Chương 3Ta được yêu thương như thế nào
Trong một căn phòng tối, tôi ngồi quan sát Gloria và cô bé Tilly – ba tuổi, con của cô – qua tấm gương một chiều. Họ đang làm rất tốt những việc cần làm. Gloria đang dõi theo từng dấu hiệu của Tilly, cả hai hòa hợp hơn nhiều so với những lần thăm trước và có vẻ thoải mái với nhau hơn. Tôi đã quan sát những lần gặp mặt của họ ròng rã suốt hai năm. Giữa họ đã có nhiều thay đổi tích cực.
Bên trái tôi là nhân viên phụ trách của Cơ quan Bảo vệ Trẻ em (CPS); Tilly là đứa trẻ thứ năm cô phụ trách trong hai năm vừa qua. Bên phải tôi là Mẹ P., người nhận nuôi Tilly. Tôi đã quen biết Mẹ P. trong nhiều năm. Đó là một người phụ nữ tràn đầy tình yêu thương với nguồn năng lượng tích cực vô hạn. Chị đã nuôi dưỡng hàng chục đứa trẻ, bé nào với chị cũng đặc biệt, bé nào cũng được chị hết lòng yêu thương. Mẹ P. chắc chắn là người dạy tôi nhiều điều về sang chấn và chữa lành hơn bất cứ ai trên đời.
Gloria bị tách khỏi gia đình từ năm lên sáu, chật vật lớn lên trong hệ thống bảo vệ trẻ em, chuyển từ nhà nuôi này sang nhà nuôi khác, trường này sang trường khác, cộng đồng này sang cộng đồng khác. Gloria có nhiều vấn đề phức tạp về mặt xã hội, sức khỏe cảm xúc và thể chất liên quan tới nhiều trải nghiệm sang chấn. Không may rằng, ai cũng hiểu nhầm cô: từ bác sĩ trị liệu, người chăm sóc, nhân viên xã hội, thẩm phán, thầy cô giáo,... Nhận thức về tác động của sang chấn hồi 20 năm trước vẫn chưa được tốt cho lắm.
Năm 18 tuổi – “hết tuổi của hệ thống”, Gloria đã dùng đủ mọi loại thuốc để cố tự chữa lành cho bản thân. Vào sinh nhật lần thứ 19, cô đã mang thai tháng thứ tám, và không có nơi để về. Năm 20 tuổi, cô có một cô con gái nhỏ, không nơi nương tựa, không gia đình, không việc làm. Cuối cùng, hệ thống bảo vệ trẻ em đã đưa Tilly đi. May mắn là Tilly đã được giao cho Mẹ P. chăm sóc.
Trong hơn hai năm tiếp theo, Mẹ P. đã chăm sóc và hỗ trợ cho cả Tilly lẫn Gloria. Chị ân cần nuôi nấng, tạo dựng cho Tilly một mái nhà an toàn và ổn định. Chị mời Gloria góp mặt vào cuộc sống của Tilly, chỉ cần cô không dùng thuốc hay uống rượu. Mẹ P. nhận thấy rằng Gloria cũng cần được nuôi dưỡng, cô cũng cần sự an toàn và ổn định, không kém gì Tilly. Bên trong cơ thể người lớn, Gloria vẫn chỉ là một đứa trẻ khờ dại, không được yêu thương. Thoạt đầu Gloria không mấy hợp tác. Nhưng sau khoảng chín tháng, cô đã chịu để chúng tôi giúp đỡ điều trị những vấn đề liên quan tới sang chấn của bản thân.
Đến lúc này, cả Tilly lẫn Gloria đều đã trưởng thành đáng kể. Đã sắp đến lúc Gloria có thể tự mình chăm sóc cho Tilly được rồi. Nhưng để việc đó xảy ra, CPS phải đưa ra khuyến nghị với tòa án, và lần gặp gỡ này là một phần trong kế hoạch đoàn tụ của CPS.
Ba chúng tôi ngồi im quan sát Tilly và Gloria. Sau chừng 10 phút, Gloria thò tay vào túi áo khoác và lấy ra vài chiếc kẹo. Tôi có thể cảm nhận được sự nghiêm khắc của cô nhân viên CPS. “Không được mang kẹo đến những cuộc gặp thế này”. Ở phía còn lại, Mẹ P. cũng đã chuẩn bị sẵn sàng để “đáp trả”. Tôi khẽ chạm vào tay Mẹ P., cố trấn an. Tôi biết chị yêu thương cả Gloria lẫn Tilly.
Tilly đang ở giai đoạn tiền tiểu đường. Trong năm đầu điều trị, chúng tôi đã nhận thấy rằng Gloria, vì có quá ít công cụ giao tiếp nên thường dùng kẹo để giúp Tilly “vui”. Đó là phương pháp dỗ dành của những người chăm sóc Gloria khi cô còn nhỏ – được cho kẹo là biểu hiện của việc được yêu thương. Bộ não của ta phát triển, phản ánh thế giới mà ta lớn lên. Ta thường yêu thương người khác theo cách bản thân đã được yêu thương. Gloria chẳng qua chỉ bày tỏ tình yêu với con gái theo cách tốt nhất mà cô biết.
Cô nhân viên vẫn khăng khăng: “Cô ta biết rõ rằng cô ta không được phép làm thế. Đứa trẻ đã chớm bị tiểu đường rồi. Thế này là ngược đãi còn gì”.
“Không”, tôi nói. “Đấy là kẹo không đường”. Cô nhân viên này chỉ mới biết Tilly, và cô còn phải xử lý 60 ca khác nữa nên chưa đọc các báo cáo mới nhất.
“Làm sao anh biết?”.
“Chính tay tôi đưa cho cô ấy trước cuộc gặp mà”.
Mẹ P. mỉm cười.
Một năm trước, trong buổi họp nhóm cố gắng tìm cách cân bằng tình trạng tiền tiểu đường của Tilly với mong muốn bày tỏ tình yêu bằng kẹo của Gloria, một thành viên trong nhóm điều trị của tôi đã muốn mắng Gloria. Anh này đề nghị khám người cô trước cuộc gặp và cấm tiếp xúc nếu cô còn dấm dúi cho Tilly ăn kẹo. Mẹ P. không đồng ý. “Người mẹ tội nghiệp ấy đang cố gắng rất nhiều, đó là tất cả những gì cô ấy có. Hãy để cô ấy cho con mình ít kẹo. Đó là tất cả những gì cô ấy biết và có thể làm. Các vị sẽ không giúp cô ấy trở thành người mẹ tốt hơn bằng cách trừng phạt hay la mắng. Nếu muốn cô ấy trở thành một người mẹ biết yêu thương, ta cần yêu thương cô ấy nhiều hơn”.
