Thể Phách nằm phía trong hai lớp Vía, liền sát với thân xác. Độ dày của thể Phách tính từ thân xác ra khoảng 5 hoặc 6 cm. Những người có khả năng thấu thị sẽ nhìn thấy nó có màu xanh nước biển sẫm, phát quang, bồng bềnh như làn khói lam. Có lẽ vì thế mà nhiều học giả châu Âu có khả năng thấu thị đã lầm tưởng lớp Phách này là chất khí ête. Cho đến nay trong các ngôn ngữ ở châu Âu người ta đều dùng từ cơ thể ête (etheric body) để chỉ thể Phách. Thực ra nguyên tử tạo ra thể Phách không phải là ête, mà là nguyên tử đồng nhất với tầng vật chất Bồ đề trong Vũ trụ. Kích thước hạt nguyên tử thể Phách này là 117.649 ak. Thể Phách hoàn toàn không phải khí ête. Thể Phách là một trường năng lượng sinh học trong đó có các hạt vật chất siêu mịn, luôn thu hút năng lượng Vũ trụ là Prana tự do và các sinh khí cầu đến quanh thân xác, sau đó thể Phách sẽ thu những năng lượng Vũ trụ này vào hệ thống luân xa của mình rồi đồng hóa chúng thành bảy dòng năng lượng, đem cung cấp cho bảy lớp cơ thể của con người. Như vậy, về chức năng, thể Phách như một “bộ sạc ắc-quy”, sạc năng lượng (các sinh khí cầu) từ các cõi Hạ giới, Bồ đề và chủ yếu là từ cõi Trung giới vào hệ thống luân xa. Sau đó hệ thống luân xa sẽ phân tách nguồn năng lượng Tiên thiên này thành bảy dòng năng lượng đặc thù, cung cấp cho bảy lớp cơ thể. Thể Phách chính là “bloc năng lượng” của con người. Nó vừa cung cấp năng lượng để nuôi dưỡng từ trường các lớp cơ thể, vừa là “tầng khí quyển” bảo vệ thân xác.
Thể Phách không phải là “etheric body”, tôi cho rằng, nên dùng thuật ngữ “energetic body” mới phải. Thể Phách tương ứng với tầng vật chất Bồ đề trong Vũ trụ. Từ lớp cơ thể này trở đi, đến các cơ thể khác của con người, như hai thể Vía, ba thể Tâm linh, ta sẽ không thể cảm nhận được bằng mắt, hay bằng các giác quan thể xác khác. Vật chất từ tầng này trở lên đã chuyển sang dạng vật chất siêu hình (trường sóng hạt), không thể nhìn thấy bằng mắt thường được. Đó là những khối từ trường sóng hạt, mang đầy những hạt nguyên tử vừa là vật chất, vừa là năng lượng, sống động nhưng lại có thể hàm chứa và truyền tải những giá trị thông tin, tồn tại và di chuyển theo dạng sóng với đủ các kiểu tần số khác biệt. Thể Phách cũng như các lớp cơ thể siêu hình khác của chúng ta là những trường vật chất như vậy.
