Thà con bị bệnh và làm mẹ vui lòng, còn hơn làm trái ý mẹ và không bị đau ốm.
Marcel Proust viết trong một lá thư gửi mẹ
LÒNG SÙNG KÍNH CHA MẸ VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG ĐAU THƯƠNG CỦA NÓ
Dostoevsky, Chekhov, Kafka, Nietzsche
Các tác phẩm của hai nhà văn Nga Dostoevsky và Chekhov có ý nghĩa rất lớn đối với tôi khi còn trẻ. Các nghiên cứu sau này của tôi về các tác giả này đã cho tôi thấy cơ chế phân li (dissassociative mechanism) hoạt động hoàn hảo như thế nào, không chỉ ngày nay mà còn từ hơn một thế kỉ trước. Khi mà tôi rốt cuộc đã thành công trong việc từ bỏ những ảo tưởng đã từng ấp ủ về cha mẹ và nhận ra tác động của những việc họ làm đối với toàn bộ cuộc sống của tôi, điều này cũng giúp tôi mở rộng tầm mắt với những sự thật mà trước đây tôi không cho là quan trọng. Tiểu sử của Dostoevsky do Janko Lavrin viết cho tôi biết rằng trong nửa đời sau, cha của Dostoevsky, vốn ban đầu là một bác sĩ quân đội, đã được thừa kế một gia sản với hơn một trăm nông nô. Ông ta đối xử với những người nông nô này tàn bạo đến nỗi rốt cuộc họ đã lấy hết can đảm để mưu sát ông. Kết luận mà tôi rút ra từ điều này là, chắc hẳn sự tàn bạo của ông ta đã phải vượt xa so với tiêu chuẩn, vì không có lời giải thích nào khác cho thực tế là những kẻ đầy tớ nhát gan này thà chọn nguy cơ bị trục xuất vì tội ác của chúng còn hơn phải tiếp tục chịu đựng dưới sự cai trị kinh hoàng. Do đó, chắc hẳn con trai cả của ông ta cũng đã phải chịu đựng sự tàn ác nào đó. Từ đó, tôi đã quyết tâm điều tra về việc Dostoevsky, tác giả của rất nhiều tiểu thuyết nổi tiếng thế giới, đã cam chịu cuộc đời mình như thế nào. Tất nhiên tôi quen thuộc với nhân vật người cha tàn bạo trong tiểu thuyết Anh em nhà Karamazov của ông, nhưng tôi muốn tìm hiểu mối quan hệ của ông với người cha trong đời thật ra sao. Đầu tiên tôi tìm kiếm những đoạn liên quan trong các bức thư của ông. Tôi đã đọc tất cả nhưng không tìm thấy một bức thư nào ông gửi cho cha. Lần duy nhất mà ông ta được nhắc tới rõ ràng là có chủ ý để chứng minh sự thành kính tuyệt đối và tình yêu vô điều kiện của người con trai dành cho cha mình. Mặt khác, hầu hết các lá thư của Dostoevsky gửi cho người khác đều có những phàn nàn về tình hình tài chính và đề nghị được hỗ trợ. Theo tôi, tất cả những bức thư này thể hiện rõ ràng nỗi sợ hãi của một đứa trẻ về mối đe dọa thường trực đối với sự tồn tại của mình, cùng với hi vọng một cách tuyệt vọng rằng người nhận thư sẽ hiểu được nỗi đau khổ của mình và tử tế giúp đỡ.
Có một thực tế mà ai cũng biết là sức khỏe của Dostoevsky rất kém. Ông bị chứng mất ngủ kinh niên và thường phàn nàn về những cơn ác mộng, trong đó chúng ta có thể cho rằng những tổn thương thời thơ ấu của ông đã tìm cách thể hiện ra mà ông không nhận thức được một cách có ý thức. Chúng ta cũng biết rằng trong nhiều thập kỉ, Dostoevsky bị chứng động kinh. Nhưng những người viết tiểu sử của ông đã ít hoặc không cho thấy bất kì mối liên hệ nào giữa những căn bệnh này và tuổi thơ đau thương của ông. Họ cũng mù quáng như thế đối với sự khao khát có một định mệnh nhân hậu của ông, là điều có thể nhận ra rõ ràng trong chứng nghiện chơi roulette7 của ông. Mặc dù vợ ông đã giúp ông vượt qua cơn nghiện này, nhưng bà đã không thể trở thành một chứng nhân khai sáng cho ông, vì vào thời điểm đó, người ta cho rằng việc buộc tội chính cha còn đáng trách hơn.
Chú thích:
7 Roulette là một trò chơi đánh bạc thông dụng nhất trong các casino (dù là casino hợp pháp hay casino ngầm). Roulette theo tiếng Pháp có nghĩa là “cái bánh xe nhỏ”. Trong trò chơi này, người chơi có thể chọn đặt cược vào một hay nhiều thể loại cược như số duy nhất, các nhóm số khác nhau, màu đỏ hoặc đen, cho dù số là lẻ hay chẵn, số cao (19-36) hoặc thấp (1 -18).
TÔI ĐÃ TÌM THẤY một cuộc đấu tranh tương tự trong cuộc đời của Anton Chekhov. Trong truyện ngắn Người cha, ông đưa ra điều mà theo tôi có lẽ là lời tường thuật cực kì chính xác về tính cách của cha ông, một cựu nông nô và một người nghiện rượu. Người đàn ông trong câu chuyện là một người nghiện rượu sống phụ thuộc vào các con trai và đắm chìm trong vinh quang phản chiếu từ những thành công của họ, bằng cách đó cố gắng dồn nén cảm giác rằng bản thân là một người vô dụng. Người cha không hề nhìn nhận con mình thực sự là ai và không bao giờ thể hiện bất kì cảm xúc nào của yêu thương hay phẩm giá con người.
Truyện này được coi là thuộc thể loại hư cấu và có lẽ tầm quan trọng của nó trong việc tìm hiểu tiểu sử nhà văn đã hoàn toàn bị tách rời khỏi cuộc sống có ý thức của Chekhov. Nếu tác giả đã có thể nhìn thấy và cảm nhận được cách cha mình đã thực sự đối xử với mình như thế nào, thì chắc chắn ông sẽ chìm trong nỗi xấu hổ sâu sắc hoặc sa vào cơn giận dữ chính nghĩa. Nhưng vào thời đó, cách phản ứng như vậy là không thể tưởng tượng được. Thay vì nổi dậy chống lại cha, Chekhov đã nuôi cả gia đình, ngay cả khi ông kiếm được rất ít tiền trong giai đọn đầu của sự nghiệp. Ông mua căn hộ cho cha mẹ mình ở Moscow và tận tình chăm sóc họ cùng các anh em. Nhưng trong thư từ của ông ấy, tôi thấy rất ít đề cập đến người cha. Những đoạn văn mang nội dung như vậy nếu có cũng chỉ minh chứng cho thái độ hoàn toàn nhân từ và hiểu biết từ phía người con trai. Không có thái độ nào như sự phẫn nộ trước những trận đòn tàn nhẫn mà hầu như ngày nào chàng trai trẻ Chekhov cũng phải nhận từ người cha của mình. Vào những năm đầu của tuổi ba mươi, Chekhov đã ở vài tháng trên đảo Sakhalin, một khu chuyên dành cho những kẻ phạm tội. Theo chủ ý của ông, ông muốn mô tả cuộc sống của những người bị kết án, bị hành hạ và bị tra tấn. Sự hiểu biết rằng mình thực sự là một trong số họ có lẽ đã bị tách ra khỏi nhận thức của chính ông. Những người viết tiểu sử về ông cho rằng cái chết sớm của ông ở tuổi bốn mươi bốn là do điều kiện sống khó khăn và cái lạnh khắc nghiệt trên đảo. Nhưng chúng ta không nên quên rằng, giống như người anh trai Nikolai, người đã chết vì bạo bệnh khi còn trẻ, Chekhov bị bệnh lao gần như suốt cả cuộc đời.
Trong cuốn Thou Shalt Not Be Aware, khi nói về cuộc đời của Franz Kafka và các nhà văn khác, tôi đã nói rằng, trong khi việc viết lách có thể giúp họ sống sót, thì nó không đủ để giải phóng đứa trẻ bị giam cầm bên trong, cũng như khôi phục lại sức sống, sự nhạy cảm và cảm giác an toàn mà đứa trẻ đã đánh mất. Đối với tiến trình giải thoát này, không thể thiếu một chứng nhân khai sáng.
Đã có những chứng nhân cho những đau khổ của Kafka, bao gồm tình yêu lớn của ông là Milena Jesenska và trên hết là em gái Ottla của ông. Ông đã có thể tâm sự với họ về hầu hết mọi thứ, nhưng không phải là về những bất an thuở ban đầu của mình và những gì ông đã phải chịu đựng dưới bàn tay nuôi nấng của cha mẹ. Những điều đó vẫn là cấm kị. Cuối cùng, ông đã thực sự tiến xa đến mức viết ra cuốn sách nổi tiếng Letter to His Father. Tuy nhiên, ông không trực tiếp gửi nó cho cha mà gửi cho mẹ và nhờ bà chuyển nó cho người nhận. Ông đã khát khao tìm kiếm một chứng nhân khai sáng ở mẹ mình, hi vọng rằng sau khi đọc bức thư, cuối cùng bà sẽ hiểu được những đau khổ mà con trai bà đã phải chịu đựng và đề nghị làm trung gian hòa giải giữa hai cha con. Nhưng mẹ của ông đã giữ lại bức thư và không bao giờ nói chuyện cho con trai mình về những lá thư không được gửi đi như mong đợi ấy. Và khi không có sự hỗ trợ của một chứng nhân khai sáng, Kafka đã không thể tự đối mặt với cha mình. Mối đe dọa trừng phạt là quá khủng khiếp. Chúng ta chỉ cần nhớ lại những câu chuyện The Judgement hay The Metamorphosis để hiểu, nỗi sợ hãi của ông thực sự đã đẩy mọi chuyện đi xa đến mức nào. Thật không may, Kafka đã không có ai để động viên ông vượt qua những nỗi sợ hãi này và gửi bức thư đi. Bởi nếu có, thì có lẽ ông đã được cứu sống. Ông đã không thể thực hiện bước này một mình, ông mắc bệnh lao và qua đời ở tuổi tứ tuần.