Thế là, thay vì trách cứ Gloria, chúng tôi hướng dẫn cô ấy chuyển sang sử dụng kẹo không đường, đồng thời cũng cho cô biết một số thông tin cần thiết về dinh dưỡng và bệnh tiểu đường. Mẹ P. luôn muốn cả Gloria và Tilly đều nhận được thật nhiều tình yêu.
Chúng tôi giải thích điều này cho cô nhân viên mới và cùng nhau chuẩn bị các bước chuyển tiếp tiếp theo cho việc đoàn tụ. Gloria tốt nghiệp trung học và theo học ngành điều dưỡng tại một trường cao đẳng cộng đồng. Mẹ P. vẫn tích cực hiện diện trong gia đình nhỏ của họ. Thay vì ngăn cản một người mẹ yêu con “sai” cách – dù đó là tất cả những gì cô có thể làm – chúng tôi bày tỏ tình yêu với Gloria và Tilly, và chúng tôi “hướng dẫn” họ cách yêu thương.
Một trong những đặc tính đáng chú ý nhất của não bộ là khả năng thay đổi để thích ứng với thế giới riêng của mỗi người. Khi được kích thích, các tế bào thần kinh và mạng lưới thần kinh sẽ tạo ra những thay đổi vật lý – gọi là tính khả biến thần kinh. Các tế bào thần kinh được kích thích thông qua những trải nghiệm riêng biệt: bộ não sẽ thay đổi “tùy thuộc vào những trải nghiệm cụ thể”; chẳng hạn, mạng lưới thần kinh liên quan tới việc chơi piano sẽ tạo ra các thay đổi khi được kích hoạt bằng việc tập đàn piano. Những thay đổi tùy thuộc vào trải nghiệm này đưa đến kết quả là ta chơi piano giỏi hơn. Khía cạnh này của khả biến thần kinh – lặp đi lặp lại dẫn đến thay đổi – đã được nghiên cứu và hiểu rõ, và đó là lý do vì sao mà việc tập luyện trong thể thao, nghệ thuật và học tập có thể giúp chúng ta tiến bộ.
Một nguyên tắc chính của khả biến thần kinh là tính đặc hiệu. Để thay đổi một phần cụ thể bất kỳ trong não, ta cần kích hoạt đúng phần đó. Nếu muốn học chơi piano, ta không thể chỉ đọc về cách chơi piano hay xem và nghe các clip người khác chơi piano trên YouTube. Ta phải đặt tay lên các phím đàn mà chơi, ta phải kích hoạt các phần não liên quan đến việc chơi piano để thay đổi chúng.
Nguyên tắc đặc hiệu này áp dụng cho tất cả các chức năng mà não bộ điều khiển, bao gồm cả khả năng yêu thương. Nếu bạn chưa từng được yêu thương, mạng lưới thần kinh liên quan đến việc yêu thương sẽ không phát triển, như trong trường hợp của Gloria. Nhưng tin tốt là, bằng thực hành, tập luyện, những khả năng này có thể xuất hiện và phát triển.
Khi được trao yêu thương, người chưa từng được yêu thương cũng có thể yêu thương người khác.
–Tiến sĩ Perry
OPRAH: Nếu đếm số người tôi đã từng phỏng vấn – hãy tin tôi, tôi đã thử – con số chắc phải đến hơn 50 .000 người. Và trong gần 40 năm trò chuyện với họ qua The Oprah Winfrey Show, từ khi tôi còn làm việc ở Nashville cho đến tận hôm nay, tôi nhận thấy dường như có một mẫu thức không hề thay đổi: Chúng ta, ai cũng muốn được nghe từ người khác, rằng việc ta làm, điều ta nói và cả con người ta đều đáng giá và quan trọng.
Ai cũng như ai, bất kể là Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, Beyoncé cùng với “chất Beyoncé” của cô ấy, một người mẹ với những bí mật đầy đớn đau, hay một tội phạm bị kết án đang tìm kiếm sự tha thứ. Ở cuối mọi cuộc phỏng vấn, tất cả người đối diện đều nhìn tôi và hỏi: “Tôi đã làm tốt chứ?”, “Tôi được chứ?”. Họ luôn hỏi thế. Mong muốn được chấp nhận và xác nhận niềm tin của bản thân là như nhau ở tất cả mọi người. Và vượt ngoài khoa học, tôi biết điều đó tựu trung có nghĩa là: mình được yêu thương như thế nào.
TIẾN SĨ PERRY: Vâng, được thuộc về và được yêu thương là cốt lõi của “trải nghiệm con người”. Chúng ta là giống loài xã hội, được sinh ra để thuộc về một cộng đồng nào đó – để gắn kết với nhau về mặt tình cảm, xã hội và thể chất. Nếu nhìn vào chức năng tổ chức cơ bản của cơ thể con người, gồm cả bộ não, chị sẽ thấy phần lớn nó được thiết kế để giúp ta tạo ra, duy trì và quản lý các tương tác xã hội. Chúng ta là những sinh vật sống nhờ mối quan hệ.
Và khả năng kết nối một cách ý nghĩa và lành mạnh được hình thành bởi những mối quan hệ đầu đời. Tình yêu và sự chăm sóc đầy yêu thương là nền tảng cho sự phát triển của ta. Những điều đã xảy ra với ta khi ta còn bé có ảnh hưởng sâu sắc đến khả năng yêu thương và được yêu thương này.
OPRAH: Từ yêu thương được nói ra rất nhiều. Nhưng kỳ thực, điều quan trọng là ta được chăm sóc ra sao, nhu cầu cụ thể của ta được đáp ứng như thế nào. Ta đã nói về sự điều hòa. Trẻ bị đói hay lạnh là bị mất cân bằng. Và trẻ khóc để bày tỏ nhu cầu đó, để người chăm sóc đến và “điều hòa” cho nó.
TIẾN SĨ PERRY: Điều quan trọng nằm ở chỗ người chăm sóc cần phải đáp ứng nhu cầu của trẻ. Đối với trẻ sơ sinh, yêu thương phải thể hiện ở hành động: sự chăm sóc tận tâm, trách nhiệm, sự vỗ về mà người lớn đem lại. Một người bố có thể thương yêu con mình thực lòng, nhưng nếu anh ta cứ ngồi trước máy tính để đăng lên mạng xã hội rằng mình yêu con trong khi đứa trẻ đang đói và khóc thì trẻ cũng không cảm nhận được tình yêu đâu. Đối với trẻ, hơi ấm da kề da, mùi hương của cha mẹ, những hình ảnh và âm thanh của người chăm sóc, những hành động chu đáo và nhạy bén mới là tình yêu.
Hàng nghìn tương tác yêu thương, hàng nghìn hành động đáp ứng, điều hòa sẽ định hình bộ não đang phát triển của trẻ sơ sinh. Những khoảnh khắc yêu thương ấy mới thực sự xây nên nền tảng cho bộ não đang được tổ chức.