Nếu nhìn bằng “thần nhãn”, thể Phách là một mạng lưới dày đặc, tầng tầng, lớp lớp các nguyên tử của tầng Bồ đề. Mỗi hạt nguyên tử của thể Phách có tới 117.649 hạt Tiên thiên khí kết lại thành một quả cầu trong suốt, rỗng ở giữa. Các hạt nguyên tử này có từ trường rất mạnh nên chúng vừa có thể thu hút các Prana tự do, các sinh khí cầu, vừa có thể đồng hóa sinh khí cầu thành các dòng năng lượng khác nhau, vừa có thể lưu giữ năng lượng như các bình ắc quy. Các hạt nguyên tử đặc biệt này của thể Phách khi được kết hợp với nhau theo các chiều khác nhau sẽ tạo ra các bộ phận có những chức năng khác nhau như đã nói trên. Mạng lưới dày đặc các hạt nguyên tử đặc trưng này của thể Phách, với một tần số dao động đặc thù, sẽ tạo ra một sức hút siêu việt, chuyên thu hút các hạt sinh khí cầu mang đầy năng lượng Prana đến với thể Phách. Các hạt sinh khí cầu này khi đến sát thể Phách sẽ bị hút vào hệ thống luân xa. Luân xa là một hệ thống gồm bảy trung tâm từ lực, các trung tâm từ lực này luôn quay tít, tạo ra các “lỗ xoáy” thu hút năng lượng. Hệ thống luân xa nằm dọc theo phía bên trên xương sống. Nên nhớ rằng hệ thống luân xa thuộc thể Phách, chứ không phải thuộc thể Xác, như nhiều người lầm tưởng. Luân xa không nằm ngay tại trục xương sống mà nằm ở thể Phách, theo chiều dọc của xương sống, nhưng cách trục xương sống khoảng 3 - 4 cm về phía trước (phía ngực - bụng). Sau khi bị lôi cuốn đến hệ thống luân xa, sinh khí cầu sẽ không bị thu hút vào cả bảy luân xa. Chỉ có luân xa số 3 cách phía trên rốn khoảng 3 cm mới hút các sinh khí cầu này vào. Luân xa số 3 này như một máy ly tâm, sẽ tách các hạt sinh khí cầu, đồng hóa chúng thành bảy dòng năng lượng khác nhau, sau đó các dòng sinh lực này sẽ được chuyển đến các luân xa thích hợp để cung cấp năng lượng cho các cơ quan của thể Xác, thể Vía và thể Tâm linh. Như vậy, thể Phách đảm trách nhiệm vụ chính là thu hút, chuẩn bị và cung cấp bảy loại năng lượng khác nhau cho bảy lớp cơ thể. Việc thu hút Prana và các sinh khí cầu đến là nhờ từ lực của thể Phách. Việc phân tách các sinh khí cầu thành các dòng năng lượng khác nhau lại do hệ thống luân xa thuộc thể Phách thực hiện.
1
HỆ THỐNG LUÂN XA CỦA THỂ PHÁCH
Hệ thống luân xa là một hệ thống điều tiết, kiểm soát và cung cấp năng lượng Tiên thiên cho bảy lớp cơ thể của con người. Hệ thống này bao gồm bảy luân xa (Chakra). Đó là các trung tâm từ lực, đồng thời cũng là các điểm giao thoa năng lượng Tiên thiên giữa các cơ thể: thể Xác, Phách, Vía và Tâm linh. Những người luyện Raja yoga lâu năm, đã khai mở được luân xa 5 và 6, hoặc bẩm sinh có thần nhãn đều nhìn thấy các luân xa, trông rất giống những bánh xe hay các cánh quạt luôn quay tít. Tốc độ quay của các bánh xe rất khác nhau, cái nhanh, cái chậm. Các luân xa này cũng có nhiều màu, từ đỏ, vàng đến xanh ánh thép. Nếu nhìn nghiêng từ phía hai bên sườn cơ thể, ta thấy các luân xa có màu xanh, vàng, hoặc đỏ xuyên suốt từ ngực sang phía lưng. Riêng luân xa 1 ở đốt xương cụt và luân xa 6 ở huyệt Bách hội trên đỉnh đầu lại có hình phễu, cái quay xuống dưới, cái quay lên trên và màu của hai luân xa này là màu đỏ ánh vàng, chứ không phải màu xanh ánh thép như các luân xa khác. Tại bảy luân xa này, bốn lớp cơ thể của con người là thể Xác, Phách, Vía, Hồn (Tâm linh) có thể nối liên thông với nhau và trao đổi năng lượng với nhau. Nguồn năng lượng trao đổi qua các luân xa này là năng lượng Tiên thiên (năng lượng sóng hạt Prana) chứ không phải năng lượng Hậu thiên (calo).
Vị trí của bảy luân xa bố trí như sau (nên nhớ, vị trí của các luân xa nói dưới đây nằm trên thể Phách chứ không nằm trên thể Xác, nhưng thể Phách siêu hình, không mấy người thấy được, nên phải mô tả qua vị trí của thể xác, cho dễ hình dung):
- Luân xa 1 nằm tại vùng đốt xương cụt cuối cùng, ở khoảng giữa hai huyệt Trường cường và Hội âm. Luân xa 1 có màu đỏ ánh vàng, đường sức của nó phóng tỏa ra như cái phễu, quay miệng xuống dưới, trông như nối với các đường sức của từ trường thể Vía Thiên thể (Vía Cảm xúc).
