Hình 2 và 3).
Bên cạnh đó, các thách thức trong tầm kiểm soát, có thể dự đoán và vừa phải còn có thể giúp cho CRN mạnh mẽ hơn. Khả năng ứng phó với căng thẳng của ta được mở rộng khi chúng được rèn luyện. Vì vậy nếu một đứa trẻ có cơ hội có được những thách thức vừa phải và có thể lường trước trong quá trình lớn lên, đứa trẻ ấy sẽ có năng lực thể hiện khả năng phục hồi tốt hơn khi đối mặt với thách thức.
Khởi đầu của quá trình này là, khi trẻ sơ sinh bị đói, khát hoặc lạnh, một người chăm sóc chu đáo, ân cần sẽ đến và đáp ứng các nhu cầu của chúng. Về sau, chúng sẽ bắt đầu lần mò ra khỏi vùng an toàn – nơi có cha mẹ, và bắt đầu khám phá thế giới xung quanh. Quá trình mới mẻ này sẽ kích hoạt phản ứng căng thẳng của chúng, nhưng chỉ ở mức độ vừa phải. Khi sự căng thẳng trở nên quá mức, chúng trở về “căn cứ an toàn”. Quá trình này – rời vùng an toàn, khám phá cái mới, trở về vùng an toàn – sẽ còn tiếp diễn hàng nghìn lần ở trẻ chập chững và trẻ nhỏ. Và thông qua những thách thức nho nhỏ đó, chúng sẽ xây dựng năng lực thể hiện khả năng phục hồi khi đối mặt với căng thẳng bất ngờ.
Tất cả sự phát triển đều liên quan đến việc tiếp xúc với điều mới lạ để từ đó kích hoạt phản ứng căng thẳng. Với nền tảng là các mối quan hệ an toàn và ổn định, hàng ngàn “liều căng thẳng vừa đủ” sẽ giúp tạo nên khả năng ứng phó linh hoạt với căng thẳng. Mỗi năm học mới, gặp gỡ bạn học mới, giáo viên mới và kiến thức mới sẽ cung cấp các yếu tố gây căng thẳng vừa phải, có thể đoán trước. Tham gia vào hoạt động thể thao, âm nhạc, kịch nghệ và các hoạt động khác cũng tạo nhiều cơ hội hơn cho những căng thẳng trong tầm kiểm soát và có thể dự đoán, chính những điều đó sẽ giúp trẻ xây dựng khả năng phục hồi.
Trong khi trải qua tất cả những điều ấy, các mối quan hệ chắc chắn là chìa khóa quan trọng. Đối với trẻ sơ sinh, mối quan hệ với người chăm sóc đầu tiên là nền tảng cho năng lực ứng phó của chúng với tất cả những mối quan hệ trong tương lai. Chính trong bối cảnh được nuôi dưỡng bởi những mối quan hệ nâng niu chăm sóc, đứa trẻ có thể đón nhận thử thách; khi đối mặt với bất kỳ thử thách mới nào, luôn ở đó một người lớn có thể làm gương, khích lệ và đưa bàn tay giúp đỡ. Và phần thưởng từ mối quan hệ – một nụ cười, lời động viên, lời chúc mừng tiến bộ trong và sau thử thách – sẽ tạo động lực cho đứa trẻ, khiến các bé nỗ lực ôn luyện và ngày càng thành thạo hơn. Khi không có được sự hỗ trợ từ mối quan hệ như vậy, trẻ sẽ không đạt được nhiều “thành công” trong quá trình phát triển.
Điều thực sự quan trọng cần lưu ý là cha mẹ, giáo viên hoặc huấn luyện viên hỗ trợ phải đưa ra “liều lượng” thử thách thích hợp. Thử thách phải phù hợp với giai đoạn phát triển của trẻ, bởi vì thử thách bất khả thi sẽ khiến trẻ thất bại. Một đứa trẻ chưa học phép tính nhân thì không thể đòi hỏi trẻ học được đại số; đứa trẻ mới tập viết thì không thể đòi hỏi viết được cả câu đầy đủ. Thử thách phải vừa đúng. Không nên quá lớn, cũng không nên quá nhỏ, và phải đủ mới lạ để khiến đứa trẻ rời khỏi vùng an toàn của những kinh nghiệm đã biết và những kỹ năng đã thành thạo. Thách thức nhằm xây dựng khả năng phục hồi phải vừa đủ, vừa đúng.
Xác định được thế nào là “vừa đúng” là vấn đề chính khi đối mặt với trẻ em bị sang chấn. Hãy nhớ, các em đã thường xuyên phải sống trong trạng thái sợ hãi. Mà nỗi sợ lại ngắt các phần của vỏ não – phần suy nghĩ của não. Trong một lớp học, điều có vẻ là thách thức vừa phải, phù hợp với sự phát triển của nhiều trẻ lại có thể là yêu cầu quá lớn đối với trẻ có phản ứng mẫn cảm với căng thẳng (xem Hình 5).
OPRAH: Vậy là trẻ cần những thử thách để xây dựng khả năng phục hồi, nhưng mức độ căng thẳng của những thử thách phải vừa phải và trẻ phải được hỗ trợ trong quá trình vượt qua thử thách, nếu không thì chúng sẽ có thể bị mất kiểm soát và thất bại. Trong trường hợp đó, thay vì xây dựng sự tự tin và khả năng phục hồi, lòng tự tôn của các bé có nguy cơ bị xói mòi, hoặc tệ hơn.