TÔI CŨNG ĐÃ thấy những điểm tương đồng trong cuộc đời của Friedrich Nietzsche, và đã mô tả bi kịch của ông trong hai cuốn sách The Untouched Key và Breaking Down the Wall of Silence. Tôi giải thích thành tựu tuyệt vời của Nietzsche như một lời cầu cứu, một mong muốn giải thoát khỏi sự dối trá, bóc lột, đạo đức giả và sự bất mãn không thể hóa giải của chính ông. Không ai, ít nhất là bản thân Nietzsche, có thể thấy ông ấy đã phải chịu đựng tất cả những điều này như thế nào khi còn nhỏ. Nhưng cơ thể ông đã phải hoạt động không ngừng dưới gánh nặng này. Chàng trai trẻ Nietzsche bị bệnh thấp khớp và cũng như chứng đau đầu, nó chắc chắn bắt nguồn từ việc phải kiềm chế những cảm xúc mãnh liệt trong một thời gian dài. Ông cũng bị ảnh hưởng bởi vô số những lời phàn nàn khác trút lên chỉ trong một năm học ở trường. Không ai có thể nhận ra rằng nguồn gốc thực sự của sự đau khổ là thứ đạo đức giả dối chi phối cuộc sống hằng ngày của ông. Tất cả những người xung quanh ông đều hít thở cùng một bầu không khí như thế. Nhưng cơ thể ông bị ảnh hưởng trực tiếp bởi thứ đạo đức giả này sâu sắc hơn nhiều so với những người khác. Nếu có ai đó giúp Nietzsche thừa nhận những tri thức được lưu trữ trong cơ thể ông thì có lẽ ông đã không đến nỗi phải “mất trí” để tiếp tục mù mịt với sự thật của chính mình trong suốt phần đời còn lại.
CUỘC CHIẾN GIÀNH TỰ DO TRONG CÁC VỞ KỊCH VÀ SỰ PHẢN KHÁNG MẠNH MẼ CỦA THÂN THỂ
Friedrich von Schiller
NGAY CẢ NGÀY NAY, chúng ta vẫn thường xuyên nghe thấy quan điểm rằng không thể có những tác hại lâu dài nào xảy ra đối với những đứa trẻ thỉnh thoảng phải chịu những trận đòn roi. Nhiều người tin rằng cuộc sống của chính họ là bằng chứng tốt nhất cho niềm tin này. Nhưng họ chỉ có thể giữ vững niềm tin như vậy chừng nào mối liên hệ giữa những căn bệnh mà họ phải chịu khi trưởng thành và những trận đòn mà họ phải chịu khi còn nhỏ vẫn được che giấu. Trường hợp của Friedrich von Schiller cho thấy rằng việc che giấu những mối liên hệ như vậy có thể gây ảnh hưởng mạnh mẽ như thế nào đến khi ông đã trưởng thành. Trong suốt nhiều thế kỉ, những tác động xấu đó được chấp nhận mà không hề được thắc mắc từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Friedrich von Schiller, một trong những nhà viết kịch và nhà văn lãng mạn vĩ đại nhất của thế kỉ XVIII, đã sống ba năm đầu tiên của cuộc đời cùng một người duy nhất là người mẹ đáng kính của mình. Dưới bàn tay chăm sóc của bà, Schiller đã có thể phát huy hết tính cách và tài năng của mình. Chỉ đến khi ông lên bốn tuổi, người cha chuyên quyền của ông mới trở về sau chiến tranh. Người viết tiểu sử Friedrich Burschell mô tả cha của Schiller là một người nghiêm khắc, thiếu kiên nhẫn, kiệm lời với “tính cách ích kỉ và ngoan cố đến cùng cực”. Về cơ bản, ý tưởng giáo dục của người cha ấy là ngăn chặn tất cả những biểu hiện tài năng tự nhiên và sự sáng tạo của cậu con trai bé bỏng, hoạt bát. Mặc dù vậy, Schiller vẫn là một học sinh xuất sắc ở trường, phần lớn nhờ vào trí thông minh và sự tự tin mà ông đã được nuôi dưỡng trong môi trường an toàn từ tình cảm của người mẹ trong ba năm đầu đời. Tuy nhiên, ở tuổi mười ba, Friedrich được cha gửi đến một học viện quân sự, và chàng trai trẻ ấy đã phải chịu đựng những phương pháp huấn luyện hà khắc ở đó. Giống như Nietzsche thời trẻ, Schiller bị tấn công bởi đủ loại bệnh tật và ông hầu như mất đi khả năng tập trung vào bất cứ điều gì. Ông đã trải qua nhiều tuần liền trong bệnh xá, và cuối cùng đã trở thành một trong những học sinh có điểm kém nhất. Sự thất bại trong học tập của ông được cho là do bệnh tật. Không ai nhận ra rằng chính sự kỉ luật vô nhân đạo và ngớ ngẩn áp đặt tại ngôi trường nội trú này, nơi mà ông đã trải qua tám năm cuộc đời, là nguyên nhân chính khiến ông kiệt quệ hoàn toàn về thể chất và tinh thần. Schiller Không có cách nào khác để thể hiện nỗi đau khổ của mình ngoài tiếng nói của bệnh tật, tiếng la hét trong âm thầm của chính cơ thể mình, ông bị mọi người coi thường và hiểu lầm trong nhiều thế kỉ sau đósuốt chiều dài thế kỉ. Đây là mô tả của Burchell về trường học:
Tại đây, trong những năm tháng tâm lí đa cảm nhất của cuộc đời, chàng trai trẻ và yêu tự do lại phải bó buộc trong môi trường sống như một tù nhân, vì cánh cổng của học viện chỉ mở cho những người giám sát quân đội đi bộ tuần hành và canh gác. Trong tám năm này, Schiller hầu như không có một ngày nào cho riêng mình và chỉ thỉnh thoảng có một hoặc hai giờ để có thể làm gì mình muốn. Ở thời đó chưa có những kì nghỉ và việc nghỉ học là điều chưa từng có trong quy định. Toàn bộ ngày học phải tuân theo quy chế quân sự. Các học sinh ngủ trong những kí túc xá lớn, thức dậy lúc 5 giờ sáng vào mùa hè và 6 giờ sáng vào mùa đông. Các sĩ quan cấp dưới giám sát việc dọn giường và vệ sinh cá nhân. Sau đó, các học viên tiến vào phòng tập để điểm danh buổi sáng, tiếp tục từ đó đến nhà ăn để ăn sáng, bữa sáng thường có bánh mì và cháo. Mọi thứ đều được thực hiện theo mệnh lệnh, cho dù là chắp tay cầu nguyện, ngồi xuống hoặc ra khỏi hàng. Các bài học diễn ra từ 7 giờ đến giữa trưa. Sau đó là một hoạt động kéo dài nửa giờ và hoạt động này thường khiến chàng trai trẻ Schiller bị khiển trách liên tục và mang tiếng là “con lợn”: khoảng thời gian dành cho việc phục sức, được gọi là propreté. Các học viên mặc trang phục quân đội đầy đủ, áo khoác màu xanh nhạt với còng đen, áo ghi-lê màu trắng và quần ống túm màu trắng, giày bốt màu nâu và cây kiếm, chiếc mũ ba góc có trang trí và giắt lông vũ. Vì vị Công tước sáng lập trường có ác cảm với mái tóc đỏ, Schiller đã phải phủ bột lên tóc mình. Giống như tất cả những người khác, anh phải đội một bím tóc giả, dài và hai chiếc kẹp giấy cói [để uốn tóc] ở thái dương, được cố định bằng thạch cao. Sau khi mặc quần áo như vậy, các học viên hành quân, đầu tiên là đến điểm danh giữa trưa và sau đó đến nhà ăn. Sau bữa ăn, học viên bắt buộc phải đi bộ và sau đó là diễn tập quân sự, tiếp theo là các bài học từ 2 đến 6 giờ và sau đó lại là quá trình phục sức. Thời gian còn lại trong ngày được dành cho việc học cá nhân theo một kế hoạch nghiêm ngặt. Ngay sau bữa ăn tối là đến giờ các học viên phải đi ngủ. Schiller trẻ tuổi bị mắc kẹt trong những thói quen bất biến hạn chế sự phát triển và độc hại này cho đến khi anh 21 tuổi.8
Chú thích:
8 Friedrich Burschell, Friedrich Schiller in Selbstzeugnissen und Bilddokumenten (Ham- burg: Rowohlt Taschenbuch, 1958), trang 25
Schiller liên tục bị co giật và chuột rút vô cùng đau đớn ở nhiều bộ phận trên cơ thể. Khi đến tuổi tứ tuần, ông phát sinh một số căn bệnh nghiêm trọng khiến ông liên tục phải đối mặt với nỗi sợ hãi cái chết. Các căn bệnh đó kết hợp với những cơn mê sảng và cuối cùng đã giết chết ông ở tuổi 46.
Theo tôi, không nghi ngờ gì rằng những cơn chuột rút và co giật này chính là do việc ông thường xuyên bị hành hạ thân thể trong thời thơ ấu và những kỉ luật tàn nhẫn mà ông phải chịu trong những năm sau đó. Nói một cách chính xác, việc “cầm tù” đã bắt đầu từ trước khi ông vào học viện quân sự dưới bàn tay của người cha hà khắc. Nhân danh ý thức tự kỉ luật, người đàn ông này đã áp đặt một cách nghiêm ngặt và có hệ thống bất kì biểu hiện nào của niềm vui hay niềm hân hoan, cả ở con trai và bản thân mình. Ví dụ, bọn trẻ được yêu cầu rời khỏi bàn ăn ngay lập tức nếu chúng cảm thấy thích thú với bất cứ thứ gì chúng đang ăn. Và cha chúng cũng làm như vậy. Mối quan tâm kì quặc nhằm dập tắt bất cứ thứ gì thuộc về “chất lượng cuộc sống” này có thể là một tính cách riêng của cha Schiller. Nhưng lúc đó, hệ thống học viện quân sự đã phổ biến và được coi là khuôn mẫu của nền giáo dục chuẩn mực của nước Phổ. Rất ít người suy nghĩ về những hậu quả mà nó có thể gây ra. Hệ thống giám sát độc tài của học viện quân sự này gợi cho tôi liên tưởng đến một số mô tả mà chúng ta đã biết về các trại tập trung của Đức Quốc xã. Trong khi chế độ tàn bạo do nhà nước tổ chức trong các trại tập trung này chắc chắn còn khắc nghiệt và tàn ác hơn nhiều so với các học viện quân sự, thì các cơ sở này có chung nguồn gốc trong hệ thống giáo dục phổ biến ở các thế kỉ trước.9 Cả các sĩ quan chỉ huy và thủ phạm trực tiếp của những hành động tàn ác được lên kế hoạch này đều đã từng trải qua thời niên thiếu bị đánh đập và các phương pháp hạ nhục khác nhau. Họ đã học thuộc lòng chúng để sau này thực hiện những hành vi tương tự lên người khác mà không cần suy nghĩ và không cảm thấy chút ăn năn với những người có ít quyền hạn hơn, chẳng hạn như trẻ em hay tù nhân. Schiller không có cảm xúc thôi thúc phải trả thù vì những điều khủng khiếp mà ông ấy đã trải qua. Nhưng cơ thể của ông đã bị tàn phá bởi sự đau khổ trong suốt cuộc đời do kết quả của sự hành hạ mà ông phải chịu đựng trong thời thơ ấu.
