“Em mệt không?”
Porter Smalls quay sang ghế lái. Tán cây mùa hè quanh chiếc Cadillac Escalade tối om khi họ tiến vào con đường bẩn thỉu. Bờ nam sông Potomac uốn lượn như con rắn dưới chân hai người; các cửa kính xe đều hạ xuống hết, trong xe tràn ngập mùi cá chết, mùi bùn từ con sông.
“Một chút - không sao đâu mà,” Cecily Whitehead đáp.
Whitehead đã tắm nước giếng lạnh trong cabin ngay trước khi họ lên đường, thoa một chút nước hoa Chanel số 5 khi mặc đồ. Hai mùi này kết hợp khiến cô có cảm giác còn hơn cả dễ chịu nữa, cô thấy mình cực kỳ gợi tình.
“Anh sẽ lái nếu em muốn,” Smalls đề nghị. Ông có vóc người nhỏ bé, giống hệt như cái tên của mình, mảnh khảnh và sung sức, như thể ông từng dành thời gian đạp xe leo núi. Ông có mái tóc bạc, uốn quăn ngang cổ áo thun chơi golf, hàm răng bọc sứ trắng bóng với cặp mắt kính không gọng dùng xem ti vi trên đôi mắt xanh nhạt.
“Không sao, em ổn mà,” Whitehead nói. Cô thắt dây an toàn qua chiếc váy hai dây lộng lẫy, bộ váy có thể khiến cô bị bắt nếu diện nó bên ngoài phòng ngủ vào thời xưa. “Anh uống rượu rồi - chẳng may vì chuyện nào đó mà tụi mình bị chặn lại...”
“Được rồi,” Smalls nói.
Ông ngả ghế xuống thêm hai phân nữa, khoanh tay trên ngực rồi nhắm mắt lại.
TRÊN ĐẦU HỌ, nấp sau những tán cây, một người đàn ông đang theo dõi qua ống nhòm. Khi chiếc SUV bạc rời khỏi lối xe vào nhà, phóng qua hộp thư rồi rẽ trái vào con đường bẩn thỉu, hắn giơ chiếc điện đài lên ngang mặt và nói, “Anh sẽ về nhà ăn tối”.
Một chiếc điện đài, bởi nếu không phải đúng người đang ở trên đúng kênh này trong bán kính ba dặm vào đúng lúc đó, sẽ rất khó lần ra cuộc gọi; kể cả nếu NSA có bắt được nó. Cũng như không thể lần ra được năm tiếng chuông nhanh hắn nhận lại, báo hiệu có tin nhắn mới.
Hắn đi bộ, chiếc xe bán tải đỗ cách đó nửa dặm. Hắn bước vào đây từ con đường mòn do muông thú tạo nên rồi cũng đi ra bằng con đường ấy, di chuyển chậm rãi, cứ đi được ba mươi mét lại dừng để nhìn ngó và nghe ngóng. Khi theo dõi, hắn không bao giờ ngồi, chỉ đứng nguyên tại chỗ, bên cạnh lớp vỏ màu xám xương xẩu của cây tần bì già; chẳng có đài quan sát nào để ai đó lần ra hắn, không có mẩu đầu lọc thuốc lá hay giấy gói kẹo nào đánh rơi để từ đó truy ra ADN. Hắn đi đôi giày đế êm đã cũ mòn: không để lại dấu chân trên nền đất mềm.
Hắn là dân chuyên nghiệp.
THƯỢNG NGHỊ SỸ MỸ PORTER SMALLS sở hữu một cabin trên các ngọn đồi ở tây Virginia, cách Washington D.C. hai tiếng rưỡi chạy xe - vừa đủ gần cho một chuyến đi thoải mái, vừa đủ xa để che giấu những hoạt động cần sự kín đáo.
Ông cùng Whitehead, một trong những người bạn thân nhất của vợ ông - bà đang ở tận Minnesota - khóa cửa cabin rồi thẳng tiến về D.C. khi mặt trời thấp dần về phía đường chân trời vào buổi chiều Chủ nhật oi bức. Họ đã rất thận trọng chọn khoảng thời gian này: lợi dụng bóng tối đưa ông về tòa chung cư Watergate sang trọng của mình.