TIẾN SĨ PERRY: Đúng vậy. Ta cần kích hoạt phản ứng với căng thẳng ở mức độ vừa phải. Chị không thể trở thành một vận động viên giỏi nếu không chịu được căng thẳng cũng như không thách thức mức độ chịu đựng của hệ tim mạch và các múi cơ, nhưng chị phải làm việc đó theo cách vừa phải và có thể lường trước. Nếu không, chị sẽ có nguy cơ bị chấn thương.
OPRAH: Và ta không thể trở thành một con người khỏe mạnh nếu không trải qua những thử thách. Thử thách là thứ giúp ta xây dựng khả năng phục hồi và thấu cảm.
TIẾN SĨ PERRY: Vâng. Sự phát triển lành mạnh đòi hỏi ta phải vượt qua một loạt thử thách và tiếp cận những điều mới mẻ. Thất bại cũng là một phần quan trọng của quá trình. Ta thử, ta ngã, ta đứng dậy, ta lại thử. Rồi lại thử lần nữa. Thành công nào cũng đến sau thất bại, và thường thì ta sẽ vấp phải nhiều thất bại trước khi đạt mức thành thạo. Điều quan trọng ở đây là những thách thức phải có thể chinh phục được – thách thức phải gần khớp với khả năng hiện có của ta để ta có thể thành công với một chút khích lệ, tập luyện và lặp lại.
Trẻ sống trong môi trường đầy yêu thương và sự an toàn sẽ chọn rời khỏi vùng an toàn. An toàn và quen thuộc thì “buồn chán”, và đứa trẻ đã được an toàn và ổn định sẽ tò mò muốn khám phá những điều mới. Trẻ không cảm thấy được an toàn sẽ không muốn như vậy. Một quy tắc căn bản để phát triển lành mạnh là: cảm giác an toàn và ổn định tạo nền tảng cho sự phát triển lành mạnh.
OPRAH: Quá trình mà anh đang nói đến sẽ rất khác nếu đứa trẻ ở trong một ngôi nhà chỉ toàn sự hỗn loạn hoặc thiếu sự tin cậy. Tôi đang nghĩ về một số người, những người sẵn sàng động chân tay ngay khi ta nói bất cứ điều gì khiến họ cảm thấy họ đang bị chỉ trích hoặc cảm thấy ta đang cố ý đối đầu với họ. Họ rất dễ bùng nổ.
TIẾN SĨ PERRY: Vâng, đó có thể là người có hệ thống ứng phó mẫn cảm với căng thẳng. Bộ não của chúng ta xử lý các thông tin đầu vào từ dưới lên, và nếu ai đó từng phải sống trong sự hỗn loạn, căng thẳng kéo dài hoặc không thể kiểm soát, đặc biệt trong giai đoạn đầu đời, nhiều khả năng họ sẽ hành động trước khi suy nghĩ. Vỏ não của họ hoạt động không tích cực, và phản ứng ở các khu vực thấp hơn của não trở nên áp đảo.
Rất khó để tạo ra những kết nối có ý nghĩa hoặc thậm chí chỉ là kết nối với một người không điều hòa. Và ta gần như không thể nói lý với họ. Đây là lý do tại sao việc bảo ai đó đang rối loạn điều hòa hãy “bình tĩnh đi” là việc không bao giờ có tác dụng.
OPRAH: Chỉ tổ khiến họ tức giận hơn.
TIẾN SĨ PERRY: Tất nhiên. Khi ai đó đang rất bực thì lời lẽ không có ích gì cả. Tông giọng và nhịp độ của giọng nói có lẽ sẽ hiệu quả hơn.
OPRAH: Vậy là ta hiện diện bên họ?
TIẾN SĨ PERRY: Vâng, tốt nhất là ta chỉ nên hiện diện bên họ. Nếu chị định nói, tốt nhất hãy trình bày lại những gì họ đang nói, việc này gọi là lắng nghe phản chiếu. Ta không thể nói chuyện với người đang nóng giận, buồn bã hoặc hoang mang, nhưng ta có thể là miếng bọt biển hút lấy những cảm giác đang bùng nổ của họ. Nếu chị vẫn giữ được sự điều hòa, sau cùng họ sẽ “bắt được” sự bình tĩnh của chị. Cùng lúc đó, hãy thực hiện một số hoạt động điều tiết nhịp nhàng để giữ sự điều hòa – đi bộ, đá bóng qua lại, ném rổ, tô màu bên cạnh nhau là những việc rất hữu ích. Có rất nhiều các hành động theo nhịp có thể giúp ta điều hòa.
OPRAH: Làm mọi việc với chuyển động và nhịp điệu giúp ta đồng điệu với nhau hơn, từ đó giao tiếp hiệu quả hơn.
TIẾN SĨ PERRY: Như ta đã nói, nhịp điệu rất quan trọng, nhưng nó lại là một công cụ trị liệu thường bị bỏ qua. Tôi nhớ Mike Roseman, cựu chiến binh Triều Tiên mà ta đã nhắc đến ở Chương 1, đã có lần kể về cuối tuần của mình. Khi ấy tôi trông có vẻ đang lắng nghe, nhưng thực ra tôi chỉ nghe một phần, vừa nghe vừa để cho đầu óc lang thang. Tôi cảm thấy như đã nghe đi nghe lại một câu chuyện cả chục lần. “Tôi ngủ như một đứa trẻ vào đêm thứ Bảy, ngủ trọn cả đêm. Cảm thấy rất khỏe vào Chủ Nhật. Rồi đến đêm hôm qua lại thật kinh khủng”. Rồi như có gì đó lóe lên. Tôi đã nghe chuyện này cả chục lần! Thứ Hai nào Mike cũng đều kể cùng một chuyện về đêm thứ Bảy.