Kiểu mẫu kích hoạt căng thẳng sẽ được tạo ra khi đứa trẻ thấy đói, khát hay lạnh. Việc người chăm sóc đáp ứng các nhu cầu của chúng và đưa chúng trở về trạng thái cân bằng là cách xây dựng khả năng phục hồi mà ta đã nhắc ở chương trước. Đứa trẻ bị căng thẳng ở mức độ vừa phải sẽ khóc, tiếng khóc khiến người chăm sóc đến dỗ dành chúng, và vì người lớn đã có mặt, tận tâm và đáp ứng, nên hành vi yêu thương của họ là thứ có thể đoán định được. Khi mình thấy đói, mình khóc và họ sẽ cho mình ăn. Đứa trẻ sơ sinh sẽ liên kết những người chăm sóc mình với sự vui thích, no nê, ấm áp; và từ đó, thế giới quan được hình thành. Chị nhớ bé gái ở sân bay chứ? Mọi người đều tốt và tử tế. Chính nhờ những tương tác đầu đời mà thế giới quan của bé được xây nên. Trẻ trở nên kiên cường hay nhạy cảm quá mức và dễ bị tổn thương, tất cả tùy thuộc vào chất lượng và khuôn mẫu đáp ứng của người chăm sóc.
OPRAH: Trong mỗi tương tác, tất cả chúng ta đều có lúc băn khoăn tự hỏi: Bạn có thấy tôi không? Có nghe tôi nói không? Trẻ con từ lúc lọt lòng đã biết nhìn ánh mắt người chăm sóc – ánh mắt của họ có sáng lên, họ có vui và hạnh phúc khi chăm sóc mình không . Chúng có thể cảm nhận và đáp lại sự dịu dàng, vui vẻ, yêu thương và nhẫn nại. Chúng cảm nhận được thời gian chất lượng. Chúng biết mình được yêu thương.
TIẾN SĨ PERRY: Ở chiều ngược lại, những tương tác chăm sóc, yêu thương sẽ tạo nên khả năng yêu thương ở trẻ. Những hành động quan tâm, yêu thương sẽ phát triển mạng lưới thần kinh cho phép ta cảm nhận tình yêu thương và sau đó thể hiện tình yêu thương với người khác. Nếu ta được yêu thương, ta sẽ học được cách yêu thương.
Ngoài ra, việc chăm sóc trẻ sơ sinh với tình yêu thương còn thay đổi cả não bộ của người chăm sóc. Những tương tác này điều hòa và tưởng thưởng cả đứa trẻ lẫn người chăm sóc.
Năng lực yêu thương là năng lực cốt lõi tạo nên sự thành công của loài người. Ta sống sót được trên hành tinh này là bởi ta có khả năng hình thành và duy trì hiệu quả các cộng đồng, đội nhóm. Khi sống tách biệt và mất kết nối, ta sẽ trở nên dễ bị tổn thương. Sống với cộng đồng, ta có thể đùm bọc lẫn nhau, hợp tác săn bắt, hái lượm và chia sẻ với những người thân thuộc trong gia đình, dòng tộc. Các mối quan hệ giữ cho loài người chúng ta tồn tại, và tình yêu là chất keo siêu phàm kết dính chúng ta lại với nhau, tạo nên những mối quan hệ sâu sắc.
OPRAH: Cách ta đối xử với một đứa trẻ, từ lúc đứa trẻ ấy ra đời, sẽ là tiền đề cho thành công hoặc những vất vả về sau. Cách ta được yêu thương sẽ chi phối cách những mạng lưới thần kinh quan trọng của ta được hình thành, nhất là các mạng lưới điều tiết cốt lõi.
TIẾN SĨ PERRY: Vâng, đúng vậy. Tuy còn nhiều điều phức tạp khác đóng góp vào quá trình này, nhưng những tương tác tận tâm và yêu thương sẽ góp phần tổ chức và định hình các CRN, tạo nên nền tảng cho sức khỏe khi đứa trẻ lớn lên.
Giống như khi xây nhà: đầu tiên ta phải đổ móng, sau đó mới dựng khung, rồi lát sàn, chạy đường điện và đặt ống nước – tất cả xong xuôi thì ta mới vào ở được. Như ta đã nói, bộ não cũng phát triển từ dưới lên. Các mạng lưới bên dưới – thứ tạo ra CRN, phát triển trước, bắt đầu từ khi ta còn là bào thai trong bụng mẹ; và các chức năng mà chúng tổ chức và điều chỉnh sẽ xuất hiện đầu tiên trong quá trình phát triển của chúng ta. Chẳng hạn, một đứa trẻ sơ sinh mạnh khỏe có thể điều hòa thân nhiệt và việc hô hấp cơ bản nhưng không thể suy luận trừu tượng. Ngay cả giấc ngủ, khi này cũng chưa thực sự được tổ chức tốt và em cũng chưa thể phối hợp các kỹ năng vận động của mình. Tuy nhiên, dần dà đứa trẻ sẽ có thể đứng, thêm chút nữa sẽ có thể nói, rồi bắt đầu biết dự tính,... Các chức năng liên quan tới phần giữa và phần trên cùng của não sẽ dần được hình thành.
Có thể nói quá trình phát triển diễn ra theo cách “trả trước”, nghĩa là phần lớn việc phát triển và tổ chức não bộ diễn ra trong những năm đầu đời. Nhưng nói vậy không có nghĩa bộ não sẽ không thay đổi sau tuổi niên thiếu, ý tôi là, những trải nghiệm đầu đời tác động rất lớn tới cách ta phát triển và trưởng thành.
Hãy xem lại Cây Điều Hòa lần nữa (Hình 2). Cùng nhau, các mạng lưới điều tiết cốt lõi có thể vươn đến mọi phần của bộ não đang phát triển. Trên thực tế, tín hiệu mà não nhận được từ các CRN đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển từng vùng của não bộ. Nếu CRN được tổ chức và điều hòa một cách bình thường, các tín hiệu sẽ dẫn đến sự phát triển lành mạnh của các vùng quan trọng cao hơn (như Hệ viền và vỏ não). Nhưng nếu có bất kỳ điều gì làm gián đoạn hoặc thay đổi CRN, toàn bộ não và hệ thống cơ thể mà chúng chi phối có thể sẽ phải chịu nhiều ảnh hưởng bất lợi.