Smalls cùng Whitehead tận hưởng hai ngày nghỉ tràn trề sinh lực, trò chuyện về triết học chính trị, lịch sử, lũ ngựa, tiền bạc, cuộc sống và những người bạn chung trong khi cùng xem hết bản bìa mềm rách nát cuốn Thú vui tình dục từ những năm 80 của Smalls.
Smalls đã yên bề gia thất còn Whitehead vẫn độc thân, nhưng cô giành quyền lái xe vì thứ logic của Washington liên quan đến tình dục và rượu. Một vụ ngoại tình là chuyện không được cổ vũ tại Washington, nhưng chắc chắn sẽ không bị xử nặng theo luật hình sự như tội lái xe khi say xỉn. Qua đêm với đàn ông hoặc một phụ nữ nóng bỏng thì có khả năng - có thể - bạn sẽ phải chường mặt lên trang blog của tờ Washington Post. Nhưng chỉ có Chúa mới cứu được bạn khi Hội Bà mẹ phản đối lái xe khi say xỉn tấn công bạn đúng kỳ bầu cử.
Thế nên người lái là Whitehead.
Cô là người say mê chính trị và là nữ mạnh thường quân của đảng Cộng hòa. Ở tuổi năm mươi, Cecily Whitehead có dáng người mảnh mai, làn da rám nắng và tàn nhang, với mái tóc đen ngắn mà người ta khó lòng nhận ra là đã được nhuộm tinh tế. Chiếc cằm vuông khiến cô trông hơi giống Amelia Earhart. Và giống như Earhart, cô cũng có một chuyên cơ riêng, chiếc Beechcraft King Air hai động cơ. Cô sở hữu một căn biệt thự nhìn ra một trong nhiều mặt hồ tại Minneapolis, cùng một trang trại nuôi ngựa Tennessee rộng hai ngàn mẫu ở phía nam thành phố Đôi.
Bà xã của Smalls không chắc Whitehead có ngủ với chồng mình hay không, chủ đề này chưa bao giờ được xới lên. Suốt bốn năm qua, vợ của Smalls cũng đang ăn nem với tình nhân người Litva, trên căn gác lửng tại khu buôn bán kinh doanh Minneapolis, chủ đề này từng được bàn đi xới lại vô số lần.
Những người Litva vốn nổi tiếng tại Bắc u như những vận động viên tình dục. Smalls nhận thức được thực tế này nhưng ông không còn quan tâm chuyện vợ mình làm gì, miễn là bà ta không làm chuyện ấy trên phố. Thực ra ông hy vọng bà ta hạnh phúc, vì ông vẫn còn tình cảm với người mẹ của những đứa con ông. Ông tự nhủ lần tới khi đến thành phố Đôi, ông sẽ dẫn bà ta đi ăn tối.
“MƯỜI GIỜ SẼ ĐẾN NƠI,” Whitehead nói.
“Anh phải gặp thằng đần Clancy vào buổi trưa,” Smalls đáp, không buồn mở mắt ra.
“Đần nhưng kiên trì,” Whitehead nói. “Hắn nói với Perez rằng nếu Medtronic chốt được thương vụ VA, Abbott sẽ phải cắt giảm biên chế trong hạt của ông ta. Perez tin tưởng hắn. Chuyện này thậm chí có thể là thật.”
“Tiếc thật,” Smalls nói. “Chuyện cắt giảm sẽ không xảy ra đâu. Khi mà Porter Smalls biết rằng lãnh đạo phe đa số yêu quý của chúng ta có nghề đi đêm tại Rio Javelina.”
“Nếu nghe được anh nói thế, hắn sẽ kiếm cái gì đó thật sắc moi ruột anh ra đấy.”
Smalls mỉm cười. “Sao hả CeeCee... em không nghĩ rằng anh thực sự nói chuyện này cho hắn nghe đấy chứ?”