Tôi ngượng nhìn ông. “Bác bảo bác đã làm gì cuối tuần rồi nhỉ?”.
Ông ấy nói: “Chúng tôi đi ăn tối rồi đến một câu lạc bộ khiêu vũ”.
“Và bác đã làm gì ở câu lạc bộ khiêu vũ?”.
Ông ấy nhướn mày nhìn tôi.
“À, bác khiêu vũ nhỉ? Nhưng có lâu không? Bác nhảy nhiều giờ liền hay chỉ một, hai bài thôi? Bác nhảy Waltz? Hip-hop?”.
“Họ chơi đủ loại nhạc, nhưng chủ yếu là swing, đôi khi chuyển qua một chút rock n roll. Tôi nhảy khá nhiều, nhảy rồi nghỉ rồi nhảy, trong khoảng ba giờ”.
“Tuần trước, bác kể rằng bác đã ngủ quên trong buổi vật lý trị liệu khi họ massage cho bác vào cuối buổi, đúng không nhỉ?”.
“Đúng”.
Tôi bắt đầu xâu chuỗi khả năng điều hòa của các hoạt động theo khuôn mẫu, lặp đi lặp lại như nhảy hay massage. Như chị còn nhớ, bác Mike Roseman bị PTSD. Hệ thống ứng phó với căng thẳng của ông ấy, gồm cả các CRN, hoạt động quá tích cực và quá mức. Điều đó khiến ông ấy khó đi vào giấc ngủ. Rồi khi ông ấy ngủ, hệ thống ứng phó mẫn cảm với căng thẳng của ông ấy khiến việc chuyển tiếp giữa các giai đoạn giấc ngủ trở nên khó khăn. Kết quả là ông ấy ngủ rất nông, thường thức giấc chỉ sau vài tiếng, nhiều đêm ông ấy chỉ thiếp đi vài phút rồi sẽ giật mình tỉnh giấc vì một tiếng động nhỏ. Ông ấy luôn mệt mỏi. Nhưng ông ấy đã có một giấc ngủ dài, sâu và sảng khoái sau hàng giờ khiêu vũ, và hơn hết, chỉ trong vài phút, ông đã có thể đi vào giấc ngủ, khi được massage.
Từ thời điểm đó trở đi, một phần chính trong việc trị liệu của Mike là “vật lý trị liệu”. Vài lần một tuần, ông ấy sẽ được massage “cái lưng tệ hại” của ông. Tôi khuyến khích ông ấy khiêu vũ theo “liều lượng” ít hơn nhưng dàn trải trong suốt cả tuần, kết hợp thêm cả đi bộ. Ông ấy bắt đầu đi bộ khắp thị trấn. Khoảng một tháng sau khi tạo ra một lịch trình sinh hoạt nhịp nhàng và có cấu trúc, Mike bắt đầu ngủ ngon hơn hẳn, các triệu chứng hậu chấn khác cũng bắt đầu ít gặp hơn.
OPRAH: Thật khó tin khi một việc đơn giản như đi bộ lại có thể có tác dụng đến vậy. Việc đi bộ cũng giúp điều hòa tôi rất nhiều.
TIẾN SĨ PERRY: Nếu chị có thể đi bộ ngoài thiên nhiên, khả năng điều hòa sẽ còn cao hơn gấp nhiều lần nữa. Các yếu tố tạo cảm giác trong thế giới tự nhiên sẽ vỗ về ta bằng nhịp điệu điều hòa của chúng.
Hãy nói tiếp về cách ta có thể giúp đỡ một người bị rối loạn điều hòa. Thay vì đưa ra yêu cầu: “Nào, nói tôi nghe bạn đang nghĩ gì”, ta cần để họ có cảm giác có quyền kiểm soát, để họ chọn điều họ muốn nói, nói vào khi nào và ở mức độ ra sao. Nếu chị trao cho đối phương quyền kiểm soát và giúp họ cảm thấy an toàn, khả năng họ nói ra điều khiến họ khó chịu sẽ cao hơn.
OPRAH: Vâng! Tôi nhớ lần đầu phỏng vấn cha mẹ của Elizabeth Smart. Chắc anh còn nhớ, Elizabeth từng bị uy hiếp bằng dao và bị bắt cóc khi đang ở nhà tại Salt Lake City. Cô bé đã bị giam giữ trong hơn chín tháng, khi ấy em chỉ mới có 14 tuổi. Khi chúng tôi phỏng vấn bố mẹ của Elizabeth sau khi cô bé đã phục hồi, tôi hỏi: “Cô bé đã nói gì về chuyện đó? Anh chị đã nói với cháu những gì?”, và họ bảo rằng cô bé vẫn chưa nói gì cả. Lúc đó, tôi rất ngạc nhiên, nhưng giờ thì tôi đã hiểu. Họ chờ Elizabeth. Cô bé sẽ cất tiếng, theo cách mà em chọn, và vào thời điểm mà em cảm thấy cần phải nói. Bởi vì, như anh vừa nói, với nạn nhân của sang chấn, nếu ta kiểm soát thời gian và mức độ của cuộc trò chuyện, ta có thể sẽ gây thêm sang chấn, thay vì chữa lành.