Có ba kiểu nghịch cảnh sẽ biến đổi CRN và gây ra vấn đề lan rộng. Đầu tiên là sự hủy hoại trước khi trẻ được sinh ra, như việc người mẹ tiếp xúc với ma túy, rượu hoặc buồn phiền quá độ (do bạo lực gia đình,...). Thứ hai là một số hình thức hủy hoại trong tương tác đầu đời giữa trẻ sơ sinh với người chăm sóc; nếu người chăm sóc đưa ra những tương tác hỗn loạn, không nhất quán, thô bạo, hung hăng hoặc bỏ mặc hẳn, các hệ thống ứng phó với căng thẳng sẽ phát triển theo cách bất thường. Thứ ba là các kiểu mẫu căng thẳng mẫn cảm – kết quả của một loạt các tình huống gây ra phản ứng căng thẳng không thể đoán trước, không thể kiểm soát, cực đoan và kéo dài. Tất cả những điều này đều sẽ dẫn đến phản ứng quá tích cực và quá mức với căng thẳng (xem Hình 5).
OPRAH: Vậy là việc ta được yêu thương theo cách nào phức tạp hơn nhiều so với chỉ đơn giản nói: “Bạn đã không được quan tâm chăm sóc khi còn bé, vậy nên bây giờ bạn sẽ buồn”. Nếu thời thơ ấu ta bị đối xử theo cách hung bạo, nếu phải nhận sự chăm sóc hỗn loạn, hay nếu ta bị bỏ bê, không được chăm sóc, thì bộ não của ta, về mặt sinh học, cũng bị ảnh hưởng.
TIẾN SĨ PERRY: Chính thế. Các trải nghiệm thời thơ ấu thực sự ảnh hưởng đến các chức năng sinh học của bộ não.
OPRAH: Và kết quả là nó sẽ ảnh hưởng đến hành vi của ta trong suốt phần đời còn lại.
Hình 5
ĐƯỜNG CONG TRẠNG THÁI - PHẢN ỨNG

Khi một thách thức hoặc một tác nhân gây căng thẳng xuất hiện, nó đẩy ta khỏi trạng thái cân bằng và kích hoạt các phản ứng với căng thẳng từ bên trong để giúp ta cân bằng trở lại. Nếu không có tác nhân gây căng thẳng nào đáng kể – không có những nhu cầu bên trong (đói, khát,..) phải đáp ứng, không có sự phức tạp và mối đe dọa nào từ bên ngoài – ta sẽ ở trạng thái bình tĩnh. Khi các thách thức và căng thẳng gia tăng, trạng thái bên trong của ta sẽ biến đổi, chuyển dần từ cảnh giác đến hoảng loạn.
Ở người có các hệ thống phản ứng điển hình với căng thẳng, mức độ căng thẳng có quan hệ tuyến tính với sự biến đổi của trạng thái bên trong (đường chéo thẳng). Ví dụ, khi đối mặt với một tác nhân gây căng thẳng vừa phải (1), sự kích hoạt tương xứng sẽ đưa người này vào trạng thái cảnh giác tích cực. Nếu người này có phản ứng mẫn cảm với căng thẳng (đường cong trên) bởi tiền sử sang chấn, ngay cả những thách thức thường ngày bình thường nhất (2) cũng sẽ gây nên trạng thái lo sợ. Ngay cả với những tác nhân căng thẳng vừa phải, người có phản ứng mẫn cảm (3) cũng sẽ đáp lại bằng phản ứng hoảng loạn. Các phản ứng thái quá này góp phần dẫn đến các vấn đề về sức khỏe cảm xúc, thể chất và hành vi.
TIẾN SĨ PERRY: Có thể cho là như vậy. Những trải nghiệm phát triển đầu đời của ta – đặc biệt là thông qua xúc giác và các đặc điểm gắn liền với các mối quan hệ gần gũi như mùi hương của người chăm sóc, cách người đó vỗ về, ru ngủ, những bài hát họ ngâm nga khi cho ăn, bất kỳ chuyển động đặc trưng nào khi họ phản ứng với nhu cầu của trẻ – cùng hình thành “thế giới quan” của trẻ sơ sinh. Đó là “cuốn sổ mật mã” mà ta đã nói đến.
Một lần nữa, hãy hình dung đến việc xây nhà. Não bộ của một bào thai phát triển rất nhanh, đó là khi ta đổ móng cho ngôi nhà. Vài tháng đầu sau khi được sinh ra là thời gian dựng khung nhà. Trong năm đầu tiên, tất cả tương tác của ta với người khác có thể so sánh với việc chạy dây điện và đặt đường ống nước. Tất cả đều thực sự là những phần quan trọng của ngôi nhà. Tuy chưa được sắp xếp hoàn chỉnh nhưng những phần chính của ngôi nhà đã thành hình. Một đứa trẻ hai tuổi chưa phát triển hoàn toàn, nhưng các hệ thống và cấu trúc căn bản đã được hình thành, và chúng chính là nền móng cho sự phát triển trong tương lai.
Nếu một căn nhà có phần móng không vững chắc, hệ thống đường điện và ống nước được lắp đặt kém hiệu quả nhưng lại trang trí bằng ván sàn và nội thất đẹp đẽ, ta có thể thoạt không trông thấy những khiếm khuyết cốt lõi. Nhưng vấn đề về nền móng ban đầu sẽ đưa đến vô cùng nhiều những rắc rối về sau. Một đứa trẻ cũng vậy. Thực ra, mọi khía cạnh của con người đều chịu ảnh hưởng bởi những trải nghiệm phát triển đầu đời – cả khi có những tương tác nhất quán, đoán được và thương yêu, lẫn khi ngược lại.
OPRAH: Đúng! Ta được yêu thương như thế nào – đó chính là điều tạo nên sự khác biệt. Trong tất cả những cuộc trò chuyện mà tôi đã tham gia, tôi rút ra được rằng, rối loạn chức năng thường tỷ lệ thuận với cách ta đã được hay không được yêu thương. Ta đã nhận được những gì mình cần để phát triển hay chưa?
TIẾN SĨ PERRY: Tình yêu, cả cho đi và nhận về, đều phụ thuộc vào khả năng hiện diện, chú ý, hòa hợp và đáp ứng. Đây là điều thiết yếu đối với sự tồn vong của giống nòi chúng ta, cũng như đối với sức khỏe và hạnh phúc của mỗi cá nhân. Và khả năng này phụ thuộc vào những điều đã xảy ra, chủ yếu khi ta còn nhỏ.
OPRAH: Nhân đang nói chuyện này, tôi lại nhớ tới lúc tôi được yêu cầu kể ra những khoảnh khắc mà tôi tâm đắc nhất từ The Oprah Winfrey Show . Đó thường không phải những chương trình lớn, có khách mời bất ngờ hay nổi tiếng – chỉ là những cuộc trò chuyện khiêm tốn, lặng lẽ. Và “cô bé Cheerios” luôn là một trong những người tôi nghĩ tới trước tiên.
Cô bé Kate 11 tuổi và anh trai Zach tham gia chương trình chỉ vài tháng sau khi mất người mẹ Kathleen. Hai anh em kể rằng, trước khi biến cố xảy ra, bố mẹ chúng đã quyết định dành vài tháng cuối cùng của Kathleen để cả nhà đi chơi cùng nhau. Tôi hỏi Kate khoảnh khắc cô bé yêu thích nhất là khi nào, và tôi đã nhận được câu trả lời thực sự bất ngờ.