Whitehead siết chặt đầu gối ông. “Em hy vọng là không. Không, em không nghĩ anh làm thế. Sao anh có thể để hắn biết rằng anh biết chứ?”
“Kitten sẽ nghĩ ra đối sách,” Smalls nói.
Whitehead mỉm cười với bóng tối đang dần đen đặc, ánh đèn pha từ xe họ chiếu xuyên qua hàng cây hai bên đường. Kitten Carter, trợ lý của Smalls, sẽ nghĩ ra kế đối phó. Cô ta thường trò chuyện với Whitehead hai lần một tuần, họ cùng nhau bàn mưu tính kế mang lại vinh quang vĩ đại hơn cho nước Mỹ nói chung và cho Porter Smalls nói riêng.
Whitehead là người yêu yoga và thích đua ngựa vượt chướng ngại. Cô có một cơ thể khỏe khoắn, cặp giò và hai cánh tay rắn chắc, đặc biệt cô sở hữu đôi bàn tay to và khỏe hiếm thấy ở phụ nữ. Cô có thể điều khiển chiếc Escalade trên đường mòn nhanh hơn hầu hết những người khác, bắn tung bụi mù và sỏi đá lên bầu không khí buổi tối. Cô dành khá nhiều thời gian làm việc trên các cánh đồng, dùng xẻng hót phân ngựa rất gọn ghẽ, lái xe tải và máy kéo, không phải là lái cho vui mà cô hiểu rõ mình đang làm gì, luôn giữ các bánh xe bám chắc xuống hai vết hằn trên đường mòn.
Xuôi con sông được nửa dặm, con đường mòn cắt qua đường rải sỏi do bang quản lý. Chỉ cần liếc khẽ sang bên trái, cô liền đánh tay lái sang phải và nhấn ga.
VÀI PHÚT SAU, họ lên tới đỉnh đồi. Từ khoảng cách xa, Whitehead có thể nhìn thấy một dãy đèn trên con đường cao tốc sẽ đưa họ đến xa lộ liên bang dẫn vào Washington. Con sông vẫn uốn lượn dưới kia, dưới một con dốc dài - mười lăm mét cuối cùng để ngoặt vào con dốc đứng.
Một phút sau, Whitehead nói, “Khốn kiếp. Thằng ngu này chiếu đèn khắp người em”.
“Cái gì?” Smalls gần như tỉnh hẳn. Lúc này ông ngồi dậy, nhận thấy chiếc SUV ngập trong ánh đèn. Ông xoay người trên ghế. Một chiếc xe bán tải - ông nghĩ vậy, căn cứ theo chiều cao của các ngọn đèn pha - đang chạy phía sau hai người khoảng bốn hoặc sáu mét, khi họ đang đi trên đường rải sỏi với tốc độ năm mươi dặm trên giờ.
“Anh không thích điều này,” ông nói.
Trên đỉnh đồi, chiếc xe bán tải lấn sang làn đường bên trái rồi tăng tốc, Smalls nói, “Này, này!”.
Whitehead đạp mạnh chân ga, nhưng đã quá muộn. Quá muộn. Chiếc xe tải húc mạnh vào sườn chiếc Escalade hất nó văng khỏi mặt đường, bay qua những bụi rậm và hàng cây ven đường, qua con hào và lao xuống sườn đồi dốc đứng. Thay vì cố gắng điều khiển chiếc SUV quay ngang trên sườn đồi, để xe có thể lao sang hai bên, Whitehead ngoặt xuống dốc trong một giây, rồi nói bằng giọng sắc lạnh, “Bám chắc vào Porter, em sẽ cố gắng đâm vào một cái cây. Giơ hai tay lên tránh túi khí đập vào...”.
Smalls giơ hai cánh tay lên, chiếc SUV nẩy chồm chồm trên đồi, lao thẳng xuống con dốc dựng đứng bên dưới khi Whitehead đạp mạnh chân phanh. Thực sự Smalls không nghĩ ngợi gì, nhưng theo bản năng, ông biết họ chỉ còn vài giây để sống.