TIẾN SĨ PERRY: Chính xác. Mục đích của chúng ta là mang đến những tương tác có tác dụng trị liệu hay chữa lành. Đó phải là những tương tác vừa phải, có thể được kiểm soát và có thể lường trước. Chị còn nhớ về cuộc trò chuyện với Gayle chứ, và cả cậu bé đã nói với cô nhân viên thu ngân rằng mẹ của mình đã chết? Việc kiểm soát thời điểm, mức độ và khía cạnh được chia sẻ về sự kiện đau thương cho phép một người tạo ra mô hình trị liệu phục hồi của riêng họ. Không ai biết đâu là “liều” vừa phải cho việc thăm lại một ký ức sang chấn rõ hơn chính người bị sang chấn. Đối với cậu bé tội nghiệp, “liều thăm lại” của cậu chỉ dài có vài giây.
Chúng ta đã nói rất nhiều về các kiểu kích hoạt căng thẳng dẫn đến “mẫn cảm”, về cơ bản là ngược lại với khả năng phục hồi. Nhưng khi chúng ta kích hoạt ký ức sang chấn và hệ thống ứng phó với căng thẳng theo những cách mang lại khả năng kiểm soát và dự đoán, chúng ta có thể bắt đầu điều chỉnh hệ thống mẫn cảm. Quá trình chữa lành sẽ bắt đầu khi ta có hàng chục thời điểm trị liệu mỗi ngày để nạn nhân sang chấn có thể kiểm soát, xem lại và điều chỉnh lại trải nghiệm sang chấn.
Khi chị có bạn bè, gia đình và những người lành mạnh khác trong đời, chị sẽ có một môi trường chữa lành tự nhiên. Ta chữa lành tốt nhất khi được ở trong cộng đồng. Tạo ra một mạng lưới kết nối – một ngôi làng hay bất kỳ cách gọi nào khác mà chị muốn – sẽ tạo nên những cơ hội thăm lại sang chấn ở liều lượng vừa phải, dễ kiểm soát. Kiểu mẫu kích hoạt căng thẳng đó sẽ điều chỉnh đường cong căng thẳng – phản ứng (xem Hình 5), nhờ đó, người có phản ứng mẫn cảm có thể trở về trạng thái “Điển hình về mặt thần kinh” – bớt mẫn cảm, không còn quá dễ bị tổn thương nữa. Và cuối cùng, họ sẽ có thể phát triển năng lực thể hiện khả năng phục hồi.
Hành trình từ sang chấn đến điển hình rồi đến phục hồi sẽ cho chúng ta những góc nhìn và sức mạnh độc đáo. Hành trình này sẽ tạo nên sự thông thái sau sang chấn.
Trong hàng nghìn và hàng vạn năm qua, loài người sống trong những nhóm nhỏ xuyên thế hệ, tuy không có phòng khám tâm thần nhưng lại có rất nhiều sang chấn. Tôi cho rằng tổ tiên của chúng ta đã phải nếm trải các vấn đề sau sang chấn: lo âu, trầm cảm, mất ngủ. Nhưng tôi cho rằng họ cũng đã trải nghiệm cả quá trình chữa lành. Loài người chúng ta không thể tồn tại nếu phần lớn tổ tiên của mình bị sang chấn, từ đó mất đi khả năng hoạt động hiệu quả. Các trụ cột của phương pháp chữa bệnh truyền thống là: 1) sự kết nối với dòng họ và thế giới tự nhiên; 2) nhịp điệu chữa lành thông qua nhảy múa, đánh trống và hát hò; 3) một tập hợp niềm tin, giá trị và câu chuyện mang lại ý nghĩa cho cả những sang chấn vô nghĩa và ngẫu nhiên; 4) đôi khi, những chất gây ảo giác tự nhiên hoặc các thảo dược sẽ được sử dụng để tạo điều kiện cho quá trình chữa lành dưới sự hướng dẫn của một thầy lang hoặc trưởng lão.
Không có gì ngạc nhiên khi các phương pháp điều trị sang chấn tốt nhất hiện nay chỉ là những phiên bản của bốn kiểu kể trên. Nhưng, không may rằng, có rất ít các phương pháp hiện đại sử dụng tốt cả bốn. Mô hình chữa bệnh thường tập trung quá mức vào tâm thần dược học (4) và các phương pháp tiếp cận nhận thức hành vi (3) trong khi quá coi nhẹ sức mạnh của sự kết nối (1) và nhịp điệu (2).
Tôi từng làm việc với một bé gái bốn tuổi tên là Ally. Cô bé đã phải chứng kiến cái chết của mẹ mình dưới tay bố mình, và người bố về sau cũng đã tự sát. Ally sống trong một cộng đồng gắn bó khăng khít, và sau sang chấn mất cha mẹ, cô bé chuyển đến sống cùng một người dì. Có lẽ là có đến ba chục anh em, cô dì chú bác ông bà sống trong cộng đồng ấy. Họ luôn ở bên nhau trong các dịp sinh nhật, lễ lạt, các sự kiện gia đình. Ally tham gia tích cực các hoạt động ở nhà thờ, thường xuyên chơi thể thao, đi học tại một ngôi trường luôn liên tục động viên, hỗ trợ em, và các thầy cô giáo của em thì vô cùng “nhạy cảm với sang chấn” – luôn cho em cảm giác an toàn, được chào đón và xem việc giải quyết tác động của sang chấn là sứ mệnh giáo dục của bản thân. Một phần công việc của chúng tôi với cô bé này là giảng dạy kiến thức về sang chấn cho những người lớn trong đời cô bé, gồm cả các giáo viên của em. Trong vài tuần đầu tiên sau khi Ally được tìm thấy, chúng tôi gặp cô bé ba lần mỗi tuần. Trong vòng một tháng, số lần gặp rút lại chỉ còn một lần mỗi tuần. Sau một năm, chúng tôi chỉ cần gặp mỗi tháng một lần. Sáu tháng sau nữa, chúng tôi bảo với người dì chỉ cần liên hệ nếu có bất kỳ câu hỏi hoặc vấn đề gì nảy sinh. Lần cuối cùng chúng tôi nghe được về Ally là cô bé được bầu làm lớp trưởng ở trường cấp hai, tích cực tham gia hoạt động thể thao và ở nhà thờ, cô bé cũng học rất giỏi nữa. Cô bé và dì báo cáo không có triệu chứng gì đáng kể. Tất nhiên, đôi lúc em vẫn có chút buồn, nhưng Ally là một cô gái lạc quan, vui vẻ, hòa đồng. Những vết sẹo vẫn còn, nhưng cô bé đã “được phong hóa”. Không chỉ thế, em còn là một tâm hồn thấu suốt. Cô bé đã phát triển được sự thông thái sau sang chấn.