- Luân xa 2 nằm tại vùng thẳng ngang với cơ quan sinh dục, và có màu xanh lục.
- Luân xa 3 nằm ở vùng phía trên rốn khoảng 4 cm, tương ứng với vị trí huyệt Mệnh môn hỏa (tại điểm giao cắt giữa đường nối hai tuyến thượng thận với cột sống) và có màu đỏ hồng.
- Luân xa 4 nằm ở điểm giao nhau giữa đường nối hai đầu vú cắt với đường cột sống. Luân xa này màu vàng sáng.
- Luân xa 5 có màu xanh lục, nằm tại điểm hõm của yết hầu thẳng ra.
- Luân xa 6 nằm đúng tại huyệt Ấn đường, tại điểm giao cắt của sống mũi với đường ngang trên đỉnh hai lông mày, tại chỗ xương trán hơi lõm xuống. Nó có màu vàng ánh kim (lấp lánh).
- Luân xa 7 này nằm tại vùng huyệt Bách hội, hình cái phễu hai tầng, quay miệng lên phía trên đỉnh đầu, có màu tím đỏ ánh vàng.
Như đã nói ở phần năng lượng Vũ trụ bên trên, trong Vũ trụ tồn tại bảy tầng vật chất. Các nguyên tử sinh bào tự do của bảy tầng vật chất ấy khi bay trong Vũ trụ, gặp các hạt Prana tự do, liền kết hợp với nhau thành các hạt nguyên tử chứa năng lượng, gọi là nguyên tử sinh cầu. Khi bảy nguyên tử năng lượng này gặp nhau, chúng liền bắt chặt lấy nhau tạo ra một quả cầu năng lượng, gọi là sinh khí cầu. Khi thể Phách thu hút các sinh khí cầu đến quanh cơ thể của mình, các sinh khí cầu này lập tức bị thu hút vào luân xa 3. Luân xa 3 sẽ như một máy ly tâm phân tách các sinh khí cầu này thành bảy dòng năng lượng khác nhau với các loại màu sắc là xanh lục, tím, xanh lá cây, vàng, đỏ sẫm, da cam và hồng nhạt. Bảy dòng sinh lực Tiên thiên này từ luân xa 3 sẽ chạy đến các luân xa khác và được dẫn đi nuôi dưỡng các bộ phận của thể Xác, Phách, Vía và Tâm linh.
Cụ thể là, tại luân xa 3, sau khi bảy dòng sinh lực đã được tách ra, sẽ được phân bổ đi nuôi các lớp cơ thể như sau:
* Hai dòng sinh lực màu da cam và đỏ sẫm sẽ nhập vào làm một, chạy từ luân xa 3 xuống luân xa 1. Chúng có nhiệm vụ bổ sung năng lượng cho “kho phụ” chứa năng lượng Tiên thiên khí tại vùng tam giác xương cụt (Kundalini), đồng thời cung cấp sinh lực, năng lượng Tiên thiên cho cơ quan sinh dục, cung cấp nhiệt năng cho máu huyết, đảm bảo duy trì thân nhiệt cho cơ thể con người.
* Dòng sinh lực màu xanh lá cây từ luân xa 3 sẽ chạy vào luân xa 2 và 3 để nuôi dưỡng toàn bộ các từ trường sinh học cục bộ của các cơ quan tại khoang bụng như gan, tụy, thận, bàng quang, dạ dày, đại tràng, ruột già, ruột non v.v. và bổ sung năng lượng cho “kho chính” chứa năng lượng Tiên thiên tại Đan điền (vùng xung quanh huyệt Mệnh môn hỏa dưới rốn 3 - 4 cm).
* Luồng sinh lực màu vàng sẽ chạy lên luân xa 4 (vùng xương ức, giữa hai núm vú), để nuôi dưỡng từ trường tim, nạp năng lượng vào nút xoang nhĩ bao quanh cuống tĩnh mạch chủ và nút xoang thất ở giữa vách tâm thất. Hai nút xoang nhĩ và nút xoang thất như hai tụ điện của “máy bơm” máu sẽ phóng điện lệch pha nhau tạo ra sức co, bóp của thời Tâm trương hút máu đen về và thời Tâm thu đẩy máu đỏ đi nuôi dưỡng cơ thể. Đồng thời nguồn năng lượng này còn cung cấp năng lượng cho máu huyết để duy trì thân nhiệt. Sau khi đã nuôi dưỡng các cơ quan thể xác, một phần lớn năng lượng Tiên thiên màu vàng sẽ bỏ qua luân xa 4, chạy thẳng lên luân xa 7, mang năng lượng sang nuôi dưỡng thể Vía.