Họ cán qua một hàng cây non rồi đâm vào một cái cây đường kính chắc phải đến sáu phân, đốn cái cây đổ gục. Cú đâm khiến chiếc xe nghiêng sang bên trong khi vẫn rẽ đất lao về phía trước, lúc này Smalls cảm thấy Whitehead đã nhấn chân ga. Động cơ rít lên khi những chiếc lốp quá cỡ cố gắng bám chắc vào sườn đồi, và ông nhận ra cô đang rú lên với từng cú đâm: “A! A! A! A!...”.
Họ vẫn đang lao nghiêng xuống đồi, nhưng độ dốc đã giảm bớt. Họ đâm phải một cái cây nhỏ khác, chiếc xe dội lại chỉ để đâm tiếp vào một cái cây to hơn. Túi khí bung ra nhằm thẳng vào mặt Smalls, nhưng ông vẫn nhận thức được chiếc xe đang bắt đầu tiến đến con dốc đứng. Bỗng cửa xe bên ghế tài xế vỡ tan. Họ gần như đã dừng lại, cách mép con dốc đứng không quá chín mét, nhưng vẫn chưa hoàn toàn dừng hẳn, chiếc xe lùi thêm vài mét nữa rồi đâm sầm vào cái cây cuối cùng, khiến ghế hành khách bị bật lên. Chiếc Escalade chậm rãi, rất trang nghiêm lăn một vòng, lật ngửa ra rồi nằm im.
Đang treo ngược người trên đai an toàn, bị mù một phần do máu chảy vào hai mắt, Smalls không cảm thấy đau đớn - vẫn chưa có cảm giác đó, ông kêu lên, “Anh ngửi thấy mùi gas. Chúng ta phải ra khỏi đây ngay. Ra ngoài! Ra ngoài mau!”.
Ông nhìn sang Whitehead, cũng đang treo ngược người trên đai an toàn. Ngọn đèn trần xe đã bật sáng khi cửa kính bị văng ra. Đôi mắt cô mở to, nhưng trống rỗng, máu đang chảy từ một bên tai xuống tóc cô.
Ông gọi, “CeeCee, CeeCee,” nhưng không có tiếng trả lời. Máu vẫn đang chảy như mưa xuống mặt ông, vào mắt ông khi ông tháo dây an toàn và buông mình xuống bên trong trần xe. Ông mở cửa xe bên phía mình, đẩy nó hé ra vài phân, nhưng nó bị mắc kẹt vào một cây con. Ông phải đạp thêm vài cú nữa mới mở được cửa để chen ra ngoài.
Ngay khi ra được bên ngoài, ông lau sạch máu trên hai mắt, nhận ra máu thực chất đang chảy ra từ mũi ông. Khi đã hồi phục được thị giác, ông loạng choạng chạy đến phía sau chiếc SUV, mở tung cốp xe và thấy cái túi ngủ qua đêm bằng vải bạt. Ông rút ra khẩu súng ngắn 357 Magnum cất trong đó rồi nhét vào thắt lưng và nhìn lên đồi: chẳng thấy ai cả. Không thấy đèn pha, không thấy đèn hãm, chẳng thấy gì ngoài bóng tối đen đặc, những hàng cỏ dại cao đến đầu gối và những cành cây gãy, sự thinh lặng tự nhiên bị xé rách bởi rất nhiều những tiếng còi báo động phát ra từ chiếc Cadillac.
Ông lao bổ đến chỗ ghế lái, ráng hết sức mình nạy cửa ra càng rộng càng tốt, tháo đai an toàn cho Whitehead, để cô ngã vào vòng tay ông. Vất vả lắm ông mới bế được cô ra khỏi xe, mùi khí gas thúc giục ông gắng sức hơn nữa. Ra được ngoài rồi, ông nâng người cô dậy, bế cô sang bên kia đồi thêm khoảng mười lăm mét, rồi đặt cô xuống đám cỏ dại, quỳ xuống bên cạnh cô, và lắng nghe một lúc. Mùi hương trên người cô, mùi nước hoa Chanel số 5 và mùi nước giếng cô dùng để tắm khi nãy, tất cả trộn lẫn với một thứ mùi có chất đồng/như mùi thịt của máu tươi.