OPRAH: Sự thông thái sau sang chấn. Tôi thích khái niệm này. Trải nghiệm của Ally đã có kết quả tích cực. Vậy đó chẳng phải là một ví dụ về khả năng phục hồi của trẻ nhỏ hay sao?
TIẾN SĨ PERRY: Chắc chắn rồi. Nhưng không phải cô bé sinh ra đã có khả năng phục hồi. Ally có thể cho thấy khả năng phục hồi khi đối mặt với bi kịch nhờ vào chất lượng của các mối quan hệ yêu thương mà cô bé có được từ sớm trong đời. Khả năng phục hồi là một khả năng có thể tăng giảm, không phải là đặc điểm bẩm sinh trọn đời. Nếu Ally không có một gia đình an toàn, ổn định và toàn tâm nuôi dưỡng em, không có các thầy cô giáo có hiểu biết về sang chấn hay không có đức tin mạnh mẽ, khả năng hồi phục của cô bé sẽ nhanh chóng bị xói mòn. Khả năng chữa lành và tiếp tục thể hiện sự kiên cường của Ally liên quan đến những mối quan hệ an toàn và ổn định, nhờ đó cô bé mới có thể thấu hiểu nỗi kinh hoàng và đặt nó vào một bối cảnh mới theo niềm tin của em. Ngay cả những người tưởng chừng kiên cường nhất cũng có thể kiệt quệ bởi sự thiếu vắng của các mối quan hệ, bởi căng thẳng, khổ đau và sang chấn tiếp diễn.
OPRAH: Câu chuyện của Ally và cách anh nói về sức mạnh chữa lành của các dòng họ nhiều thế hệ từ hàng nghìn năm trước khiến tôi nhớ lại thời ấu thơ của mình ở Kosciusko, Mississippi. Nhà thờ đã trở thành trung tâm của cuộc sống chúng tôi. Mỗi tuần tôi đều đến đó học trường Chủ Nhật rồi dự lễ mười một giờ. Chúng tôi về nhà và bà sẽ nấu ăn trước khi chúng tôi quay lại để dự một lễ khác vào lúc ba giờ, sau đó đến lớp Baptist Union lúc năm hoặc sáu giờ. Các tối thứ Tư, chúng tôi tham gia lễ cầu nguyện và tập hát đồng ca. Mới ba tuổi rưỡi, tôi đã nói trước giáo đoàn. Khoảng thời gian trong ngôi nhà thờ nhỏ màu trắng bên con đường đất đỏ đó chắc chắn đã hình thành nên nền tảng tinh thần cho cuộc đời tôi.
Sau đó, khi sống ở Nashville cùng cha, tôi đã nhận lời làm phóng viên tại một đài truyền hình ở Baltimore. Khi tôi chuẩn bị rời xa gia đình cùng cuộc sống mà mình đã quen thuộc, cha tôi đã khuyên tôi “Hãy tìm ngôi nhà của nhà thờ”. Vào thời điểm đó, tôi chỉ nghĩ cha muốn đảm bảo rằng tôi vẫn giữ Chúa Jesus trong đời. Nhưng giờ nhìn lại, khi ta nói về sức mạnh chữa lành của các mối quan hệ, tôi nhận ra rằng việc đi đến nhà thờ không chỉ là tìm kiếm một nơi thờ phụng – đó là tìm kiếm một cộng đồng và khám phá những kết nối thực sự, dài lâu ở một thành phố mới.
Thời ấy, nhà thờ là tất cả: là nơi cố vấn, chăm sóc, an ủi, chỗ nương tựa. Người ta thậm chí còn chẳng nghĩ đến chuyện đi trị liệu. Nếu anh cần được trợ giúp, anh đến nhà thờ. Như tôi đã nói, chúng tôi cùng nhau “trải qua quá trình phong hóa”. Gia đình hội Thánh đảm bảo ta có nơi để ăn tối vào một ngày Chủ Nhật, đảm bảo sẽ có người đến thăm ta khi ta đau ốm hoặc hỗ trợ ta nếu ta không thể lo miếng ăn cái mặc cho gia đình mình.
Nhà thờ còn là nơi chúng tôi tạo ra cảm giác nhịp điệu chữa lành. Âm nhạc tại hội Thánh đã kết nối và nâng đỡ chúng tôi.