Chú thích:
9 Tham khảo For Your Own Good của Miller.
Tất nhiên, Schiller không là ngoại lệ. Hàng triệu người đàn ông đã trải qua những trường học như vậy khi còn nhỏ và họ đều phải học cách nhẫn nhịn kẻ có quyền lực nếu không muốn bị trừng phạt nặng nề, thậm chí bị giết chết. Những trải nghiệm này là công cụ cho lòng trung thành không thay đổi của họ đối với Điều Răn Thứ Tư và một điều họ hằn ghi vào đầu con cái của họ là không bao giờ có bất kì lí do nào để hoài nghi thẩm quyền của điều răn đó. Thế thì chẳng có gì lạ, khi đến tận ngày nay các thế hệ sau của những đứa trẻ đó vẫn tuyên bố rằng việc thỉnh thoảng đánh đập vì điều tốt không gây hại gì cho chúng.
Nhưng ở một khía cạnh nào đó, Schiller tất nhiên là một ngoại lệ. Xuyên suốt tất cả các tác phẩm của ông, từ The Robbers đến William Tell, chúng ta thấy cuộc nổi dậy cuồng nhiệt chống lại việc thực thi vũ lực mù quáng của chính quyền và khả năng hùng biện tuyệt vời của ngôn ngữ mà trong đó sự nổi loạn đã đem đến cho nhiều người lòng can đảm để hi vọng một ngày nào đó cuộc nổi dậy này có thể thành công. Nhưng không có tác phẩm nào trong số này cho thấy, dù là một dấu hiệu nhỏ nhất, bất kì hiểu biết nào của Schiller, rằng cuộc nổi dậy của ông chống lại các sắc lệnh vô lí của thiết chế quyền lực được thúc đẩy bởi những trải nghiệm thuở thiếu thời lưu trữ trong thân thể ông. Những đau khổ mà ông đã phải chịu đựng dưới bàn tay của người cha chuyên quyền đã thúc đẩy ông viết nên những tác phẩm vĩ đại. Nhưng ông đã không nhận ra động lực đằng sau sự thôi thúc đó. Mục đích duy nhất của ông là sáng tác những tác phẩm văn học tuyệt vời lưu truyền về sau. Ông đã tìm cách thể hiện sự thật mà ông thấy thông qua các nhân vật lịch sử và đã đạt được mục đích đó bằng những tác phẩm xuất sắc. Nhưng toàn bộ sự thật về việc ông đã phải chịu đựng dưới bàn tay của cha mình thì chưa bao giờ được đề cập đến. Sự đau khổ này vẫn là một cuốn sách khép kín đối với ông, cho đến khi ông mất.
Nó vẫn là một bí ẩn đối với cả ông lẫn xã hội, những người xem kịch và độc giả đã ngưỡng mộ ông trong nhiều thế kỉ và chọn ông làm tấm gương để sống, vì sự ủng hộ tự do và sự thật trong các tác phẩm của ông. Nhưng sự thật đó không phải là toàn bộ sự thật, chỉ đơn thuần là sự thật được xã hội thừa nhận như vậy. Có lẽ, Friedrich von Schiller quả cảm này sẽ hoảng hốt biết bao nếu ai đó nói với ông rằng: “Ông không cần tôn kính cha mình đến vậy. Những người đã làm cho ông tổn thương, đau đớn như vậy không đáng được ông yêu thương, tôn trọng, ngay cả khi họ là cha mẹ ông. Cái giá mà ông phải trả cho sự hiếu thảo đó thật khủng khiếp, những hành hạ thể xác kinh khủng mà ông phải trải qua nhiều lần. Ông có thể tự giải thoát mình khỏi chúng nếu ông không còn tuân theo Điều Răn Thứ Tư.”
Schiller sẽ nói gì khi nghe thấy điều này?
SỰ PHẢN BỘI CỦA KÍ ỨC
Virginia Woolf
HAI MƯƠI NĂM TRƯỚC, trong Thou Shalt Not Be Aware: Society’s Betrayal of the Child, tôi đã thảo luận về cuộc đời của Virginia Woolf, là người giống như chị gái Vanessa Bell, đã bị lạm dụng tình dục bởi hai người anh cùng cha khác mẹ khi cô còn nhỏ và kéo dài cho đến tuổi vị thành niên. Trong cuốn nhật kí dài đến 24 tập của mình, Woolf liên tục quay trở lại thời kì khủng khiếp đó, thời mà cô không dám tâm sự với cha mẹ vì biết rằng cô không thể trông đợi sự cứu giúp từ họ. Trong suốt cuộc đời, cô bị trầm cảm tái phát nhưng vẫn tìm thấy sức mạnh để viết tiểu thuyết, hi vọng bằng cách này có thể thể hiện nỗi đau của mình và cuối cùng là vượt qua những tổn thương của thời thơ ấu và tuổi thanh xuân. Nhưng vào năm 1941, căn bệnh trầm cảm của cô càng thêm nghiêm trọng và Virginia Woolf đã trầm mình.
Theo một trong những người viết tiểu sử Louise DeSalvo, Woolf bắt đầu nghi ngờ tính xác thực về những kí ức của chính mình sau khi đọc các tác phẩm của Freud, mặc dù cô đã ghi lại chúng trong một cuốn hồi kí và biết rằng chị gái mình cũng đã bị lạm dụng tình dục bởi những người anh cùng cha khác mẹ. DeSalvo cho rằng từ thời điểm đó, Woolf đã tuân theo các lí thuyết của Freud, không còn coi hành vi của con người là hệ quả hợp lí của những trải nghiệm thời thơ ấu và thay vào đó, cô coi đó là kết quả của những ham muốn, tưởng tượng và mơ mộng. DeSalvo cho rằng những bài viết của Freud đã khiến Woolf rơi vào tình trạng vô cùng bối rối. Một mặt, cô biết chính xác chuyện gì đã xảy ra; mặt khác, giống như hầu hết tất cả các nạn nhân của lạm dụng tình dục, cô ước rằng nó chưa bao giờ xảy ra như vậy. Cuối cùng, cô vui vẻ chấp nhận lí thuyết của Freud và hi sinh kí ức của mình để phục vụ cho sự khước từ này. Cô bắt đầu lí tưởng hóa cha mẹ mình nhiều hơn và mô tả cả gia đình cô trong một ánh sáng màu hồng, điều mà cô chưa bao giờ làm trước đây. Sau khi thừa nhận rằng Freud đã đúng, cô nghi ngờ về chính bản thân mình, bối rối và cuối cùng cô tin rằng mình bị mất trí.
DeSalvo tin rằng bước ngoặt này trong suy nghĩ của Woolf đã củng cố cho quyết định tự sát của cô ấy, rằng việc cô ấy chấp nhận Freud đã lấy đi nền tảng cho mối quan hệ nhân quả mà cô ấy đã cố gắng thiết lập, do đó buộc cô ấy phải rút lại lời giải thích của chính mình cho những cơn ác mộng về chứng trầm cảm và trạng thái tinh thần của mình. Trước đây, Woolf cho rằng trạng thái trầm cảm là do trải nghiệm lạm dụng tình dục khủng khiếp và nhục nhã. Nhưng nếu cô ấy theo lí thuyết của Freud thì phải có những cách giải thích khác. Có lẽ kí ức của cô đã bị bóp méo, nếu không muốn nói là giả dối; có lẽ chúng không phản ánh trải nghiệm thực tế mà là sự phóng chiếu những ham muốn của chính cô ấy. Có lẽ, nói một cách ngắn gọn, tất cả những vấn đề mà cô gặp phải là sản phẩm của trí tưởng tượng10. Tôi không nghi ngờ rằng việc đọc tác phẩm của Freud có thể có ảnh hưởng đến Virginia Woolf, nhưng tôi nghĩ rằng điều này có thể chỉ là nguyên nhân kích hoạt chứ không phải là nguyên nhân cuối cùng khiến cô ấy tự tử. Chúng ta biết rằng đã có nhiều động lực như vậy từ rất lâu trước khi Virginia có thể đọc các tác phẩm của Freud, cuốn đầu tiên vào năm 13 tuổi. Tác phẩm của Freud có thể khiến cô ấy cảm thấy bối rối hơn nhưng nó chỉ đại diện cho những gì xã hội đã và đang làm khi đối mặt với những sự thật về nạn lạm dục tình dục tai tiếng được các gia đình che giấu: đổ lỗi cho nạn nhân và bảo vệ kẻ ngược đãi trưởng thành. Vì lí do đó, Woolf hoàn toàn cô độc với hồi ức đau thương mà kỳ quặc của mình, mặc dù có rất nhiều bạn tốt. Sự “chăm sóc” mà cô nhận được từ gia đình và từ chồng cô, Leonard, đi kèm với những lời nói dối và đạo đức giả mà cô đã từ chối nhìn vào sự thật. Cô được tự do đặt câu hỏi về thái độ như vậy trong tiểu thuyết của mình nhưng gia đình riêng của cô vẫn là bất khả xâm phạm. Không nghi ngờ gì nữa, Woolf muốn tin rằng bản thân được yêu thương, rằng sự im lặng và thờ ơ mà cô phải chịu đựng thực chất là tình yêu. Kết quả là cô ấy đã sống với những lời nói dối và thay vì đối mặt với sự thật cô ấy lại tự trách mình. Cô ấy tiếp tục hành xử theo cách này ngay cả sau khi cố gắng tự tử vào năm 1913, xảy ra sau khi cô ấy biết đến cách chính người chồng đã phỉ báng mình trong cuốn tiểu thuyết The Wise Virgins của anh ta. Sau đó cô xin lỗi vì đã gây rắc rối cho anh.
Chú thích:
10 Louise DeSalvo, Virginia Woolf: The Impact of Childhood Sexual Abuse on Her Life and Work, New York: Feminist Press, 1995.