Ông lắng nghe nhưng chẳng thấy gì: chẳng có ai trên sườn đồi. Chiếc xe tải đâm vào họ đã biến mất.
Ông thì thầm, “CeeCee, CeeCee, em nghe anh nói không?”. Không có tiếng trả lời.
Ánh đèn pha vẫn đang chiếu sáng từ chiếc SUV, ông rút di động ra gọi đến văn phòng cảnh sát trưởng địa phương - số này nằm trong danh bạ của ông. Ông giới thiệu bản thân, kể cho nhân viên trực tổng đài chuyện đã xảy ra, rằng tai nạn này có thể là âm mưu tấn công có chủ ý.
Nhân viên trực nói rằng cảnh sát sẽ có mặt trong năm phút nữa. “Nhớ bật hết đèn hiệu lên nhé,” Smalls nói với anh ta. “Tôi sẽ không bước ra khỏi đám cỏ dại chừng nào biết rằng tôi gặp được đúng người. Chúng tôi cần một xe cứu thương, bạn tôi đang bị thương rất nặng.”
Bỏ điện thoại xuống, ông nâng Whitehead vào lòng mình. Ông nghĩ xe cứu thương sẽ chẳng đến kịp đâu; mà thực ra, với Cecily Whitehead, tất cả đã quá muộn rồi.
CẢNH SÁT ĐÃ ĐẾN, cùng với đó là xe cứu thương, và khi Smalls chắc chắn mình sẽ nói chuyện với ai, ông cất tiếng gọi họ từ nơi ẩn náu trong đám cỏ dại. Họ nhắc lại với ông những gì ông đã biết: Whitehead đã chết, vì vết thương chí mạng bên thái dương trái, có khả năng là một cành cây đâm xuyên qua cửa kính ghế tài xế.
Smalls lấy lại giấy tờ công vụ để trên xe Cadillac khi cảnh sát và nhân viên y tế mang Whitehead lên đỉnh đồi, trong chiếc túi nhựa đựng thi thể màu đen. Whitehead được đưa vào xe cứu thương, nhưng Smalls từ chối lên xe. “Chảy máu cam thôi, chẳng nghiêm trọng đâu. Cho tôi cái gì đó rửa mặt được rồi.”
Viên cảnh sát chỉ huy hỏi ai là người lái, Smalls đáp, “Là CeeCee”.
“Chúng tôi cần ngài thử nhanh máy đo nồng độ cồn,” viên cảnh sát nói.
“Được thôi,” Smalls đáp. “Trước khi rời cabin, tôi có uống một cốc rượu. CeeCee thì chẳng uống gì cả.”
Quá trình thử mất hai phút. Kết quả của Smalls là 0,02, thấp hơn nhiều giới hạn uống rượu khi lái xe là 0,08, cho dù Smalls là người nhiều tuổi hơn, và người già thường dễ say hơn thanh niên.
“Phải nhớ ghi chép lại tất cả đấy,” Smalls nói với viên cảnh sát. “Tôi muốn xác minh.”
“Xin ngài đừng lo,” viên cảnh sát đáp. “Chúng tôi sẽ gửi ngay cho ngài, Thượng nghị sĩ. Giờ thì... ngài có trông thấy chiếc xe tải nào không?”
Smalls lắc đầu. “Hắn có bật đèn pha cường độ cao, chiếu thẳng vào phía sau chiếc Caddy của chúng tôi nóng rực. Như thể bị lạc giữa quầng sáng vậy. Tôi chẳng thấy được gì hết... Thế rồi hắn đâm vào chúng tôi.”
Viên cảnh sát nhìn xuống đồi. “Cô ta lái xe đúng là có nghề đấy. Thêm sáu hoặc chín mét nữa thì ngài hẳn sẽ trượt khỏi mép và đâm xuống cái dải cuội kia, như thể ngài nhảy xuống từ tòa nhà năm tầng vậy. Ngay cả đứng từ đây tôi còn thấy hãi.”