“Một hôm cháu đi bơi về”, Kate kể, “mẹ đang nằm trên giường. Mẹ nói: ‘Kate, con lấy cho mẹ một bát ngũ cốc được không?’. Cháu bảo: ‘Được ạ’. Sau đó, một tuần trước khi mẹ mất, cháu vào phòng bố mẹ. Cháu bảo: ‘Mẹ, mẹ mà có xuống dưới nhà để lấy ngũ cốc thì gọi con dậy với nhé?’. Mẹ đồng ý. Thế là vào lúc hai giờ sáng, hai mẹ con cháu đã cùng ăn một bát Cheerios”. Cả nhà họ đã cùng nhau đi khắp nơi trên thế giới, nhưng điều đọng lại trong Kate chỉ là một khoảnh khắc thân mật ngày thường giữa mẹ và con gái.
TIẾN SĨ PERRY: Đó là một ví dụ tuyệt vời về tình yêu – chất kết dính chúng ta với nhau. Chỉ cần những khoảnh khắc bé mọn, chỉ cần cảm nhận được sự hiện diện của người kia, hoàn toàn ở đây, hoàn toàn gắn bó, kết nối và chấp nhận, thì ta đã có được mối liên hệ mạnh mẽ, bền lâu nhất rồi.
OPRAH: Chúng tôi đã quay lại tìm Kate 20 năm sau thời điểm đó. Kate cho biết, mặc dù phải đối mặt với những khó khăn riêng, cô vẫn vô cùng tin tưởng vào sức mạnh lớn lao của sự kết nối trong những khoảnh khắc tuy nhỏ nhoi nhưng diệu kỳ của cuộc sống – những khoảnh khắc an toàn, được bảo vệ và hiện diện đầy đủ mà anh đang nói đến.
TIẾN SĨ PERRY: Tôi thích câu chuyện này. Nó đã thể hiện rõ một điểm thực sự quan trọng về khoảnh khắc đặc biệt, rằng những tương tác có ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu đậm nhất thường diễn ra rất chóng vánh. Ta có thể dành hàng giờ với ai đó, nhưng nếu không hiện diện và chú tâm, bao nhiêu giờ đi nữa thì cũng sẽ không hiệu quả bằng khoảnh khắc cùng nhau ăn ngũ cốc ngắn ngủi.
OPRAH: Và khi không có được những khoảnh khắc nhỏ bé nhưng đầy yêu thương đó – nếu một đứa trẻ sinh ra trong một môi trường hỗn loạn, rối ren, bạo lực hay không được điều hòa – ta đã “được” chuẩn bị để đón nhận thất bại. Các mạng lưới trong não ta không được tổ chức theo cách chúng nên được tổ chức.
TIẾN SĨ PERRY: Đúng vậy. Điều đó có thể dẫn tới một nền móng yếu, hoặc đường điện nước kém, tạo nên rủi ro cho cả phần đời về sau. Hành vi chăm sóc hỗn loạn và khó lường sẽ khiến các hệ thống ứng phó với căng thẳng đang phát triển trở nên mẫn cảm, và điều này sẽ tạo nên sự nhạy cảm, dễ bị tổn thương.
OPRAH: Nhờ anh giải thích cách điều đó xảy ra. Quá trình ấy sẽ diễn ra như thế nào?
TIẾN SĨ PERRY: Vâng, hãy nói thêm một chút về khả biến thần kinh. Khả biến thần kinh là khả năng thay đổi các kết nối của bộ não. Một trong những nguyên tắc then chốt của khả biến thần kinh là, các kiểu mẫu kích hoạt khác nhau sẽ tạo ra những khác biệt rất lớn trong cách các mạng lưới thần kinh thay đổi.
Chẳng hạn, sự kích hoạt vừa phải, có thể dự đoán và có kiểm soát của các hệ thống ứng phó với căng thẳng sẽ dẫn đến khả năng ứng phó linh hoạt hơn, mạnh mẽ hơn (Hình 3). Từ đó, ta sẽ phát triển được phẩm chất kiên cường trước những tác nhân gây căng thẳng cực đoan. Việc này giống như ta cho các hệ thống ứng phó với căng thẳng của mình tập nâng tạ, ta rèn luyện để hệ thống mạnh lên dần. Càng đối mặt với nhiều thách thức vừa phải, ta càng có khả năng đối phó với nhiều thách thức lớn hơn. Ta vẫn thường thấy điều này trong thể thao, biểu diễn nghệ thuật hay thực hành điều trị, chữa cháy, giảng dạy – gần như trong mọi hoạt động của con người; kinh nghiệm có thể cải thiện thành tích. Đó là lý do vì sao căng thẳng không phải thứ đáng phải sợ hay phải né tránh. Khả năng kiểm soát căng thẳng của ta, kiểu mẫu và cường độ của căng thẳng mới là thứ có thể gây nên vấn đề.
Thật không may là, đối với quá nhiều người, kiểu mẫu kích hoạt căng thẳng của họ lại không thể đoán trước, không thể kiểm soát, kéo dài hoặc cực đoan.
Nhiều năm trước, tôi được gọi đến bệnh viện để khám cho Jesse – một đứa trẻ mười ba tuổi. Khi ấy, cậu bé đang hôn mê sau khi bị thương ở đầu vì đánh nhau với cha nuôi.
Jesse sinh ra trong một gia đình có tiền sử bị lạm dụng, bóc lột tình dục, dính dáng tới buôn người và mại dâm trẻ em. Trong một cuộc điều tra, cảnh sát đã phát hiện việc cậu bé bị đem đi bán dâm bởi chính cha mẹ mình, họ đưa em vào trung tâm chăm sóc khi em chỉ mới có... năm tuổi.
Jesse bị thuyên chuyển vòng quanh trong hệ thống, và sau ba lần chuyển chỗ thất bại, em bị chuyển đến một nhà nuôi chuyên dành cho trẻ cá biệt. Cha mẹ nuôi của em còn phải chăm sóc 9 đứa trẻ khác, phần nhiều trong số này gặp phải các vấn đề nghiêm trọng liên quan đến phát triển – chậm phát triển ngôn ngữ, hành vi bùng nổ và hung hăng, trây trét phân,... Tất cả được đưa đến đây vì có hành vi “không thể kiểm soát” và gia đình này vốn có thành tích tốt với việc dạy dỗ trẻ “khó bảo”.