Đối với nhiều người, nhà thờ không phải là điều họ yêu thích, nhưng ai trong chúng ta cũng cần có người lắng nghe, hiện diện bên cạnh và khiến chúng ta cảm thấy được lắng nghe và được nhìn thấy. Và như ta đang nói, tôi nhận ra một bí quyết để chữa lành sau sang chấn là tìm “nhà thờ” cho riêng mình – những người ở bên ta, cộng đồng của ta. Việc đó có thể giúp ta xây dựng khả năng phục hồi, chữa lành sau sang chấn và cuối cùng là phát triển sự thông thái sau sang chấn. Điều này có thể giúp ta trở nên thấu tỏ.
TIẾN SĨ PERRY: Không thể thực sự khôn ngoan hay thông thái nếu không gặp khó khăn trong đời thực. Ta không thể thông thái sau sang chấn nếu thiếu quá trình phong hóa, và, quan trọng hơn cả, như chị đã chỉ ra, trải qua quá trình ấy cùng nhau.
OPRAH: Các kết nối xã hội sẽ hỗ trợ ta xây dựng khả năng phục hồi, và khả năng phục hồi sẽ tạo nên sự thông thái sau sang chấn, và chính sự thông thái này sẽ lại đưa đến hy vọng. Hy vọng cho ta, hy vọng cho cộng đồng, hy vọng cho những người chứng kiến và tham gia vào quá trình chữa lành của ta.
TIẾN SĨ PERRY: Đúng thế. Một cộng đồng lành mạnh là một cộng đồng chữa lành, và một cộng đồng chữa lành lại tràn đầy hy vọng vì cộng đồng ấy đã nhìn thấy sự phong hóa của các thành viên của mình – họ sống sót và phát triển.
Tôi nhận thấy hiệu quả của một cộng đồng chữa lành lần đầu tiên vào khoảng 30 năm trước. Trải nghiệm ấy đã thay đổi hoàn toàn cách tôi nghĩ về trị liệu. Kể từ đó, tôi bắt đầu hiểu rằng phần lớn kinh nghiệm trị liệu – phần lớn việc chữa lành – xảy ra bên ngoài phòng trị liệu. Việc chữa lành chủ yếu xảy ra trong cộng đồng.
Vào tháng Hai, 1993, Cục rượu, thuốc lá, vũ khí và chất nổ ATF đã đột kích giáo phái Branch Davidian của David Koresh ở Waco, Texas. Bốn thành viên ATF và sáu người bên Davidian thiệt mạng. Trong ba ngày sau đó, FBI thương lượng về việc thả 21 đứa trẻ trong số các em bị giam giữ. Việc thương lượng này sau đó đã dừng lại và thay vào đó là một cuộc vây ráp trong vòng 51 ngày, kết thúc bằng một cuộc tấn công của FBI sau khi phía Davidian nổ súng khơi mào, 76 thành viên Davidian bị giết chết, trong đó bao gồm 25 đứa trẻ còn lại.
Vài ngày sau cuộc đột kích của ATF, tôi được các quan chức bang Texas yêu cầu dẫn dắt một nhóm y tế chăm sóc cho nhóm trẻ Davidian đã được thả. Tất cả chúng – khoảng từ ba đến mười ba tuổi, gồm cả trai lẫn gái – được đưa vào một ngôi nhà lớn trong khuôn viên Nhà Giám lý ở Waco. Các em đã trải qua cuộc đọ súng kéo dài một giờ và phải chứng kiến các thành viên trong cộng đồng của mình bị giết chết. Mỗi đứa trẻ đều đã bị tách khỏi gia đình và được giao cho những người hoàn toàn xa lạ, thường là các đặc vụ FBI được trang bị vũ khí SWAT.
Những ngày trước khi chúng tôi vào cuộc, bọn trẻ đã trải nghiệm cảnh hỗn loạn. Ngày nào cũng khó lường, đứa nào cũng phải tương tác với cả chục người lạ, một số còn mang vũ khí. Giáo phái ấy đã nhồi nhét vào tâm trí các em tư tưởng, rằng tất cả những ai không thuộc phe David đều là “bọn Babylon” đang rắp tâm tiêu diệt David Koresh cùng tất cả những người theo giáo phái này. Vậy nên ở đây là những đứa trẻ bị tách rời khỏi những gì chúng biết, và bị đẩy vào tay những người mà chúng tin rằng sẽ giết chúng. Tóm lại là những đứa trẻ ấy bị sang chấn nặng nề.
Trong những ngày đầu tiên chúng tôi làm việc, bọn trẻ cho thấy nhiều biểu hiện cấp tính sau sang chấn, chẳng hạn nhịp tim trung bình của cả nhóm lúc nghỉ ngơi là 132 trong khi đáng lẽ phải dưới 90. Áp lực “phải trị liệu” cho những đứa trẻ này là có thật. Nhưng tôi biết rằng cố gắng nói chuyện với những đứa trẻ bị rối loạn kiểm soát sẽ không mang lại hiệu quả gì. Tôi cảm thấy nhiệm vụ đầu tiên của mình phải là giúp cuộc sống sinh hoạt thường ngày của các em có hệ thống và có thể lường trước.
Chúng tôi bắt đầu biến thứ không thể kiểm soát và không thể lường trước trở nên có thể kiểm soát và dễ dàng lường trước hơn. Tôi hạn chế sự tiếp cận không cần thiết tới bọn trẻ – không có thêm người lớn mới nào nữa. Chúng tôi họp nhóm vào buổi sáng, để vạch ra kế hoạch trong ngày, và vào buổi tối để tổng kết ngày; và trong các cuộc họp, bọn trẻ được đặt câu hỏi. Những khoảng thời gian vui chơi, yên tĩnh và ăn uống được thiết lập – luôn luôn vào cùng một thời điểm. Và chúng tôi cũng cho bọn trẻ nhiều cơ hội để đưa ra lựa chọn – về món chúng ăn, trò chúng chơi, cách chúng dành thời gian rảnh.