Chúng ta có thể nói rằng cô ấy không có dũng khí? Không, chúng ta không thể. Cô đã thể hiện sự can đảm hơn hầu hết mọi người trong việc tố cáo những lời nói dối, nhưng gia đình cô không thể chấp nhận sự trung thực như vậy. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên. Cô gái nhỏ tiếp tục sống trong cơ thể một người phụ nữ trưởng thành, sợ hãi những người anh em cùng cha khác mẹ và cả cha mẹ thân yêu của mình - những người vẫn luôn giữ im lặng. Nếu cô ấy có thể lắng nghe cơ thể mình, Virginia thực sự chắc chắn sẽ lên tiếng. Tuy nhiên, để làm được như vậy, cô ấy cần ai đó nói với cô ấy: “Hãy mở mắt ra! Họ đã không bảo vệ bạn khi bạn gặp nguy cơ mất sức khỏe và tinh thần, và bây giờ họ từ chối xem bạn đã làm gì. Sau tất cả những điều đó làm sao bạn có thể yêu họ đến như vậy?” Không ai sẵn sàng nói ra những điều như thế. Cũng không ai có thể chịu đựng sự lạm dụng đó một mình, kể cả Virginia Woolf.
Malcolm Ingram, giảng viên nổi tiếng về y học tâm lí người Canada, tin rằng “bệnh tinh thần” của Woolf không liên quan gì đến trải nghiệm thời thơ ấu của cô và căn bệnh của cô là do di truyền từ gia đình. Đây là ý kiến của ông được trích dẫn trên trang web Virginia Woolf:
Khi còn nhỏ, cô đã bị lạm dụng tình dục, nhưng mức độ và thời gian rất khó xác định. Tệ nhất, cô có thể đã bị quấy rối và lạm dụng tình dục từ năm 12 tuổi đến 21 tuổi bởi anh trai [cùng cha khác mẹ] George Duckworth và chị gái 14 tuổi của cô, bị lạm dụng tình dục từ khi 6 tuổi bởi một người anh trai cùng cha khác mẹ khác… Có lẽ việc bị lạm dụng tình dục và căn bệnh trầm cảm của cô không có liên quan gì với nhau. Cho dù ta muốn gắn hai thứ này với nhau, nhưng có nhiều khả năng là cho dù quá trình lớn lên của cô ra sao thì lịch sử gia đình và cấu tạo gen của cô là những yếu tố quyết định sự thay đổi tâm trạng của cô hơn là tuổi thơ bất hạnh của cô [chữ nghiêng được tác giả thêm vào]. Điều liên quan hơn trong trải nghiệm thời thơ ấu là lịch sử lâu dài của những người mất đã khiến tuổi thanh xuân của cô bị tổn thương và tạo ra lần trầm cảm đầu tiên.11
Chú thích:
11 http://ourworld.compuserve.com/homepages/malcolmi/VWFRAM.HTM.
Tôi đã sửa bài viết của Ingram trong đoạn đầu tiên. Anh ấy xác định sai Duckworth là anh kế của Woolf và khai man sự khác biệt về tuổi tác giữa họ.
Suy nghĩ của Ingram đi ngược lại cách hiểu của tôi và bỏ qua một lượng lớn tác phẩm văn học đề cập đến tổn thương và ảnh hưởng của việc lạm dụng thời thơ ấu. Ở đây, chúng ta thấy cách mọi người giảm thiểu tầm quan trọng của thông tin về các yếu tố gây đau đớn hoặc ám ảnh như lạm dụng thời thơ ấu và thay vào đó đổ lỗi cho tiền sử gia đình là nguyên nhân gây ra các chứng rối loạn tinh thần. Woolf hẳn đã cảm thấy rất thất vọng khi những người có tầm hiểu biết rộng và được giáo dục tốt cho rằng tình trạng là do tiền sử tâm thần của cô, phủ nhận ảnh hưởng đáng kể của những trải nghiệm thời thơ ấu. Trong mắt nhiều người, cô vẫn là một người phụ nữ bị “chứng điên” ám ảnh. Tuy nhiên, chìa khóa cho tình trạng của cô ấy nằm gần bề mặt, rất dễ thấy được nhưng lại bị bỏ quên.
Tôi nghĩ rằng việc tự tử của Woolf có thể được ngăn chặn nếu cô có chứng nhân khai sáng, người mà cô ấy có thể chia sẻ cảm xúc của mình về những nỗi kinh hoàng cô phải chịu đựng khi còn nhỏ. Nhưng không có ai để hướng tới và cô coi Freud là chuyên gia về các chứng rối loạn tinh thần. Tại đây cô đã mắc phải một sai lầm bi thảm. Các tác phẩm của ông ấy khiến cô rơi vào trạng thái bấp bênh nghiêm trọng, và cô tuyệt vọng về bản thân mình nhiều hơn là nghi ngờ nhân vật người cha vĩ đại Sigmund Freud, người đại diện, cũng như gia đình cô, hệ thống giá trị được xã hội đề cao, đặc biệt là vào thời điểm đó.
THẬT KHÔNG MAY, NHỮNG TIÊU CHUẨN NÀY không thay đổi nhiều trong những năm qua. Gần đây nhất vào năm 1987, nhà báo Nikolaus Frank đã nhận xét trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí Stern của Đức rằng anh ta không bao giờ có thể tha thứ cho cha mình vì những hành vi tàn ác mà ông ta đã gây ra cho mình. Tuyên bố này gây ra sự phản đối kịch liệt trong công chúng. Trong chiến tranh, cha của Frank đã từng là một lãnh đạo Quốc xã địa phương ở Krakow và chịu trách nhiệm về những đau khổ khôn lường mà nhiều người phải hứng chịu. Thế nhưng xã hội trông đợi con trai ông ta có thái độ yêu mến một kẻ nhẫn tâm như vậy. Nikolaus Frank nhận được những lá thư nói rằng điều tồi tệ nhất mà cha anh đã làm là sinh ra một đứa con trai như anh.
TỰ HẬN VÀ TÌNH YÊU KHÔNG TOẠI NGUYỆN
Arthur Rimbaud
ARTHUR RIMBAUD, sinh năm 1854, người có những câu thơ rực rỡ gợi tình đã làm dậy sóng văn đàn vào cuối thế kỉ XIX hơn hết thảy những nhà thơ khác cùng thời, qua đời vì bệnh ung thư năm 1891, vài tháng sau khi chân phải bị cắt cụt. Nói cách khác, anh chỉ sống đến 37 tuổi. Yves Bonnefoy, nhà thơ Pháp được kính trọng nhất ngày nay, nói với chúng ta rằng mẹ của Rimbaud rất khắc nghiệt và tàn bạo, một sự thật mà tất cả các nguồn tư liệu đã nghiên cứu đều công nhận.
Trong cuốn sách Rimbaud của mình, Bonnefoy mô tả mẹ của Rimbaud là một người phụ nữ tham vọng, kiêu hãnh, cố chấp bướng bỉnh, khô cằn và đầy thù hận. Bonnefoy gọi bà là trường hợp kinh điển của một người rực cháy bởi nguồn năng lượng thuần túy bắt nguồn từ lòng cuồng tín tôn giáo. Những bức thư đáng kinh ngạc mà bà đã viết vào khoảng năm 1900 tiết lộ rằng bà say mê cái chết và sự hủy diệt. Bà bị mê hoặc bởi những nghĩa địa và ở tuổi 70, bà đã cho những người bốc mộ hạ bà xuống ngôi mộ mà sau này bà chia sẻ với những đứa con đã chết của mình, Vitali và Arthur, để bà ấy có thể cảm nhận được đêm tối vĩnh cửu sắp tới12. Một đứa trẻ thông minh và nhạy cảm lớn lên trong sự chăm sóc của một người phụ nữ như thế sẽ ra sao? Chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời trong thơ của Rimbaud. Bonnefoy nói cho chúng ta biết rằng mẹ của Rimbaud đã làm mọi thứ trong khả năng của mình để hạn chế và cản trở sự phát triển của cậu con trai trở thành một nhà thơ, mặc dù điều đó là vô ích. Không đạt được điều mình muốn, bà đã dập tắt đi bất cứ khao khát được tự do nào của cậu, không cho nhen nhóm lên thành hiện thực. Cậu coi mình như một đứa trẻ mồ côi và coi mối quan hệ của cậu với mẹ mình một mặt là thù hận và mặt khác là sự phụ thuộc khúm núm. Do không nhận được chút tình cảm nào, Rimbaud kết luận rằng mình phải có tội ở một khía cạnh nào đó: “Với tất cả sức mạnh của sự trong trắng, anh đã phản kháng quyết liệt chống lại phán quyết mà mẹ truyền cho anh.”13
Chú thích:
12 Yves Bonnefoy, Rimbaud (Paris: Seuil, 2004).
13 Yves Bonnefoy, Rimbaud (Paris: Seuil, 2004).
Mẹ của Rimbaud duy trì sự kiểm soát hoàn toàn đối với các con của mình và gọi sự kiểm soát này là tình mẫu tử. Người con trai nhạy bén của bà đã nhìn thấu lời nói dối này. Anh nhận ra rằng sự quan tâm thường xuyên của bà chỉ là những biểu hiện bên ngoài, không liên quan gì đến tình yêu. Nhưng anh không thể thừa nhận rằng quan sát này mà không có sự đề phòng, bởi vì khi còn nhỏ anh cần tình yêu hoặc ít nhất là ảo tưởng về nó. Anh không thể ghét mẹ mình, đặc biệt là vì bà rất quan tâm đến anh. Vì vậy, thay vào đó, anh ghét bản thân mình, anh vô thức tin rằng theo một cách mơ hồ nào đó rằng anh phải xứng đáng với sự giả dối và lạnh lùng như vậy. Bị đầu độc bởi cái cảm giác ghê tởm lẽ ra không nên có đó, anh đã phóng chiếu nó lên thị trấn tỉnh lẻ nơi anh sống, lên sự đạo đức giả của hệ thống đạo đức mà anh ấy lớn lên (giống như Nietzsche, người cùng thời với anh) và lên chính bản thân. Trong suốt cuộc đời, anh đã cố gắng để thoát khỏi những cảm giác này bằng cách sử dụng rượu, cần sa, absinthe, thuốc phiện và những chuyến du lịch đến những nơi xa xôi. Khi còn trẻ, anh đã hai lần cố gắng chạy trốn khỏi nhà nhưng đều bị bắt lại và tiếp tục sống dưới bàn tay “chăm sóc” của mẹ.