CHIẾC XE CỨU THƯƠNG lên đường đến Trung tâm Y tế Winchester, Smalls ngồi trong xe cảnh sát bang. Cái chết của Whitehead được xác nhận, Smalls được điều trị thương tích trên mũi. Nó vẫn tiếp tục chảy máu, nhưng bác sĩ đã sử dụng một thứ gọi là hóa chất đốt trên mũi ông, giúp cầm máu ngay lập tức. Bác sĩ cho ông vài viên thuốc giảm đau. Smalls từ chối, “Tôi không cần đâu”.
“Chưa cần đấy thôi,” bác sĩ đáp. “Ngài sẽ cần.”
Khi ông ra ngoài, các cảnh sát kéo ông sang một bên để hỏi han thêm, dặn ông rằng chiếc Cadillac vẫn phải nằm lại chỗ cũ cho đến khi nhà điều tra tai nạn của bang có thể đến hiện trường.
Thẩm vấn xong xuôi, Smalls gọi cho trợ lý Kitten Carter, dặn cô ta thu xếp công việc đến bệnh viện đón mình. Cô ta nói mình sẽ thông báo cho bố mẹ của Whitehead về cái chết của con gái.
Chẳng còn việc gì để làm nữa, Smalls đề nghị được dẫn đến nhà nguyện của bệnh viện. Cảnh sát bỏ ông lại đó, và Smalls, một người theo Giáo hội Giám nhiệm, quỳ xuống và cầu nguyện cho vong linh của Cecily Whitehead. Kém độ lượng hơn một chút, ông không quên cầu xin Chúa tìm cho ra những kẻ đã giết chết nàng. Thế rồi ông khóc. Cuối cùng, một lúc sau ông gắng gượng đứng dậy, bắt đầu suy nghĩ nghiêm túc về vụ tai nạn này.
Chẳng có tai nạn nào cả.
Mà đó là mưu sát, và ông nghĩ mình biết kẻ nào đứng đằng sau âm mưu này. Nếu tòa án không lo được, công lý sẽ được thực thi bằng cách khác.
Ông nói thật to với Whitehead: “Anh xin thề, CeeCee, anh sẽ giết chúng. Anh sẽ giết hết từng tên một”.
Whitehead không thuộc tuýp người đặc biệt tinh tế, đặc biệt khoan dung: nếu cô ấy đang có một cuộc sống khác sau khi đã qua đời, ông chắc chắn cô ấy sẽ chờ được thấy màn báo thù - càng lạnh lẽo bao nhiêu, càng thỏa mãn bấy nhiêu.
KITTEN CARTER đến bệnh viện. Khi tới nơi cô ta gọi điện thoại suốt ba giờ đồng hồ. Các tin tức đầu tiên về vụ tai nạn sẽ được cô ta mớm cho cánh phóng viên chịu ơn mình, và những ai bày tỏ nhiều sự cảm thông nhất với các sự kiện diễn ra trong đêm.
“... những người bạn tốt và các đồng minh chính trị đã đến cabin này, soạn ra chiến dịch ứng phó với những cuộc đụng độ mùa hè liên quan đến các đề xuất chăm sóc sức khỏe...”
CẢNH SÁT ĐỊA PHƯƠNG đã bàn giao công tác điều tra vụ đâm xe cho cảnh sát bang West Virginia. Ngày thứ hai sau vụ tai nạn, một nhà điều tra đã thẩm vấn Smalls tại văn phòng Thượng nghị sĩ của ông, có sự tham gia của Carter. Với đôi mắt tím bầm và một cục băng trắng to oạch trên mũi, Smalls mặc bộ đồ vải sọc nhăn màu xanh, cà vạt dệt kim màu xanh hải quân, ngay lập tức nhận ra có chuyện không ổn.