Mỗi ngày, sau khi bọn trẻ đi ngủ, nhóm của chúng tôi sẽ tiếp tục họp lại. Chúng tôi nói về từng đứa trẻ và bất kỳ tương tác nào với đứa trẻ đó đều được yêu cầu mô tả lại. Tôi ghi lại hết những tương tác ngắn ấy vào một tấm bảng, từng giờ một. Nhiều khoảnh khắc trị liệu ngắn ngủi. Một đứa trẻ hỏi: “Chú nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra với mẹ cháu?” – sau đó lắng nghe một lời trấn an rồi quay trở lại với trò chơi. Bọn trẻ được kiểm soát thời điểm cùng cách thức mà các em muốn nói về sang chấn. Chúng cũng tìm kiếm các tương tác an toàn, ổn định và điều hòa về mặt thể chất nữa. “Đẩy giúp cháu cái đu”, “Cùng vẽ đi”. Khi tăng thêm tương tác, tôi thấy rằng mặc dù không có các buổi trị liệu chính thức, bọn trẻ vẫn nhận được hơn hai giờ tương tác trị liệu mỗi ngày. Hết ba tuần với chúng tôi, bọn trẻ đã ổn định hơn hẳn, nhịp tim của cả nhóm đã xuống dưới 100, về mức bình thường. Các em cũng đã chịu tương tác hơn và nói nhiều hơn, từ đó các tương tác trị liệu bằng lời nói cũng xảy ra nhiều hơn.
Một trong những điểm quan trọng nhất rút ra được là, trẻ cần các kiểu tương tác trị liệu khác nhau vào những thời điểm khác nhau. Chúng hiểu điều này thậm chí còn rõ hơn chúng tôi. Đứa trẻ muốn nhận sự chăm chút trong yên tĩnh sẽ tìm đến một trong những nhân viên của chúng tôi, người thực sự biết lắng nghe và có thể ngồi yên không nói – một việc không dễ dàng đối với hầu hết người lớn. Đứa trẻ muốn chơi đùa sẽ tìm người trẻ hơn và chịu chơi hơn. Và nếu có đứa trẻ nào muốn tìm sự trấn an từ một nhân vật có thẩm quyền, các em sẽ tìm đến tôi. Mỗi người trong chúng tôi đều có một tập hợp đặc điểm tính cách riêng, và tại bất kỳ thời điểm nào, thế mạnh riêng của chúng tôi có thể là thứ bọn trẻ cần. Không một ai, không một nhà trị liệu duy nhất nào có thể lo hết mọi thứ cho tất cả bọn trẻ – những đứa trẻ ở các giai đoạn phát triển khác nhau và có các trạng thái điều hòa khác nhau. Công việc của chúng tôi ở Waco nhắc nhở tôi về tầm quan trọng của sự đa dạng phát triển đối với trẻ em.
Hãy nghĩ về sự đa dạng trong một dòng họ nhỏ có nhiều gia đình, nhiều thế hệ. Trẻ con sẽ được lớn lên với nhiều người lớn và người lớn hơn có thể làm gương, dạy bảo, chiều chuộng, rèn kỷ luật và chăm sóc cho chúng. Mỗi người trong dòng họ đều có một điểm mạnh riêng – đúng người vào đúng thời điểm. Không người nào được kỳ vọng đáp ứng mọi nhu cầu về cảm xúc, xã hội, thể chất hay nhận thức cho đứa trẻ đang phát triển.
Điều đó khác xa với thế giới của chúng ta hiện tại. Ta trông chờ một người mẹ đơn thân phải làm việc, phải là người ném bóng rổ với đứa con tám tuổi, phải ru đứa con sơ sinh, phải đọc sách cho đứa ba tuổi và cùng lúc nấu bữa ăn bổ dưỡng, giúp trẻ làm bài về nhà, giặt giũ, đưa từng đứa đi ngủ, sau đó đánh thức chúng và sửa soạn cho chúng đi nhà trẻ và đến trường trước khi bản thân đi làm cả ngày, rồi lại chạy về nhà để lặp lại hết những việc kể trên. Tất cả chỉ một mình.
OPRAH: Cô ấy cần người đỡ đần, cần người phụ cô ấy một tay, làm một số việc cho con cô ấy, cho cô ấy nghỉ ngơi đôi chút. Tách biệt và cô độc không phải là cách sống của ta. Ta thực sự nên làm mọi thứ cùng nhau. Vì vậy khi một người mẹ đơn thân sống với thu nhập hạn chế cố xoay xở với bốn đứa con, cố gắng vừa làm mẹ vừa làm cha, cô ấy sẽ cảm thấy quá sức hoặc cảm thấy không kham xuể – đó là bởi những việc cô đang cố gắng làm là điều bất khả thi.
TIẾN SĨ PERRY: Đó là một kỳ vọng không công bằng của xã hội chúng ta. Không một xã hội nào trong lịch sử hành tinh này từng đòi hỏi một người trưởng thành phải tự mình đáp ứng tất cả nhu cầu thể chất, xã hội, tình cảm và vật chất cho nhiều đứa trẻ.
OPRAH: Ta không được tạo nên để nuôi dạy trẻ một cách tách biệt và đơn độc.