Thơ của anh không chỉ phản ánh lòng tự hận mà còn phản ánh sự tìm kiếm tình yêu đã hoàn toàn khước từ anh trong giai đoạn đầu đời. Sau đó, ở trường, anh đã may mắn gặp được một giáo viên tốt bụng, người đã cho anh sự đồng hành và hỗ trợ mà anh rất cần trong những năm quyết định ở tuổi dậy thì. Tình cảm và lòng tin của người thầy đã giúp Rimbaud viết và phát triển những ý tưởng triết học của mình. Nhưng tuổi thơ của anh vẫn giữ nguyên sự ngột ngạt đối với anh. Anh đã cố gắng chống lại sự tuyệt vọng khi thiếu vắng tình yêu trong cuộc đời bằng cách biến nó thành những quan sát triết học về bản chất của tình yêu đích thực. Nhưng những suy nghĩa này không là gì hơn sự trừu tượng hóa bởi vì, mặc dù trí tuệ của anh từ chối đạo đức thông thường, nhưng tình cảm của anh lại trung thành với quy tắc ứng xử đạo đức không thay đổi đó. Với anh, tự ghê tởm bản thân là điều chính đáng nhưng ghét mẹ là điều không thể tưởng tượng được. Anh không thể để ý đến những thông điệp đau đớn về kí ức thời thơ ấu mà không tự triệt tiêu những hi vọng đã giúp anh tồn tại khi còn nhỏ. Hết lần này đến lần khác, Rimbaud nói với chúng ta rằng anh ấy không có ai để dựa vào ngoại trừ chính bản thân mình. Đây chắc chắn là kết quả của trải nghiệm của anh với một người mẹ không có gì để nói đến ngoài sự lệch lạc và đạo đức giả của chính bà, chứ không phải là tình yêu đích thực. Suốt cuộc đời anh là những nỗ lực tuyệt vời nhưng vô ích để cứu bản thân khỏi sự hủy hoại dưới bàn tay của người mẹ với tất cả phương tiện mà anh có.
Những người trẻ đã trải qua thời thơ ấu giống như Rimbaud thường bị cuốn hút bởi thơ của ông vì họ có thể mơ hồ cảm nhận được sự hiện diện của một tinh thần đồng cảm trong đó.
Tình bạn của Rimbaud với Paul Verlaine nổi tiếng trong lịch sử văn học. Khao khát tình yêu và sự giao tiếp chân thành của anh lúc đầu đã tìm thấy sự đồng cảm trong tình bạn này. Nhưng sự ngờ vực bắt nguồn từ thời thơ ấu của anh dần đầu độc sự thân thiết của họ và điều này, cùng với quá khứ khó khăn của Verlaine, đã ngăn cản tình cảm chân thành giữa họ có thể kéo dài. Cuối cùng, việc sử dụng ma túy khiến họ không thể sống một cuộc sống hoàn toàn chân thật mà họ đang tìm kiếm. Mối quan hệ của họ đã bị rạn nứt bởi những tổn thương tâm lí mà họ gây ra cho nhau. Phương án cuối cùng, Verlaine đã hành động theo cách hủy hoại giống như mẹ của Rimbaud và cuộc khủng hoảng cuối cùng xảy đến khi Verlaine trong lúc say rượu đã bắn Rimbaud, để rồi bị kết án hai năm tù cho tội ác của mình.
Để cứu vãn tình yêu đích thực mà anh đã bị tước đoạt từ thời thơ ấu, Rimbaud đã chuyển sang ý tưởng về tình yêu thể hiện trong lòng bác ái Cơ-đốc cùng sự thấu hiểu và lòng trắc ẩn đối với người khác. Anh đặt mục tiêu cho người khác những gì bản thân anh chưa bao giờ nhận được. Anh cố gắng hiểu người bạn của mình và giúp Verlaine hiểu chính mình, nhưng những cảm xúc bị dồn nén từ thời thơ ấu của anh liên tục cản trở nỗ lực này. Anh tìm kiếm sự cứu chuộc trong lòng bác ái Cơ-đốc, nhưng trí thông minh của anh không cho phép anh lừa dối bản thân. Vì vậy, anh đã dành cả cuộc đời để tìm kiếm sự thật của riêng mình, nhưng nó vẫn bị che giấu, bởi vì từ rất sớm anh đã học cách căm thù bản thân vì những gì mẹ anh đã làm với anh. Anh coi bản thân như một con quái vật, coi xu hướng đồng tính của mình như một tật xấu (điều này rất dễ xảy ra nếu xét đến thái độ của xã hội trong thời Victoria) và coi sự tuyệt vọng như một tội lỗi. Nhưng chưa một lần nào anh cho phép mình hướng sự thịnh nộ bất tận, chính đáng vào thủ phạm thực sự, người phụ nữ đã giam anh trong ngục tù của bà lâu nhất có thể. Trong suốt cuộc đời, anh đã cố gắng giải thoát bản thân khỏi nhà tù đó với sự trợ giúp của ma túy, du lịch, ảo tưởng và trên hết là thi ca. Nhưng trong tất cả những nỗ lực tuyệt vọng này để mở ra những cánh cửa có thể dẫn đến sự giải thoát, thì một trong số chúng vẫn cố chấp đóng chặt và là cánh cửa quan trọng nhất: cánh cửa dẫn đến cảm xúc thực sự của thời thơ ấu, cảm xúc của đứa trẻ nhỏ buộc phải lớn lên với một người phụ nữ độc ác, bị rối loạn nghiêm trọng, mà không có người cha để bảo vệ khỏi mẹ mình.
Tiểu sử của Rimbaud là một ví dụ biết nói về việc cơ thể không nguôi tìm kiếm sự nuôi dưỡng ban đầu mà nó đã bị từ chối một cách tuyệt vọng. Rimbaud bị thúc đẩy để làm đầy một sự thiếu hụt, một cơn đói không thể nguôi ngoai. Nghiện ma túy, những chuyến du lịch cưỡng chế và tình bạn với Verlaine có thể được hiểu không chỉ đơn thuần là những nỗ lực chạy trốn khỏi mẹ anh, mà còn là một cuộc tìm kiếm sự nuôi dưỡng mà bà đã khước từ anh. Vì thực tại bên trong anh chắc chắn vẫn còn trong tình trạng vô thức, cuộc sống của Rimbaud được đánh dấu bằng những hành vi cưỡng chế lặp lại. Sau mỗi nỗ lực trốn chạy bị thất bại, anh trở về với mẹ, làm như vậy cả sau khi chia tay Verlaine và vào cuối cuộc đời, khi cuối cùng anh đã hi sinh tài năng sáng tạo của mình bằng cách từ bỏ công việc viết lách để trở thành một doanh nhân và bằng cách đó gián tiếp đáp ứng kì vọng của mẹ về mình. Mặc dù Rimbaud đã trải qua những ngày cuối đời trong bệnh viện ở Marseille, ngay trước đó anh đã trở về miền Tây nước Pháp, nơi anh được mẹ và chị gái chăm sóc. Cuộc tìm kiếm tình yêu từ mẹ của anh đã kết thúc trong nhà tù của tuổi thơ.
ĐỨA TRẺ BỊ GIAM CẦM VÀ SỰCẦN THIẾT CỦA VIỆC PHỦ NHẬN NỖI ĐAU
Yukio Mishima
GIỐNG NHƯ RIMBAUD, nhà văn Nhật Bản nổi tiếng Yukio Mishima, người đã tự sát kiểu hara-kiri14 vào năm 1970 ở tuổi 45, thường tự cho mình là một con quái vật vì cảm thấy bên trong mình có khuynh hướng đối với những thứ bệnh hoạn và biến thái. Những tưởng tượng của ông xoay quanh cái chết, mặt tối của thế giới và bạo lực tình dục. Mặt khác, những bài thơ của ông cho thấy một sự nhạy cảm khác thường đã gây ra cho ông những đau khổ vô cùng, những đau khổ bắt nguồn từ những trải nghiệm bi thương thời thơ ấu.
Chú thích:
14 Hara-kiri (mổ bụng): là một nghi thức tự sát thời xưa của người Nhật. Theo nghi thức này, một samurai sẽ tự mổ bụng tuẫn tiết khi bị thất trận hoặc khi chủ bị chết để tránh bị rơi vào tay quân thù và bị làm nhục hoặc như một hình thức tử hình đối với các samurai đã phạm tội nghiêm trọng, hoặc tự thực hiện vì họ đã phạm tội nghiêm trọng làm bản thân phải xấu hổ.
Mishima là con đầu lòng. Khi anh sinh ra năm 1925, cha mẹ mới kết hôn và sống trong nhà ông bà – điều này không có gì bất thường ở Nhật Bản thời đó. Gần như ngay từ đầu, anh đã được đặt trong phòng của người bà năm mươi tuổi của mình. Cũi của anh đặt cạnh giường của bà và anh sống ở đó trong nhiều năm, tách biệt với thế giới bên ngoài và chỉ tiếp xúc với những thứ bà cho là cần thiết. Bà của Mishima bị trầm cảm nặng. Thỉnh thoảng, bà làm cho cậu bé hoảng sợ bằng những cơn cuồng loạn bùng phát. Bà không có gì ngoài sự khinh miệt đối với chồng và con trai mình, cha của Mishima, nhưng theo cách riêng, bà tôn thờ đứa cháu nhỏ và muốn nó thuộc về riêng bà chứ không phải ai khác. Trong cuốn tự truyện của mình, Mishima kể lại sự ngột ngạt và mùi khét lẹt của căn phòng mà anh đã ở với bà. Nhưng anh không kể cho chúng ta về bất kì cơn thịnh nộ hay sự căm ghét nào mà anh cảm thấy về hoàn cảnh của mình, bởi vì nó là bình thường đối với anh. Năm 4 tuổi, anh phát bệnh nặng, được chẩn đoán là “tự trúng độc”, sau này trở thành mãn tính. Khi mới đi học, năm 6 tuổi, lần đầu tiên anh tiếp xúc với với những đứa trẻ khác và anh cảm thấy xa lạ và lạc lõng. Đương nhiên, anh gặp khó khăn trong việc kết nối với những đứa trẻ khác, những đứa trẻ có cảm xúc tự do và bộc phát hơn, vì chúng đã trải qua những cách ứng xử và môi trường hoàn toàn khác trong gia đình của chúng. Khi anh lên 9 tuổi, bố mẹ anh dọn đến một căn hộ riêng nhưng không đưa con trai theo cùng, đó là thời điểm anh bắt đầu làm thơ, dưới sự động viên tích cực và nhiệt tình của bà. Đến năm 12 tuổi, khi rốt cuộc anh đến sống cùng cha mẹ, mẹ anh tự hào về những gì anh viết, nhưng cha xé bản thảo và Mishima buộc phải tiếp tục viết trong bí mật. Ở nhà, anh không tìm thấy sự thấu hiểu và động viên. Bà anh đã cố gắng biến anh thành con gái, trong khi cha thì cố gắng biến anh thành một “người đàn ông thực sự” nên đã đánh anh rất dữ dội. Do đó, anh thường xuyên đến thăm bà như một nơi ẩn náu khỏi sự tàn ác của cha. Vào khoảng thời gian này, bà đã đưa anh đến nhà hát lần đầu tiên trong đời. Điều này đã mở ra cánh cửa cho một thế giới hoàn toàn mới: thế giới của cảm xúc.