Tên nhà điều tra là Carl Armstrong. Khi anh ta thẩm vấn xong, Smalls nói, “Đừng có lừa tôi, Carl. Có chuyện gì đó không đúng. Anh nghĩ tôi đang nói dối chuyện gì đó. Là gì thế?”.
Nhà điều tra đang ghi chép lên xấp giấy vàng trong một hồ sơ bìa da. Thở dài một hơi, anh ta đóng hồ sơ lại rồi đáp, “Phòng thí nghiệm của chúng tôi đang xem xét chiếc xe của ngài từng phân một, thưa ngài. Không có dấu hiệu nào cho thấy xe ngài bị một xe tải khác đâm vào”.
Ngồi trên ghế bành, Carter đang làm trái luật khi hút điếu xì gà nâu nhỏ. Cô ta nhìn Smalls, sau đó cau mày với Armstrong rồi nói, “Sai rồi. Những tên kia đã đâm vào xe họ - hất xe họ văng khỏi đường. Ý anh ‘không có dấu hiệu’ là sao?”.
Smalls chen vào. “Chính xác là thế đấy. Cú đâm khiến cửa xe bẹp dúm... chắc phải có dấu hiệu nào đó chứ. Ý tôi là nhiều năm trước tôi từng gặp phải một tai nạn tồi tệ, cả hai xe đều bị thiệt hại nặng. Lần này còn tệ hơn. Cú đâm này còn kinh khủng hơn. Anh nói không có dấu hiệu gì là thế nào?”
“Không có vết xước kim loại, không có vết sơn, không có vết đâm sượt qua. Thứ duy nhất chúng tôi tìm thấy là những dấu hiệu trên cả hai bên sườn xe, lưới tản nhiệt và mui xe cho thấy xe đã đâm phải mấy cái cây,” Armstrong đáp.
“Thế thì xem cho kỹ nữa đi,” Smalls ngắt lời. “Thằng khốn đó đâm thẳng vào chúng tôi và giết chết CeeCee, suýt giết luôn cả tôi nữa đấy.”
Armstrong nhìn sang chỗ khác và nhún vai. “Chà, tôi đang tự hỏi liệu có đúng hắn ta đâm phải ngài hay không, hay có thể nguyên nhân chỉ là do cô Whitehead mất kiểm soát?”
“Cô ấy không uống rượu...”
Armstrong ra hiệu ngắt lời. “Chúng tôi biết điều đó. Trong máu cô ấy không hề có cồn, và chúng tôi biết cô ấy lái xe bởi vì máu phía ghế tài xế trong buồng lái và trên túi khí đúng là của cô ấy. Chúng tôi không nghi ngờ bất kỳ điều gì ngài nói với chúng tôi, ngoại trừ chính cú đâm đó.”
Carter nói: “Thượng nghị sĩ Smalls đã nộp bản tường trình viết tay có nêu rõ lực đâm rồi”.
“Có một bờ đất rải sỏi thấp nơi xe họ bị lật nghiêng - chúng tôi đang tự hỏi phải chăng cô Whitehead có thể đã đâm thật mạnh vào nó, nhưng ngài Thượng nghị sĩ lại hiểu nhầm rằng đó là do cú đâm của xe tải.”
Smalls liên tục lắc đầu. “Không. Tôi nghe thấy tiếng xe tải đâm. Tôi nhìn thấy nó đâm vào cơ mà - khi đó tôi đang nhìn ra ngoài qua cửa kính bên ghế lái.”
“Không có vết sơn từ chiếc xe khác, không có dấu vết kim loại, không có mảnh kính vỡ trên mặt đường... chẳng có gì hết,” Armstrong nhắc lại.
Carter nói với Smalls. “Thượng nghị sĩ, có thể chúng ta nên gọi đội khám nghiệm hiện trường của FBI lên đó...”
Smalls đặt một ngón tay lên môi, ra hiệu bảo cô ta im lặng. Ông đứng dậy rồi nói, “Carl, tôi sẽ đề nghị một người khác nói chuyện với anh về bằng chứng, nếu anh không phiền. Kitten và tôi không rành về mấy thứ này, nhưng tôi cho rằng sẽ là một ý hay nếu chúng tôi cử thêm một người nữa giám sát toàn bộ việc này”.