Thì ra, tại đây, họ dạy dỗ các em bằng các hình thức khủng bố và ngược đãi. Phạt nhịn ăn vì những vi phạm nhỏ, đòn roi như cơm bữa, cưỡng ép tập luyện – đó là những phương thức được dùng để vắt kiệt sức bọn trẻ. Những em “cư xử kém” bị buộc phải ngủ bên ngoài, trong chuồng gà. Tủ lạnh bị khóa để bọn trẻ không trộm thức ăn. Những đứa con ruột, ở tuổi niên thiếu, được khuyến khích tham gia vào việc làm nhục và ngược đãi thể xác những đứa được nhận nuôi.
Jesse đã thử chạy trốn khỏi địa ngục này nhiều lần, và em cũng từng bị tịch thu giày, cởi bỏ quần áo vào ban đêm như một hình thức trừng phạt. Jesse chạy trốn nhưng luôn bị bắt và đưa trở lại. Có lần, vào mùa đông, em chạy chân trần trên đường đá, trên người không có gì ngoài một chiếc quần con, rồi bị một viên phó quận trưởng cảnh sát bắt lại. Jesse kể cho người này nghe chuyện bị ngược đãi. Ông ta bảo Jesse không được nói dối về những người đã có lòng hào hiệp đưa nó về nuôi. Đêm đó, em lại phải ngủ trong chuồng gà. Trong nhật ký về hôm ấy, Jesse đã lén viết: “Tại sao Chúa ghét mình?”.
Câu chuyện của Jesse thật sự là một câu chuyện hết sức đau lòng. Ta hãy tạm gác lại chuyện này một lát để nói về các hệ thống ứng phó với căng thẳng và sự giúp ích của nó trong kiểu sang chấn như vậy. Ta đã đề cập tới phản ứng chiến hay biến; thuật ngữ này được nhà nghiên cứu tiên phong về căng thẳng, Walter B. Cannon, sử dụng lần đầu vào năm 1915. Ông dùng cụm từ này để mô tả phản ứng căng thẳng dữ dội trước mối đe dọa mà ta nhận thức được cùng những thay đổi sinh lý kèm theo. Ta gọi đó là phản ứng đánh thức.
Trong phản ứng đánh thức, như ta đã nói đến, bộ não tập trung vào mối đe dọa, ngắt hết các thông tin đầu vào không cần thiết từ cơ thể và từ thế giới bên ngoài. Để chuẩn bị chiến đấu hay trốn chạy, nhịp tim ta sẽ tăng lên, adrenaline và các hormone căng thẳng như cortisol được tiết ra, đường được lưu giữ và máu được chuyển đến cơ bắp. Phản ứng này là phản ứng hướng ra ngoài.
Hầu hết mọi người đều đã trải nghiệm một dạng nào đó của phản ứng chiến hay biến khi cảm thấy bị đe dọa, dù mối đe dọa ấy là một chuyến đi khám răng, bị va quệt xe, một kỳ thi sắp tới, một cuộc tranh cãi nảy lửa hay viễn cảnh phải nói trước đám đông. Lòng bàn tay đổ mồ hôi, tim ta đập nhanh, ta lo lắng và bồn chồn. Tất cả đều do sự kích hoạt của phản ứng đánh thức.
Tất nhiên, nếu giống với hầu hết mọi người, ta không thể đi từ trạng thái bình tĩnh đến chiến đấu chỉ trong vài giây. Khi gặp một mối đe dọa tiềm tàng, hành vi mặc định ban đầu của ta là tụm lại thành bầy.
Oprah: Khoan đã. Nhờ anh giải thích một chút về “bầy”.
TIẾN SĨ PERRY: Con người chúng ta là những sinh vật có tính xã hội rất cao. Ta dễ bị “nhiễm” cảm xúc của người khác, ta không ngừng theo dõi môi trường và cộng đồng để tìm các dấu hiệu cho thấy ta đã được chấp thuận. Như chị đã nói đấy, “Tôi làm tốt chứ?”.
Thành ra, khi có một tín hiệu bất ngờ, khó hiểu hoặc có khả năng đe dọa, chúng ta có xu hướng tìm đến người khác để nhờ họ xác định xem chuyện gì đang xảy ra. Ta tìm kiếm ở người khác – nhất là nét mặt họ – những manh mối về cách lý giải tình huống. Hãy nghĩ về ánh mắt mang hàm ý “Chị nghe thấy chứ?” hay “Có thật anh ta vừa nói thế không?” mà chị và Gayle thường trao đổi với nhau khi nghe thấy điều gì đó bất thường hoặc không phù hợp.
Nếu không có ai ở đó hoặc nếu tình huống đe dọa đã được xác định, ta sẽ thôi tụm bầy và quét qua môi trường xung quanh một lượt để đưa mối đe dọa tiềm tàng vào một bối cảnh rõ hơn.
Tiếp theo, ta có thể chết điếng. Hãy hình dung cảnh một bãi xe tối tăm. Nghe thấy tiếng động lạ, ta sững người. Đứng lặng. Một làn sương bất chợt chặn đứng dòng suy nghĩ của ta. Kiểu chết điếng này cũng có thể xảy ra khi ta đang tham gia vào một tương tác căng thẳng với nhiều ý kiến trái chiều. Ta có thể không phải là một bên tranh cãi, nhưng rồi đột nhiên lại có người hỏi: “Vậy ý kiến của bạn là gì? Ta nên làm sao đây?”. Trước khi xử lý câu hỏi và trả lời, ta có thể chỉ đờ người, nhìn chăm chăm, rồi thường thì câu trả lời sẽ không được “thông minh” cho lắm. Hãy nhớ rằng, càng bị đe dọa hay căng thẳng, ta càng khó tiếp cận được phần thông minh trong não mình – vỏ não.
Khi cảm thấy bị đe dọa khủng khiếp, ta sẽ chuyển sang trạng thái chiến hay biến. Để tóm tắt toàn bộ chuỗi phản ứng đánh thức, chị có thể nghĩ đến một con hươu trong rừng. Hươu là loài luôn cảnh giác cao độ và thường túm tụm thành bầy. Nếu chúng nghe thấy gì đó hoặc nếu hành vi của một con hươu thay đổi, chúng sẽ sững lại trong giây lát. Việc này giúp chúng định vị được mối đe dọa tiềm tàng và khiến những kẻ săn mồi dựa vào thị lực khó thấy chúng hơn. Nếu mối đe dọa trở nên lớn hơn, chúng sẽ bỏ chạy. Nhưng nếu ta dồn con hươu vào chân tường, nó sẽ chống trả. Tụ bầy, chết sững, bỏ chạy, chống trả.
Trở lại với Jesse nhé. Trong thời gian ở nhà nhận nuôi, phản ứng căng thẳng chủ yếu của cậu bé này là phản ứng đánh thức. Cậu bé chống cự và bỏ chạy, và cuối cùng là đánh trả.