Theo tôi, việc Mishima tự sát là biểu hiện của việc anh không thể trải nghiệm được các cảm giác thuở thiếu thời bao gồm sự nổi loạn chống lại, sự tức giận và sự phẫn nộ trước hành vi của bà. Sự bất lực này là kết quả trực tiếp của lòng biết ơn mà anh dành cho bà. Trong sự cô đơn và cách cư xử của cha, thì đối với anh, người bà chắc chắn là một vị cứu tinh. Cảm xúc thực sự của anh ta vẫn bị dồn nén trong nhà tù của sự gắn bó của anh với người phụ nữ này, người đã bóc lột đứa trẻ ngay từ đầu để thỏa mãn nhu cầu cá nhân, bao gồm cả (có lẽ) ham muốn tình dục. Nhưng những người viết tiểu sử của anh đã phủ một bức màn im lặng về tất cả những điều này và ngay đến phút cuối, chính Mishima cũng không đề cập đến nó. Anh đã không bao giờ đối mặt với sự thật của chính mình.
Rất nhiều lí do đã được đưa ra để giải thích việc tự sát của Mishima. Nhưng lí do thuyết phục nhất lại ít được nhắc đến. Xét cho cùng, việc chúng ta mắc nợ ông bà cha mẹ (hoặc những người thay thế) là điều hoàn toàn bình thường, ngay cả khi sự đối xử mà ta trải qua dưới tay họ là một sự tra tấn rõ ràng và thuần túy. Đây là một phần không thể thiếu của đạo đức, như chúng ta vẫn hiểu. Nhưng nó là loại đạo đức chôn vùi cảm xúc chân thật và sự thật về cá nhân chúng ta vào một nấm mồ không dấu vết. Bệnh nặng, chết sớm và tự tử là hậu quả hợp lí của việc tuân theo các quy luật mà chúng ta gọi là đạo đức, mặc dù trên thực tế, chúng bóp nghẹt cuộc sống đích thực của chúng ta. Điều này sẽ tiếp tục xảy ra trên toàn thế giới, một khi chúng ta tôn kính những luật lệ này hơn chính cuộc sống. Cơ thể nổi loạn chống lại cách đối xử như vậy, nhưng thứ ngôn ngữ duy nhất mà nó có là ngôn ngữ của bệnh tật, một ngôn ngữ hiếm khi được hiểu chừng nào việc từ chối cảm xúc thực sự trong thời thơ ấu vẫn không được công nhận.
Nhiều trong số Mười Điều Răn vẫn có hiệu lực cho đến ngày nay. Nhưng Điều Răn Thứ Tư hoàn toàn trái ngược với các quy luật tâm lí học. Điều cấp thiết là phải có sự thừa nhận chung về thực tế rằng “tình yêu” bị cưỡng chế có thể gây ra rất nhiều tác hại. Những người được yêu thương trong thời thơ ấu sẽ yêu thương lại cha mẹ của mình. Không cần có lệnh truyền để bảo họ làm như vậy. Việc tuân theo một điều răn không bao giờ có thể là cơ sở cho tình yêu.
NGỘT NGẠT VỚI TÌNH YÊU CỦA MẸ
Marcel Proust
BẤT CỨ AI đã dành đủ thời gian (không hề ít) để đắm mình trong thế giới của Marcel Proust thì đều biết tác giả này đã mang lại cho độc giả của mình những cảm giác, sự nhạy cảm, hình ảnh và sự quan sát vô cùng phong phú. Để viết được thế, chắc hẳn ông đã trải qua vô số cảm giác tương tự khi ngồi viết cuốn tiểu thuyết vĩ đại In Search of Lost Time (Đi tìm thời gian đã mất) năm này qua năm khác. Tại sao những trải nghiệm này đã không đem lại cho ông sức mạnh để sống? Tại sao ông đã chết chỉ hai tháng sau khi hoàn thành cuốn sách? Và tại sao nguyên nhân là do nghẹt thở? Câu trả lời thông thường là bởi vì ông bị hen suyễn và một đợt viêm phổi là nguyên nhân dẫn đến cái chết của ông. Nhưng tại sao ông lại bị hen suyễn? Ông đã bị lên cơn hen dữ dội lần đầu tiên vào năm 9 tuổi. Điều gì đã khiến ông mắc căn bệnh này? Liệu có phải ông không có một người mẹ yêu thương mình? Ông có thể cảm nhận được tình yêu đó không, hay đã bị tấn công bởi những nghi ngờ?
Thực tế là ông đã chỉ có thể mô tả những quan sát, cảm xúc và suy nghĩ tạo nên thế giới đặc biệt của riêng mình sau khi mẹ qua đời. Đôi khi, ông cảm thấy mình là gánh nặng không thể chịu đựng khi được đối diện bà. Ông không bao giờ có thể bộc lộ con người thật của mình với bà, với tất cả những điều ông nghĩ và cảm nhận. Điều này xuất hiện một cách rõ ràng trong những bức thư của ông gửi cho mẹ, mà tôi trích dẫn dưới đây. Theo cách riêng của mình, bà cũng rất “yêu” con. Bà rất quan tâm đến sức khỏe và hạnh phúc của con, nhưng đồng thời cũng muốn kiểm soát con hoàn toàn, và chỉ đạo các mối quan hệ của con, thậm chí ngay cả khi con đã 18 tuổi, thì bà vẫn cố gắng ngăn cản những người mà bà ấy cảm thấy không xứng đáng đối với con mình. Bà muốn con trở thành người mà bà muốn, phụ thuộc và ngoan ngoãn. Trong khi thỉnh thoảng chống lại sự can thiệp này, ông đồng thời hiền lành, và đôi khi tuyệt vọng, cảm thấy có lỗi vì sự không vâng lời của mình, Marcel đã rất sợ đánh mất tình cảm của mẹ. Mặc dù tìm kiếm tình yêu của bà cả đời, nhưng ông đã phải tự bảo vệ mình bằng cách rút chạy vào bên trong để trốn khỏi sự kiểm soát thường xuyên của bà và khỏi những tuyên bố của bà về việc nắm quyền đối với mình.
Bệnh hen của Proust là một biểu hiện của tình trạng tiến thoái lưỡng nan này. Ông hít vào quá nhiều không khí (tình yêu) và không được phép thở ra không khí thừa (sự kiểm soát), nghĩa là, sự nổi loạn chống lại những yêu sách kìm hãm của mẹ. Sự thật là bộ tiểu thuyết 7 tập tráng lệ của ông đã giúp ông thể hiện bản thân và ban tặng cho độc giả một món quà hào phóng khác thường. Nhưng trong nhiều năm, ông đã phải chịu sự giày vò về thể xác vì không thể đủ khả năng đối mặt hoàn toàn và có ý thức với những đau khổ do người mẹ quá mạnh mẽ, thống trị và đòi hỏi gây ra. Cho đến tận cuối đời, mối quan tâm chính của ông vẫn là lưu giữ những cảm giác của người mẹ được nội hóa của mình và ông cũng tin rằng cần phải bảo vệ bản thân khỏi sự thật. Cơ thể ông đã không thể chấp nhận được sự thỏa hiệp khó chịu này. Nó đã biết sự thật, có lẽ là từ khi mới sinh. Đối với cơ thể của Marcel, sự thao túng và quan tâm quá mức của mẹ không bao giờ là biểu hiện của tình yêu chân thành, mà là dấu hiệu của sự sợ hãi. Rất nhiều khả năng đó là nỗi sợ hãi của một người con gái ngoan ngoãn, có đầu óc thông thường từ một gia đình tư sản “tốt” khi đối mặt với năng lực sáng tạo phi thường của con trai mình. Jeanne Proust rất quan tâm đến việc sống theo những kì vọng liên quan đến vai trò là vợ của một bác sĩ và giáo sư đáng kính được tôn trọng bởi các thành viên của tầng lớp xã hội mà sự chấp thuận của họ là rất quan trọng với bà. Với bà, sự độc đáo và sức sống của Marcel là một mối đe dọa, một mối đe dọa mà bà quyết chiến đấu bằng tất cả những gì mình có. Điều này đã không thoát khỏi nhận biết của người con trai nhạy cảm, dễ bị tổn thương. Nhưng ông đã phải giữ im lặng trong một thời gian rất dài. Chỉ sau cái chết của mẹ, ông mới công bố những quan sát sắc bén của mình và phê phán xã hội tư sản thời đó với độ nhạy bén mà trước đó khó ai sánh bằng. Mẹ ông không liên can gì đến sự chỉ trích này, mặc dù bản thân bà là hiện thân tiêu biểu của khía cạnh tâm lí đó.
Ở tuổi 34, ngay sau cái chết của mẹ, Proust đã viết cho người bạn Comte Robert de Montesquiou:
Bà ấy biết rằng tôi không thể sống thiếu bà... Kể từ đây, cuộc sống của tôi đã mất đi mục đích duy nhất, vị ngọt duy nhất, tình yêu duy nhất, niềm an ủi duy nhất. Tôi đã mất đi một người mà sự nhạy cảm vô tận trong bình yên, trong tình yêu của người đó đã cho tôi món quà duy nhất của cuộc đời... Tôi thấm đẫm nỗi đau... Như cô y tá chăm sóc bà đã nói: “Trong mắt bà, tôi luôn luôn là một đứa trẻ 4 tuổi.”
Mô tả này về tình yêu của Proust dành cho mẹ phản ánh trung thực sự gắn bó phụ thuộc đến thảm thương của ông với bà, điều này đã không dẫn đến sự giải thoát và giúp ông có không gian để công khai chống lại sự giám sát thường trực của bà. Căn bệnh hen của ông là một biểu hiện của tình trạng tiến thoái lưỡng nan này: “Tôi hít vào rất nhiều không khí nhưng tôi không được thở ra, mọi thứ bà dành cho tôi phải tốt cho tôi, ngay cả khi nó làm tôi ngột ngạt.”