* Hai luồng sinh lực màu tím và xanh lục sẽ nhập vào với nhau chạy lên luân xa 5. Một phần năng lượng màu xanh lục sẽ ở lại luân xa 5 nuôi dưỡng trường sinh học của một loạt các tuyến nội tiết thuộc tuyến giáp và yết hầu. Còn phần năng lượng chính màu tím sẽ bỏ qua luân xa 5, chạy thẳng lên luân xa 6 và luân xa 7 nuôi dưỡng trường sinh học của não bộ và thông qua điểm giao thoa ở huyệt Bách hội sẽ chuyển sang thể Tâm linh nuôi dưỡng thể Tuệ tâm, Thiện tâm và Trân tâm. Chính hai dòng sinh lực màu lục sẫm và tím này là nguồn năng lượng chính làm cho thể Tâm linh phát triển. Nếu hai dòng sinh lực này dồi dào, Tâm linh sẽ có thể phát tuệ, khai tâm và hòa nhập được vào với Niết bàn.
* Luồng sinh lực thứ bảy có màu hồng sẽ từ luân xa 3 chạy qua huyệt Mệnh môn hỏa (dưới rốn 3 cm) để vào tủy sống, nuôi dưỡng trường sinh học của tủy sống cùng toàn bộ hệ thống mạng lưới các dây thần kinh trong cơ thể, giúp hệ thống truyền dẫn các tín hiệu thần kinh thêm nhạy cảm với những tín hiệu được truyền dẫn lưu loát và mau lẹ.
Sau khi luân xa 3 đồng hóa các sinh khí cầu, tách chúng ra thành bảy dòng năng lượng đem đi nuôi dưỡng bảy cơ thể, các nguyên tử sinh bào đã bị thu hết sinh lực Prana sẽ bị thải ra ngoài qua mấy đường sau: Qua hệ bài tiết của da, qua thể Phách (qua luân xa 1 - huyệt Trường cường và luân xa 7 - huyệt Bách hội trên đỉnh đầu). Sau khi bị đẩy ra ngoài cơ thể, các nguyên tử bị thải này sẽ biến thành các ion tự do. Chúng có thể tiếp tục kết hợp với các Prana tự do khác, để lại trở thành sinh khí cầu, hoặc chúng có thể kết hợp với các ion khác để tạo ra vật chất mới. Vì thế, nếu cơ thể càng thu được nhiều các sinh khí cầu thì sẽ càng tràn đầy sức sống.
Sau ba mươi tuổi, thể Phách sẽ không thể tự thu được sinh khí cầu nữa. Nếu biết kỹ thuật thu sinh khí, con người vẫn có thể tự thu các sinh khí cầu để gia tăng sức khỏe và tuổi thọ. Các hành giả yoga đã tìm được phương pháp dùng phổi để thu sinh khí cầu thay cho thể Phách đã suy yếu. Sau đó dẫn dòng sinh khí cầu này vào luân xa 3 để tách thành bảy dòng năng lượng nuôi toàn bộ bảy lớp cơ thể. Môn yoga thu sinh lực này được gọi là Pranayama. Vì thế nếu biết cách tập Pranayama thì ngoài ba mươi tuổi hoặc khi đã về già vẫn có thể gia tăng tuổi thọ và sức khỏe của mình. Những người biết kỹ thuật thu khí sẽ trẻ lâu, ít bệnh tật và đương nhiên sẽ sống lâu hơn. Ở những con người như vậy, hào quang thể Vía của họ phát ra rất mạnh mẽ, rực rỡ và tươi tắn. Khi ở bên những con người này, những người ốm yếu sẽ cảm thấy khỏe hẳn lên, còn những người bệnh sẽ cảm thấy bệnh tật tự lui dần một cách rõ rệt.