Một trong những cách gia đình này thường dùng để dễ bề kiểm soát bọn trẻ là vắt kiệt sức. Việc cưỡng ép tập luyện diễn ra mỗi ngày – thường xuyên nhất là bắt bọn trẻ chạy lên xuống cầu thang. Đến một ngày nọ, Jesse rốt cuộc đã hết chịu nổi. Khi leo hết các bậc cầu thang, cậu bé không chịu chạy xuống tiếp nữa. Gã cha nuôi nổi khùng lên nhưng Jesse nhất định không nhúc nhích. Rồi đánh nhau. Jesse bị ngã, hoặc bị ném xuống cầu thang. Em bị thương nặng ở đầu dẫn đến hôn mê và phải nhập viện.
Như đã nói, bộ não sử dụng một số chiến lược chính để giúp chúng ta thấu hiểu thế giới. Trước tiên, nó tạo ra liên kết giữa những thông tin đầu vào xảy ra đồng thời, tạo nên ký ức từ trải nghiệm của ta. Thứ hai, nó dùng những ký ức này để phân loại và diễn giải trải nghiệm mới. Và nếu trải nghiệm mới đủ giống với trải nghiệm cũ thì sẽ được phân loại là tương tự hoặc giống trải nghiệm cũ.
Jesse có hai bộ ký ức sang chấn: một là từ việc bị lạm dụng khi còn rất nhỏ, và một là từ việc bị ngược đãi ở nhà nhận nuôi. Em còn quá nhỏ khi bị lạm dụng tình dục, phản ứng chiến hay biến – chống cự, khóc lóc, đấm đá, cố chiến đấu – đơn giản là không phù hợp vào thời điểm đó; trái lại, nó còn có thể khiến em chịu đau đớn hoặc bị thương tích nhiều hơn. May thay, như ta đã từng nhắc tới, não bộ còn sở hữu một cách phản ứng với căng thẳng rất khác: phản ứng phân ly.
Phân ly là một khả năng tâm thần phức tạp, có thể ai trong chúng ta cũng đã dùng trong cuộc sống thường ngày. Phân ly đơn giản là tách khỏi thế giới bên ngoài và tập trung vào thế giới bên trong. Khi ta mơ mộng, khi ta cho phép trí óc mình lang thang, đó đều là các dạng của phân ly. Và giống như phản ứng đánh thức, phản ứng phân ly cũng bao gồm các trạng thái chuyển đổi dần, không thay đổi một cách đột ngột. Khi căng thẳng hay đe dọa gia tăng, phản ứng phân ly đưa ta ngày càng sâu vào chế độ bảo vệ.
Trong khi cơ chế sinh lý của phản ứng đánh thức là chuẩn bị cho ta chiến đấu hoặc bỏ chạy, thì phản ứng phân ly lại giúp ta nghỉ ngơi, được phục hồi, giúp ta chịu đựng cơn đau để sống sót sau sang chấn. Đánh thức tăng nhịp tim, còn phân ly lại giảm. Đánh thức đưa máu đến các cơ bắp còn phân ly giữ máu lại ở thân, giúp ta không mất nhiều máu khi có thương tích. Đánh thức kích hoạt adrenaline, phân ly kích hoạt các chất giảm đau tự nhiên của cơ thể: enkephalin và endorphin. Và phân ly là lựa chọn thích nghi duy nhất dành cho cậu bé Jesse bốn tuổi những lúc bị lạm dụng – chạy trốn về mặt cảm xúc, chạy trốn vào thế giới bên trong.
Để đánh giá điều này, khi Jesse hôn mê, tôi đã lấy quần áo chưa giặt từ cha ruột và cha nuôi của cậu bé để em tiếp xúc với mùi hương của họ. Dù mê man bất tỉnh, Jesse vẫn có phản ứng sinh lý đáng chú ý khi não em tiếp nhận thông tin đầu vào về mùi của hai người này. Khi tôi đặt quần áo của cha nuôi gần mũi, cậu bé bắt đầu giãy giụa và rên rỉ, nhịp tim tăng từ 90 nhịp/phút lên 162, phản ứng đánh thức dữ dội đó theo tôi là do một loạt ký ức liên quan tới sang chấn từ việc bị cha nuôi ngược đãi (giống như ông Roseman ở Chương 1, những ký ức này được lưu giữ ở các vùng não bên dưới). Khi tôi đưa đến gần mũi em quần áo của người cha ruột, Jesse cũng phản ứng, nhưng ít cử động hơn nhiều, nhịp tim ban đầu tăng lên, sau đó giảm mạnh xuống dưới 60 nhịp/phút, khớp với phản ứng phân ly khi cậu bé bị lạm dụng tình dục. Ngay cả khi vỏ não không sẵn sàng (nói cách khác là đang ngủ hoặc hôn mê), những dấu hiệu gợi nhớ vẫn kích hoạt hành vi, cảm xúc và phản ứng sinh lý của cơ thể vì chúng được lưu giữ trong các hệ thống phía dưới của não bộ.
Điều chúng ta rút ra được ở đây là, phản ứng liên quan tới sang chấn sẽ tùy thuộc vào phản ứng căng thẳng chủ đạo khi đối mặt với sang chấn. Một người có thể có những phản ứng hành vi rất khác nhau tùy thuộc vào dấu hiệu khơi gợi mà họ tiếp xúc. Một số dấu hiệu liên quan tới sang chấn có thể khiến ta né tránh và bỏ chạy, số khác có thể gây phẫn nộ và hành động. “Dấu vân tay” phức tạp của trải nghiệm sang chấn là độc nhất ở mỗi người. Thời gian, bản chất, kiểu mẫu và cường độ của trải nghiệm sang chấn đều có thể ảnh hưởng đến cách một người sẽ bị tác động.
Chuyện với Jesse vẫn còn chưa kết thúc. Cậu bé đã qua khỏi nhưng không may chịu tác dụng tồn lưu sau thời gian hôn mê. Cuối cùng, em đến sống tại một nhà dưỡng lão và làm công việc hỗ trợ vận chuyển ở đó. Quá trình hồi phục của em đã cho ta biết rất nhiều điều về sức mạnh chữa lành của sự kết nối. Ta sẽ lại nói đến em khi nói về sự chữa lành và hồi phục, còn hiện tại, chỉ cần biết rằng câu chuyện của Jesse cho thấy tính dễ uốn nắn tuyệt vời của bộ não cũng như sức mạnh lớn lao của niềm hy vọng.
Oprah: Tôi nghĩ đó là điều mà độc giả của cuốn sách này trông đợi nhất, hy vọng rằng dẫu có chuyện gì xảy ra thì cũng vẫn còn một tia sáng có thể dẫn dắt họ về phía trước. Những câu chuyện anh chia sẻ giúp mọi người nhận ra họ không đơn độc trong nỗi đau của mình. Với suy nghĩ đó, liệu ta có thể nói về sang chấn và nỗi sợ hãi một lát không? Tôi biết có rất nhiều người bị ngược đãi khi còn nhỏ và dường như vẫn đang sống trong nỗi sợ triền miên, dù rằng mối đe dọa không còn nữa. Anh có thể giải thích điều xảy ra với bộ não khi ta lớn lên trong sợ hãi không?