Nhìn lại thời thơ ấu của Proust sẽ làm sáng tỏ nguồn gốc của bi kịch này. Câu chuyện giải thích tại sao ông bị ràng buộc chặt chẽ với mẹ của mình quá lâu và không thể giải phóng bản thân khỏi ảnh hưởng của bà, mặc dù nó đã khiến ông đau khổ rất nhiều.
Cha mẹ của Proust kết hôn vào ngày 3 tháng Chín năm 1870. Con trai đầu lòng của họ, Marcel, được sinh ra ở Auteuil vào ngày 10 tháng Bảy năm 1871, trong một đêm đầy ồn ào và náo động do dân chúng vẫn quay cuồng vì cú sốc trước việc Phổ xâm lược Pháp. Có thể dễ dàng tưởng tượng rằng mẹ của ông đã khó có thể thoát khỏi sự căng thẳng thần kinh thường gặp vào thời điểm đó và tập trung toàn bộ sự quan tâm yêu thương vào đứa con mới chào đời. Cũng công bằng khi cho rằng cơ thể đứa trẻ đã cảm nhận được sự bất thường này và bắt đầu nảy sinh nghi ngờ về việc liệu nó có được chào đón hay không. Trong tình huống này, đứa trẻ chắc chắn cần được đảm bảo nhiều hơn những gì đang có. Ở một số trẻ sơ sinh, sự thiếu hụt như vậy có thể dễ dàng gây ra nỗi sợ hãi chết người mà sau này sẽ ảnh hưởng đến tuổi thơ của chúng. Đây có lẽ là trường hợp của Marcel.
Trong suốt thời thơ ấu, Marcel không thể đi ngủ vào ban đêm trừ khi được mẹ hôn chúc ngủ ngon và một khi nhu cầu cưỡng chế này được cha mẹ Marcel - và thực tế là tất cả những người xung quanh - cảm nhận rõ hơn, như một ví dụ đáng xấu hổ về “thói quen xấu”, thì nó lại càng trở nên cần thiết. Giống như mọi đứa trẻ, Marcel không muốn gì hơn là tin vào tình yêu của mẹ mình, nhưng bằng cách nào đó, ông dường như không thể tách mình ra khỏi kí ức được lưu trữ trong cơ thể, khiến ông nhớ lại những cảm xúc lẫn lộn của mẹ ngay sau khi mình chào đời. Marcel cần nụ hôn chúc ngủ ngon để xóa tan nhận thức về thể chất ban đầu vô cùng mạnh mẽ đó. Nhưng ngay đêm hôm sau, những nghi ngờ đã quay trở lại. Ngoài ra, dòng người liên tục đến phòng khách ở tầng dưới có thể đã khơi dậy trong tâm trí đứa trẻ mối nghi ngờ rằng tất cả những người đàn ông và phụ nữ thuộc giai cấp tư sản cao sang này có ý nghĩa với mẹ nhiều hơn nó. Rốt cuộc, nếu so với họ thì nó lại nhỏ bé và tầm thường làm sao! Vì vậy, đứa trẻ nằm trên giường, chờ đợi cái dấu hiệu của tình yêu mà nó vô cùng mong muốn. Nhưng thay vào đó, những gì nó nhận được từ mẹ là những lời răn dạy thường xuyên là phải ngoan, biết nghe lời “bình thường”.
Sau đó, khi trưởng thành, Marcel bắt đầu khám phá thế giới mà theo quan điểm của ông, đã đánh cắp tình yêu của mẹ khỏi ông. Ban đầu ông làm điều này với sự trợ giúp từ trải nghiệm trực tiếp của mình với vai trò là một công tử bảnh bao, rồi sau cái chết của mẹ, trong trí tưởng tượng của mình, ông mô tả thế giới này với niềm đam mê, sự chính xác và nhạy cảm chưa từng có. Cứ như thể là ông bước vào một cuộc hành trình dài để tìm kiếm câu trả lời cho những câu hỏi đã giày vò mình: “Mẹ ơi, tại sao tất cả những người này lại thú vị hơn con? Mẹ không nhận ra sự rỗng tuếch, hợm hĩnh của họ ư?
Tại sao cuộc sống của con, niềm khao khát của con dành cho mẹ, tình yêu của con dành cho mẹ lại chỉ có rất ít giá trị? Tại sao con chỉ là một sự phiền toái, không hơn?”
Có lẽ đứa trẻ đã thể hiện bản thân như vậy nếu nó có thể trải nghiệm những cảm xúc của mình một cách có ý thức. Nhưng Marcel muốn là một cậu bé ngoan và không gây ra rắc rối nào. Vì vậy, ông đã tìm đường đến thế giới của mẹ, và thế giới này bắt đầu mê hoặc ông. Việc làm thơ như một tấm vé thông hành cho phép ông miêu tả thế giới như ông cảm thấy và ông cũng có thể tự do phê bình nó. Ông đã làm tất cả những điều này từ chiếc giường của mình. Chính tại đây, ông đã thực hiện những cuộc hành trình tưởng tượng của mình, như thể chiếc giường bệnh là nơi bảo vệ ông khỏi hậu quả của sự vạch trần không thương tiếc và sự trừng phạt mà ông sợ vô cùng.
Thông qua các nhân vật trong tiểu thuyết của mình, một nhà văn có thể bày tỏ những cảm xúc chân thật mà ông không bao giờ nói rõ với cha mẹ mình trong đời thực. Trong cuốn tiểu thuyết tự truyện mạnh mẽ đầu tiên tên là Jean Santeuil, được xuất bản sau khi tác giả mất và được nhà viết tiểu sử Claude Mauriac dựa vào như một nguồn thông tin về những năm đầu đời của Proust, chúng ta thấy rằng tác giả giải quyết những tình huống cá nhân khó xử của mình một cách trực tiếp hơn nhiều, điều này cho chúng ta hiểu rằng ông đã thực sự ghi nhận việc bị cha mẹ khước từ. Ông nói về “những cơ hội lớn cho sự bất hạnh... trong bản chất của người con trai này, trong tình trạng sức khỏe của anh ta, khuynh hướng u uất, sự lãng phí, sức ì của anh ta, sự không thể tìm thấy một chỗ đứng trong cuộc sống” và “sự phung phí những món quà trí tuệ của mình.”15 Cũng trong cuốn tiểu thuyết đó, ông kể cho chúng ta về cuộc nổi dậy của mình chống lại mẹ, nhưng chỉ dưới vỏ bọc của nhân vật Jean:
Sự giận dữ của anh đối với bản thân càng làm tăng sự giận dữ của anh đối với cha mẹ. Nhưng vì họ là nguyên nhân dẫn đến sự lo lắng của anh, sự bất động tàn nhẫn của anh, những cơn khóc nức nở, chứng đau nửa đầu và chứng mất ngủ của anh, anh đã sẵn lòng làm điều gì đó để gây hại cho họ, hoặc tốt hơn là, thay vì đón nhận người mẹ với lời nguyền rủa khi bà bước đến, thì nói với bà rằng anh không có ý định làm việc, rằng anh sẽ dành mỗi đêm ở một nơi khác, rằng anh coi cha mình là một kẻ ngu dốt... và tất cả những điều này chỉ đơn thuần vì anh cảm thấy cần phải đả kích một cách loạn xạ bằng lời lẽ giáng xuống như những cú đánh, để đáp trả lại ít nhiều những điều xấu xa mà bà đã làm với anh. Nhưng những lời mà anh không thể thốt ra này vẫn bị dồn nén trong lòng và sống động như một liều thuốc độc tự ngấm vào cơ thể và dần dần thấm vào mọi tế bào. Tay và chân run lẩy bẩy, anh co giật trên không, tìm kiếm con mồi.16
Chú thích:
15 Trích Jean Santeuil của Marcel Proust.
16 Trích Jean Santeuil của Marcel Proust.
Nhưng sau cái chết của mẹ, tất cả những gì chúng ta tìm thấy là những lời tuyên bố của tình yêu. Cuộc sống thực sự của ông, với những nghi ngờ và cảm xúc mạnh mẽ của nó đã trở thành cái gì? Tất cả đã được chuyển thể thành nghệ thuật và cái giá phải trả cho sự chạy trốn khỏi thực tế này là bệnh hen.
Trong một bức thư gửi cho mẹ ngày 9 tháng Ba năm 1903, Proust viết: “Nhưng con không đòi hỏi niềm vui. Con đã từ bỏ nó từ lâu rồi.” Và vào tháng Mười hai năm 1903: “Nhưng ít nhất con khẩn cầu mỗi đêm với những kế hoạch cho một cuộc sống phù hợp với ý muốn của mẹ,” và sau đó trong cùng một bức thư: “Thà con bị bệnh và làm mẹ vui lòng, còn hơn làm trái ý mẹ và không bị đau ốm.” Một thứ rất có ý nghĩa đối với mâu thuẫn giữa đạo đức và thể xác là đoạn văn sau đây trích từ một bức thư viết vào đầu tháng Mười hai năm 1902: “Sự thật là ngay khi con cảm thấy khỏe lên, mẹ đã phá hủy mọi thứ cho đến khi con cảm thấy tồi tệ trở lại, bởi vì một cuộc sống nhẹ nhõm với con lại khiến mẹ tức giận... Nhưng thật đáng buồn là con không thể cùng lúc có được tình cảm của mẹ và sức khỏe của mình.”
Trên thực tế, chương truyện nổi tiếng về bánh con sò trong tiểu thuyết In Search of Lost Time (Đi tìm thời gian đã mất) kể về một trong những khoảnh khắc hạnh phúc hiếm hoi mà Proust cảm thấy an toàn và được bảo vệ khi có sự hiện diện của mẹ. Khi còn là một cậu bé 11 tuổi, cậu trở về sau một buổi đi dạo, ướt và lạnh rồi được mẹ ôm, cho uống trà nóng và một chiếc bánh con sò. Không có lời phàn nàn nào. Rõ ràng, trong một khoảng thời gian, điều này là đủ để giải tỏa cho đứa trẻ khỏi những nỗi sợ hãi đang ẩn náu trong nó, có thể là từ khi được sinh ra, và gắn với cảm giác không chắc chắn về việc liệu cha mẹ có thực sự cần mình hay không.