2
CẤU TẠO VÀ CHỨC NĂNG HOẠT ĐỘNG CỦA BẢY LUÂN XA
Ngoài chức năng cung cấp năng lượng cho bảy lớp cơ thể của con người, hệ thống luân xa còn có những chức năng và vai trò hết sức đặc biệt. Vì biết được những điều bí mật của hệ thống luân xa, các hành giả yoga từ xa xưa đã tìm được những phương pháp luyện tập, để khai mở bảy luân xa này, giúp những người tập luyện có thể trở thành siêu phàm với những khả năng mà những người thường không thể có được.
Khi khai mở được một trong các luân xa, tùy vào công phu luyện tập của mỗi người mà người tập luyện đã có thể có một trong những năng lực siêu phàm như khinh thân, tức là cất mình, bay lên khỏi mặt đất, hay có thể “nghe, hoặc nhìn” thấy người và vật ở cõi khác, hoặc có thể tiên đoán trước các sự kiện, có thể nhịn ăn, nhịn uống, thậm chí nhịn thở trong một khoảng thời gian nào đó v.v.
Dù không tập luyện, không có mục đích để trở thành siêu nhân, nhưng nếu có hiểu biết về hệ thống luân xa này, cũng rất có lợi cho việc rèn luyện và giữ gìn sức khỏe bằng những sinh hoạt đúng đắn, hợp lý không phản khoa học hàng ngày.
Dưới đây là những hình vẽ minh họa về hệ thống luân xa trong tương quan với thể xác con người, cho bạn đọc dễ hiểu và dễ hình dung. Các luân xa sẽ không cố định, không đứng yên một chỗ như hình vẽ. Các luân xa luôn quay tít, mỗi cái sẽ quay với tốc độ khác nhau, trông như các cánh quạt máy đang chạy. Bạn đọc phải vừa nhìn hình vẽ vừa tưởng tượng, sẽ hiểu rõ hơn về luân xa. Khi hiểu rõ rồi, bạn sẽ phân biệt được những ý kiến đúng sai. Nếu bạn luyện tập nhưng lại hiểu sai về luân xa thì sẽ cực kỳ nguy hiểm. Nếu tập không đúng, quanh năm nếu không đau yếu thì cũng lẩn thẩn, do tẩu hỏa (mất năng lượng) nhập ma. Để không bị tẩu hỏa nhập ma cần phải nhớ kỹ những đặc điểm sau của hệ thống luân xa.
Hệ thống luân xa chỉ có luân xa 3 là thu năng lượng Prana và các sinh khí cầu, rồi phân tách chúng để tạo ra bảy dòng năng lượng đặc thù cho các lớp cơ thể.
Luân xa 1 nằm dưới vùng xương cụt và luân xa 7 trên đỉnh đầu chỉ tự động cập nhật các dòng năng lượng đặc thù để nuôi dưỡng những lớp cơ thể do mình đảm trách từ khi mới ra đời đến khoảng ba mươi tuổi. Ngoài những lúc truyền tải những dòng năng lượng này, luân xa 1 và luân xa 7 làm nhiệm vụ chính là phóng thải ra ngoài cơ thể những “xác” sinh khí cầu đã bị thu hết sinh khí Prana. Do đó, khi tập khí công hay thiền định để thu sinh khí, tuyệt đối không quán tưởng vào các luân xa này. Nếu quán tưởng vào hai luân xa này thì không những không thu được năng lượng, mà còn mất hết năng lượng có sẵn ở Đan điền, vì khi tập trung ý nghĩ vào các luân xa này, năng lượng Tiên thiên từ Đan điền sẽ chạy xuống luân xa 1 và chạy lên luân xa 7 và sẽ bị đẩy ra ngoài cùng xác của các nguyên tử sinh bào, người tập sẽ bị “tẩu hỏa” là vì vậy.
Luân xa nhìn theo chiều trực diện cơ thể
Luân xa nhìn từ cạnh bên cơ thể
Xin nhắc lại một lần nữa, hệ thống luân xa thuộc thể Phách và nằm trên thể Phách. Các hình vẽ và mô tả ở đây thể hiện hệ thống luân xa qua thân xác cho dễ hình dung mà thôi, chứ luân xa không nằm trên thân xác.