TIẾN SĨ PERRY: Chắc chắn rồi. Việc chăm sóc đúng lý nên được chia sẻ với nhiều người lớn trong “bầy” – trong cộng đồng. Trong một toán người săn bắt hái lượm điển hình, theo cùng mỗi đứa trẻ dưới sáu tuổi sẽ là bốn cá thể trưởng thành hơn về mặt tâm lý và sinh lý. Những người này sẽ làm gương, rèn kỷ luật, nuôi dưỡng và dạy dỗ các đứa trẻ. Tỉ lệ là 4:1, bốn người lớn cho mỗi đứa trẻ dưới sáu tuổi. Giờ thì một người chăm sóc cho bốn đứa trẻ (1:4) đã là “sang” rồi. Bộ não xã hội của ta đang nhắm tới tỷ lệ 1:16. Đó là sự nghèo nàn trong các mối quan hệ.
OPRAH: Tôi cảm thấy thật tệ cho tất cả những ông bố bà mẹ đơn thân đang phải làm điều đó mỗi ngày, suy sụp cả về thể chất lẫn tinh thần và không thể chăm sóc bản thân mình tử tế. Điều này cũng khiến tôi nghĩ khác về mẹ của mình. Bà đã cố hết sức và đã quá mệt mỏi để có thể làm được gì hơn.
TIẾN SĨ PERRY: Và những ông bố bà mẹ đơn thân, giống như mẹ của chị, rốt cuộc thường cảm thấy rằng bản thân thiếu sót – rằng mình không ổn, rằng mình không đủ tốt. Trong khi thực ra chính xã hội hiện đại mới là thứ không đủ tốt. Sự kết nối mạnh mẽ với cộng đồng ngày nay quan trọng không kém gì hàng nghìn năm trước. Nhưng bi kịch của thế giới hiện đại là những cộng đồng như vậy ngày càng khó tìm. Không phải ai cũng có được người bạn như Gayle. Ngày càng ít người năng nổ trong các cộng đồng tôn giáo. Không phải ai cũng có được cảm giác thuộc về. Có mối tương quan trực tiếp giữa mức độ tách biệt xã hội của một người với nguy cơ người đó vướng phải những vấn đề về sức khỏe thể chất và tâm thần.
Khi ta thực sự được kết nối – như trong hội Thánh của chị – ta sẽ có sẵn bộ đệm đỡ cho bất kỳ căng thẳng hoặc đau khổ nào.
OPRAH: Ta được thuộc về. Ta đã đủ. Nhưng thật khó để thấy điều đó trong thế giới hiện tại.
TIẾN SĨ PERRY: Hãy hình dung, bản đánh giá thường niên của chị ở chỗ làm không tốt. Cấp trên nhận xét tiêu cực về chị. Chị cảm thấy thực sự rất buồn. Chị cứ nghĩ mãi về nó. Chị nghĩ đi nghĩ lại về nó. Chị quay sang nói với một đồng nghiệp của mình: “Anh có tin được là sếp nói thế không? Tôi không nghĩ thế là đúng đâu!”. Đồng nghiệp của chị lắng nghe và trấn an: “Phải, những lời đó không đúng đâu. Sếp lúc nào cũng vậy mà”. Chị cảm thấy được xoa dịu đôi chút. Sau đó chị gọi cho một đồng nghiệp khác và chia sẻ. Rồi chị về nhà và nói chuyện với bạn đời của mình.
Chị có được ba, bốn hoặc năm “liều” giải tỏa, chị được toàn quyền quyết định sẽ nói về chuyện đó như thế nào và vào lúc nào. Khi quan điểm của chị được lắng nghe, chị được điều hòa, được an ủi. Ngày hôm sau chị sẽ cảm thấy khá hơn. Chị đã tạo ra một bản xem lại có thể kiểm soát và vừa phải về trải nghiệm không vui và điều đó thay đổi phản ứng của chị. Chị không còn thấy quá tức tối hay buồn bã nữa. Ban đầu chị đã bị mất kiểm soát, chị đóng lại phần lý trí, bóp méo các nhận xét, phóng đại chúng lên. Nhưng giờ thì chị có thể suy nghĩ đúng hơn về các phản hồi và thấy được một số sự thật trong đó. Điều này có thể sẽ không xảy ra nếu chị không sử dụng các kết nối của mình để xem lại sự kiện và điều hòa.
Khi chúng ta có một cộng đồng, chúng ta có thể thực hiện quá trình này để điều chỉnh bất kỳ trải nghiệm căng thẳng hoặc đau buồn nào. Ta có thể xây dựng và thể hiện khả năng phục hồi. Thật ra, ta đã luôn làm như vậy. Hãy hình dung một người không có các mối quan hệ thân thiết – những mối quan hệ giúp ta điều hòa. Với người nghèo nàn kết nối, những trải nghiệm khó khăn càng bị khuếch đại trong “buồng cộng hưởng tâm trí”. Căng thẳng biến thành đau khổ. Và những trải nghiệm đau khổ sẽ khiến ta mẫn cảm hơn, dẫn đến những tác động về thể chất và tâm thần tương tự như sang chấn.
Đây là thách thức đối với thế giới hiện đại của chúng ta. Làm sao để hình thành được cộng đồng khi ta di chuyển quá nhiều, dán mắt vào màn hình quá nhiều, mất kết nối quá nhiều? Đó là thách thức chính cho việc tạo ra một tương lai lành mạnh. Làm sao ta bảo đảm được tất cả mọi người đều có các kết nối sâu sắc, có được cảm giác an toàn và thuộc về?