Armstrong từng có vài lần đối phó với các chính trị gia, đối với anh ta Smalls là một trong số những người hiểu chuyện hơn cả. Không quát tháo, không buộc tội. Thở một hơi dài nhẹ nhõm, anh ta nói, “Thượng nghị sĩ... bất kể điều gì nếu chúng tôi làm được, chúng tôi sẽ rất vui vẻ làm. Chúng tôi muốn hiểu rõ chuyện gì đã xảy ra. Hãy cử người của ngài đến lúc nào cũng được. Có thể chúng tôi sẽ hợp tác với anh ta hơn cả những gì anh ta muốn.”
“Tuyệt lắm,” Smalls đáp, chìa tay ra. “Tôi sẽ gửi thư lên cấp trên của anh, cảm ơn anh vì đã giúp.”
“Cảm ơn ngài,” Armstrong nói khi họ bắt tay nhau. “Tôi thực sự biết ơn, thưa ngài.”
ARSMTRONG ĐI RỒI, Carter hỏi, “Tại sao ngài tử tế với hắn quá vậy? Hắn có tin tưởng ngài đâu. Ý tôi là, lạy Chúa, kẻ nào đó đã giết chết CeeCee và suýt giết cả ngài. Nếu ngài để mặc thì mọi chuyện có thể sẽ bị chôn vùi...”.
“Không, không, không...” Smalls đứng dậy. Ông sờ tay lên mũi, lấy ra một lọ thuốc giảm đau, lắc mạnh như thể nó là cái chùy lắc, rồi lại đặt xuống; không còn nhiều thuốc nữa, sáng hôm nay ông đã uống một viên rồi. Mũi ông vẫn rát như phải bỏng vì thuốc đốt mô da. Bác sĩ đã đúng về chuyện cần phải dùng thuốc, không phải do tổn thương cơ học mà là do vùng mô bị đốt. Ông bước đến bên bức tường trưng bày chiến lợi phẩm treo đầy các tấm bảng đồng và bản đồ chỉ đường đến các thành phố tại bang Minnesota, những bức ảnh chụp ông cùng các tổng thống, thống đốc, các Thượng nghị sĩ khác và nhiều người giàu có đủ loại, gồm cả Whitehead, lẫn các ngôi sao điện ảnh có quan điểm bảo thủ về chính trị.
Ông đang suy nghĩ về chuyện đó.
Carter không nói thêm câu nào nữa. Một lúc sau, Smalls đưa tay lên nghịch nghịch dái tai, mắt nhìn chằm chằm các bức ảnh và nói, “Điều Armstrong đã nói... khiến tôi ngạc nhiên. Không có bằng chứng. Nhưng tôi không kinh ngạc. Còn nhớ khi tôi kể cho cô nghe việc đầu tiên tôi làm là lấy súng ra, vì tôi nghĩ những kẻ đâm chúng tôi có thể là bọn giết thuê không? Bọn sát thủ? Dân chuyên nghiệp?”.
“Có, nhưng tôi không...”
“Tôi đã đúng. Là chúng đấy,” Smalls nói. “Tôi không biết chúng làm chuyện này như thế nào, nhưng tôi chắc chắn nếu tìm được nhà điều tra biết tìm đúng chỗ, anh ta có thể tìm ra người có thể giải thích chuyện này. Chúng ta phải làm được, bởi vì...”
“Chúng có thể quay lại giết ngài lần nữa,” Carter nói nốt.
“Đúng. Có thể chưa phải ngay lập tức, nhưng chỉ là sớm hay muộn thôi.” Smalls quay lại, đến gần chiếc bàn làm việc ngoại cỡ, ấn một nút trên hệ thống điện thoại nội bộ. “Sally... nối máy với Lucas Davenport cho tôi. Số của anh ta có trong danh bạ của cô.”
“Đó là người mà...” Carter bắt đầu.
“Đúng vậy,” Smalls nói. “Là anh ta đấy.”