Những nỗi sợ hãi tiềm ẩn này liên tục được làm sống lại bởi những lời khiển trách và chỉ trích thường xuyên của cha mẹ dành cho ông. Đứa trẻ thông minh có thể đã nghĩ, “Mẹ ơi, con là một phiền phức đối với mẹ. Mẹ muốn con trở thành một ai đó khác. Mẹ luôn cho con thấy điều này và mẹ cũng nói với con như vậy.” Khi còn nhỏ, Marcel không thể diễn đạt điều này bằng lời và nguyên nhân gây ra nỗi sợ hãi của ông vẫn được giấu kín với mọi người. Marcel nằm một mình trong phòng, chờ đợi minh chứng nào đó về tình yêu của mẹ và lời giải thích tại sao mẹ lại muốn ông khác biệt. Thực tế này làm ông tổn thương. Nỗi đau rõ ràng quá mạnh để có thể cảm nhận được, và những thắc mắc cùng nghi ngờ của ông đã bị đóng dấu bằng “văn chương” và đày vào lĩnh vực nghệ thuật. Marcel Proust đã bị khước từ cơ hội giải mã bí ẩn của cuộc đời mình. Tôi tin rằng cuộc tìm kiếm “thời gian đã mất” trong tựa đề cuốn tiểu thuyết vĩ đại của ông là cuộc tìm kiếm cuộc sống mà ông chưa từng sống.
Công bằng mà nói, mẹ của Proust không tệ hơn những người mẹ bình thường khác trong thời của bà, và theo cách riêng của mình, bà chắc chắn lo lắng cho hạnh phúc của con trai mình. Nhưng tôi không thể đồng tình với điệp khúc của những người viết tiểu sử ca ngợi hết sức những đức tính làm mẹ của bà, bởi vì tôi thấy không thể đồng nhất bản thân với hệ thống giá trị của họ. Ví dụ, một trong số họ viết rằng Jeanne là một tấm gương xuất sắc về đức hi sinh và đã truyền thành công điều này cho con trai mình. Có thể là Proust đã học được từ mẹ việc khước từ bản thân khỏi mọi niềm vui trong cuộc sống, nhưng tôi không coi thái độ đó là đáng ca ngợi hay là tử tế.
Thứ đã gây ra tình trạng thể chất nghiêm trọng của Proust là nghĩa vụ của lòng biết ơn vĩnh cửu và sự bất lực trong việc chống lại sự kiểm soát và cấm đoán của người mẹ. Chính đạo đức nội tại đã buộc Marcel Proust phải kìm nén lại sự nổi loạn của mình.
Giá ông có thể nói với mẹ những lời mà ông đã để nhân vật Jean Santeuil anh hùng của mình từng nói, thì ông đã không bị bệnh hen, không phải chịu những cơn nghẹt thở, không phải dành nửa cuộc đời trên giường bệnh và không chết trẻ như vậy. Ông nói rõ điều này trong bức thư gửi cho mẹ, rằng thà bị bệnh còn hơn việc có thể làm bà không hài lòng. Ngay cả ngày nay, những tuyên bố kiểu này cũng không hiếm. Điều chúng ta cần làm là tự mình nhận thức rõ ràng những hậu quả mà sự mù quáng cảm xúc này dẫn đến.
BẬC THẦY CỦA VIỆC CHIA TÁCH CẢM XÚC
James Joyce
JAMES JOYCE ĐÃ trải qua nhiều cuộc phẫu thuật mắt. Điều gì mà ông không được phép nhìn thấy hoặc cảm nhận? Sau cái chết của cha, ông đã viết trong một bức thư cho Harriet Shaw Weaver, ngày 17 tháng Một năm 1932:
Cha tôi có một tình cảm đặc biệt dành cho tôi. Ông là người đàn ông ngờ nghệch nhất mà tôi từng biết nhưng lại khôn ngoan một cách tàn nhẫn. Ông đã nghĩ đến và nhắc về tôi cho đến hơi thở cuối cùng. Tôi luôn rất thích ông, bởi vì chính tôi cũng đầy tội lỗi, và thậm chí tôi thích cả những lỗi lầm của ông. Hàng trăm trang và nhiều nhân vật trong sách của tôi là từ ông ấy. Sự dí dỏm khô khan (hay đúng hơn là ướt át) và nét mặt của ông thường khiến tôi cười vang.17
Chú thích:
17 James Joyce, Letters of James Joyce (London: Faber & Faber, 1966)
Trái ngược với bức chân dung được lí tưởng hóa này của cha, đây là bức thư James Joyce gửi vợ vào ngày 29 tháng Tám năm 1904, ngay sau khi mẹ ông qua đời:
Làm sao anh có thể thích khi nghĩ về gia đình?... Mẹ đã chết dần chết mòn, anh nghĩ, bởi sự đối xử tệ bạc của cha, bởi nhiều năm khó khăn, và bởi cách hành xử thẳng thắn đến mức thô lỗ của anh. Khi anh nhìn vào khuôn mặt của bà trong quan tài - một khuôn mặt xám xịt và bị tàn phá bởi căn bệnh ung thư - anh hiểu rằng mình đang nhìn vào khuôn mặt của một nạn nhân và anh nguyền rủa cái hệ thống18 đã biến bà thành nạn nhân. Gia đình anh có mười bảy thành viên. Các anh chị em của anh không có ý nghĩa gì đối với anh. Chỉ có một người em trai là có thể hiểu anh.19
Chú thích:
18 Hệ thống chứ không phải là người cha được lí tưởng hóa – AM.
19 James Joyce, Letters of James Joyce (London: Faber & Faber, 1966).
Có bao nhiêu đau khổ ẩn sau những dòng chữ đầy suy tư này, nỗi đau khổ của người con trai cả của một bà mẹ có mười bảy đứa con và một người chồng nghiện rượu, bạo lực? Nỗi đau khổ này không được thể hiện trong các tác phẩm của Joyce; thay vào đó, chúng ta thấy ông chống đỡ nó bằng sự trải lòng với văn xuôi phê phán tuyệt vời. Những chiêu trò của người cha được đứa con thường xuyên bị đánh đập ngưỡng mộ và được nhà văn trưởng thành chuyển thể thành văn học. Tôi cho rằng tiểu thuyết của ông thành công lớn là do rất nhiều người ngưỡng mộ và đánh giá cao hình thức bảo vệ tình cảm kiểu này, cả trong văn học và cuộc sống. Trong cuốn The Truth Will Set You Free (Sự thật sẽ giải phóng bản thân), tôi đã thảo luận về hiện tượng này, trên cơ sở cuốn hồi ký Angela’s Ashes (Tro tàn của Angela) của Frank McCourt.
TÁI BÚT
CHẮC CHẮN CÓ vô số những người khác cũng đã trải qua những trải nghiệm tương tự, nhưng những tác giả với những tổn thương trong cuộc sống mà tôi đã kể đều nổi tiếng thế giới, vì vậy sự thật của những gì tôi nói về họ có thể được xác minh bằng cách tham khảo các tác phẩm và tiểu sử của họ. Điểm chung của tất cả họ là lòng trung thành không lay chuyển đối với Điều Răn Thứ Tư. Họ đều tôn kính cha mẹ trong suốt cuộc đời, mặc dù cha mẹ đã gây cho họ những tổn thương khôn lường. Họ đã hi sinh sự khát khao chân lí, lòng trung thành với bản thân, khả năng giao tiếp chân thành, những hiểu biết về bản thân và đánh giá về người khác, đặt chúng lên bàn thờ của sự tôn kính cha mẹ, chỉ với hi vọng được yêu thương và không bị khước từ. Sự thật đã tìm được đường đi vào các tác phẩm của họ đã bị tách rời khỏi chính họ. Đây là gánh nặng do Điều Răn Thứ Tư áp đặt lên và nó khiến họ bị giam cầm trong ngục tù của sự chối bỏ.
Sự chối bỏ này dẫn đến bệnh nặng và chết sớm, một chỉ dấu khác cho thấy Moses đã sai lầm như thế nào khi ông nói rằng hiếu kính cha mẹ sẽ khiến người ta sống lâu hơn. Niềm tin mù quáng vào Điều Răn Thứ Tư rõ ràng là một mối đe dọa.
Tất nhiên, chúng ta không thể phủ nhận một thực tế là nhiều người sống thọ dù lí tưởng hóa cha mẹ - những người đã từng tàn nhẫn với mình. Nhưng chúng ta không biết làm thế nào mà họ lại chấp nhận được sự lừa dối bản thân này. Hầu hết họ đều truyền lại nó một cách vô thức cho thế hệ sau. Những gì chúng ta biết là, vào một thời điểm nào đó, các nhà văn mà chúng ta đang nói tới bắt đầu nghi ngờ sự thật của chính họ. Nhưng, bị cô lập trong một xã hội luôn dành sự tôn kính cho các bậc cha mẹ, họ đã không tìm thấy can đảm để chấm dứt việc khước từ sự thật đó.
Áp lực xã hội này có thể mạnh đến mức nào là điều mà mỗi người trong chúng ta đều có thể tự trải nghiệm. Người trưởng thành nhận ra rằng họ đã bị mẹ đối xử tàn nhẫn trong thời thơ ấu và nói chuyện cởi mở và thẳng thắn về thực tế đó sẽ luôn nhận được phản hồi tương tự, từ các nhà trị liệu cũng như bất kì ai khác: “Đúng, nhưng bà đã có một khoảng thời gian khó khăn và bà đã làm rất nhiều điều cho bạn. Bạn không nên lên án mẹ mình; bạn không nên nhìn mọi thứ bằng hai màu đen trắng và có cái nhìn phiến diện về mọi thứ. Không có hình mẫu cha mẹ lí tưởng,...” Ấn tượng mà chúng ta nhận được là, những người nói chuyện theo cách này, trên thực tế, đang bảo vệ mẹ của chính họ, mặc dù người nói chuyện cùng không công kích người mẹ của họ. Áp lực xã hội này mạnh hơn nhiều so với những gì chúng ta có xu hướng nhận ra.
Vì vậy, tôi rất hi vọng rằng cuộc thảo luận của tôi về những nhà văn này sẽ không bị hiểu là một lời chỉ trích về sự thiếu can đảm của họ. Nó đúng hơn là một miêu tả đầy cảm thông về bi kịch của những người không thể tự độc lập để thừa nhận sự thật cá nhân của chính họ, mặc dù họ cảm nhận nó sâu thẳm trong bản thân. Tôi viết cuốn sách này với hi vọng có thể giảm bớt sự cô độc của họ. Trong trị liệu, không có gì lạ khi gặp phải sự cô đơn của đứa trẻ mà người lớn đã từng là. Rốt cuộc, bản thân việc trị liệu cũng thường được tiến hành theo cách được quy định bởi Điều Răn Thứ Tư.