TIẾN SĨ PERRY: Vâng. Một phần then chốt để hiểu những đứa trẻ như Jesse chính là điểm ấy: chúng luôn ở trong trạng thái sợ hãi. Khi sợ hãi, người ta suy nghĩ, học hỏi, cảm nhận và hành xử khác hẳn so với khi họ cảm thấy an toàn.
Chức năng nào của não cũng phụ thuộc vào trạng thái. Trạng thái chung của các hệ thống cơ thể cùng sự chú ý của trí óc sẽ quyết định trạng thái của chúng ta – và trạng thái này có thể thay đổi rất nhanh. Hai loại trạng thái lớn nhất là thức và ngủ.
Hình 6
HOẠT ĐỘNG PHỤ THUỘC TRẠNG THÁI


Toàn bộ hoạt động của não đều tùy thuộc vào trạng thái. Khi ta chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác, phần não đang nắm quyền kiểm soát (chi phối) cũng sẽ chuyển quyền kiểm soát đó cho phần nào khác. Ví dụ, khi bình tĩnh, ta có thể dùng các phần “thông minh nhất” của não (vỏ não) để phản tư và sáng tạo, nhưng khi cảm thấy bị đe dọa, các hệ thống vỏ não sẽ bớt trội đi để các phần thiên về phản ứng trỗi dậy nắm quyền kiểm soát. Sự chuyển dịch này đi dần từ bình tĩnh đến hoảng loạn.
Sự thay đổi trạng thái dẫn đến sự thay đổi trong một loạt các chức năng mà não tổ chức, gồm khả năng giải quyết vấn đề, cách suy nghĩ (hoặc nhận thức) và phạm vi quan tâm. Nói chung, một người càng cảm thấy bị đe dọa thì khả năng kiểm soát hoạt động của các cơ quan chức năng càng chuyển đổi từ hệ thống cao hơn (vỏ não) xuống hệ thống thấp hơn (não trung gian và thân não). Sự sợ hãi tạm thời ngắt hoạt động của nhiều hệ thống ứng với vỏ não.
Những hành vi thích nghi thấy được trong quá trình thay đổi chức năng này sẽ khác nhau tùy theo kiểu phản ứng chiếm ưu thế đối với từng cá nhân trong một sự kiện căng thẳng hay sang chấn (hai kiểu mẫu phản ứng chính là đánh thức và phân ly).
Mạng chế độ mặc định (DMN) là thuật ngữ để chỉ một mạng lưới trải rộng, chủ yếu ở vỏ não, được kích hoạt khi một người đang nghĩ về người khác, nghĩ về chính mình, nhớ lại quá khứ và dự tính tương lai.
Giấc ngủ cũng có những giai đoạn khác nhau (ví dụ như giấc ngủ REM – giấc ngủ mắt chuyển động nhanh). Tương tự như thế khi ta thức, ta cũng có các giai đoạn hay trạng thái khác nhau. Ta có thể xem xét các giai đoạn này trong Hình 6. Tại đấy có nhiều thông tin và một số trong đó phải ở đoạn sau cuốn sách tôi mới đề cập đến, nên tôi sẽ nói sơ qua một chút ở đây.
Hãy bắt đầu từ bên trái, với cột “Bình tĩnh”. Ở trạng thái này, ta sẽ cảm thấy bình tĩnh, thư giãn và để trí óc phiêu diêu bất định; phần thông minh nhất của não là vỏ não được kích hoạt. Cột tiếp theo, “Cảnh giác” là nơi ta tập trung vào một số khía cạnh của thế giới bên ngoài – một cuộc trò chuyện chẳng hạn. Khi được điều hòa tốt, ta có thể duy trì trạng thái cảnh giác tích cực và bình tĩnh trong phần lớn thời gian trong ngày.
Đôi khi ta sẽ bị thách thức, gặp phải bất ngờ nào đó hoặc bị đe dọa, và ta sẽ chuyển sang trạng thái “Báo động”. Khi ở trạng thái này, các hệ thống thấp hơn của não sẽ bắt đầu chiếm ưu thế kiểm soát, ta sẽ bắt đầu suy nghĩ cảm tính hơn. Các cuộc trò chuyện sa vào tranh cãi, lý lẽ lập luận của ta dễ rẽ sang hướng công kích cá nhân hoặc quá chủ quan. Ta hành động thiếu chín chắn, thường nói hoặc làm những điều mà về sau phải hối tiếc.
Nếu thực sự đối mặt với mối đe dọa, ta sẽ đi đến trạng thái “Sợ hãi”. Ở đây, những phần bên dưới của não sẽ khống chế hoàn toàn hoạt động của ta. Khả năng giải quyết vấn đề của ta sụt giảm, ta tập trung vào khoảnh khắc trước mắt. Tập trung vào khoảnh khắc, tất nhiên, cũng là một cách giúp ta thích ứng. Tuy nhiên, vấn đề sẽ nảy sinh khi ta bị mắc kẹt trong trạng thái này. Đó là điều mà sự căng thẳng cực độ và kéo dài có thể gây nên. Hãy nghĩ về câu chuyện của Jesse: Sự khó lường cứ tiếp diễn; nỗi đau, sự đe dọa và nỗi sợ là không thể kiểm soát và đôi khi ở mức cực đoan. Các hệ thống ứng phó với căng thẳng của em đã được điều chỉnh cho phù hợp với trạng thái đó và trở nên mẫn cảm. Jesse bị kẹt lại trong trạng thái lo sợ triền miên.
Giờ thì, như chúng ta đã đề cập, việc thích ứng đúng trong môi trường hỗn loạn, bạo lực, gây sang chấn sẽ trở thành thích ứng sai trong các môi trường khác – nhất là trong trường học. Sự gia tăng cảnh giác của trạng thái “Cảnh giác” bị hiểu lầm thành ADHD (rối loạn tăng động giảm chú ý); sự phản kháng và bất tuân của “Báo động” và “Sợ hãi” bị coi là rối loạn thách thức chống đối; hành vi chạy trốn khiến trẻ bị đình chỉ học; hành vi đánh trả khiến trẻ bị buộc tội hành hung. Sự hiểu lầm lan rộng, ảnh hưởng sâu sắc đến hệ thống pháp luật, giáo dục và sức khỏe tinh thần dành cho trẻ vị thành niên.
OPRAH: Và đó là lý do vì sao ta cần những hệ thống có kiến thức tốt về sang chấn. Và tại sao ta cần tránh hỏi “Bạn bị sao vậy?” và thực sự chú tâm vào “Chuyện gì đã xảy ra?”.