Luân xa 1
Luân xa này nằm tại vùng cạnh đốt xương cụt cuối cùng, vùng giữa huyệt Trường cường và huyệt Hội âm. Trông nó như một cái chao đèn hình phễu úp ngược. Khi quay, trông nó như cái quạt máy có bốn cánh màu đỏ ánh vàng. Đây chính là kho dự trữ chứa năng lượng Tiên thiên dự phòng, bảo đảm an toàn cho sự sống của thể xác. Các hành giả yoga gọi đây là “tổ của hai con rắn lửa Kundalini” luôn nằm cuộn tròn ở đó. Khi hai “con rắn” đỏ rực này (hai dòng năng lượng Tiên thiên) được những người tập luyện yoga “đánh thức”, chúng sẽ bắt đầu bò ngược lên phía trên. “Hai con rắn lửa” này đến được luân xa nào, những người luyện tập yoga sẽ có được những phép lạ đến đó. Ví dụ, nếu chúng bò đến luân xa 3, hành giả yoga sẽ bắt đầu có khả năng khinh thân. Nghĩa là cơ thể họ có khả năng giảm dần trọng lượng và triệt tiêu trọng lượng trong một khoảng thời gian nhất định (không chịu tác động của lực hút Trái đất). Cơ thể họ có thể bồng bềnh bay lơ lửng trong không trung. Khi “đôi rắn” bò đến luân xa 4, 5, những người luyện pháp môn yoga Pranayama bắt đầu có thể nghe thấy những tiếng vọng thanh, hoặc những hình ảnh từ các cõi giới khác. Càng tập chăm, những hình ảnh và âm thanh ấy càng rõ nét dần. Lúc này những người tu tập bắt đầu đắc đạo. Họ bắt đầu có thần nhãn và các khả năng phi phàm khác. Họ có thể nghe và thấy những điều mà người thường không thể thấy. Thực ra hai “con rắn lửa” chính là hai luồng năng lượng Tiên thiên luôn thường trực tại “kho năng lượng phụ” này. Bình thường hai nguồn năng lượng này chỉ dự phòng để cấp cứu khi thân xác nguy kịch. Nhưng nếu hiểu biết về nó, biết tập luyện thì khi nguồn năng lượng này được nạp đầy căng Prana, chúng sẽ bắt đầu phát xuất, tiến dần lên phía trên, bò dọc theo từ trường của tủy sống. Khi qua mỗi luân xa, chúng sẽ đan chéo nhau trông như hai con rắn lửa đang bò. Khi hai luồng năng lượng này đi đến luân xa nào, chúng sẽ làm khai mở luân xa ấy, giúp cho người luyện tập có những quyền năng đặc biệt, khác thường như đã nêu ở những phần trên. Tóm lại tại luân xa 1 sẽ thu hút hai dòng sinh lực màu đỏ và da cam để nuôi dưỡng cơ quan sinh dục và bổ sung năng lượng cho kho Tiên thiên khí dự phòng ở vùng giữa xương cụt và huyệt Hội âm.
Quá trình khai mở 7 luân xa
Luân xa 2
Luân xa này nằm ở vị trí ngang với cơ quan sinh dục. Nó quay nhanh hơn luân xa 1 đôi chút. Khi quay, trông nó như chiếc quạt máy nhỏ có sáu cánh, màu xanh lục.
Luân xa 2 thu luồng sinh lực màu xanh lá cây phát ra từ luân xa 3 dẫn vào qua luân xa 2 nuôi các cơ quan thuộc hệ tiêu hóa trong khoang bụng và thận. Khi thực hành thiền, hoặc luyện tập yoga hay luyện khí công, không nên quá tập trung tư tưởng vào luân xa này, trừ những người bị bệnh liệt dương, yếu sinh lý. Nếu tập trung ý nghĩ, tư tưởng vào đây, năng lượng Tiên thiên sẽ được dồn đến, người tập dễ trở thành kẻ dâm đãng, thậm chí là cuồng dâm. Ngoài ra điều này còn ảnh hưởng xấu đến não bộ. Khi hai luồng sinh lực đỏ và da cam chạy đến luân xa 1, sau khi cung cấp đủ cho khu vực này, phần năng lượng còn lại sẽ không lưu ở đây, mà lập tức quay lại, chạy thẳng lên não bộ, một phần năng lượng màu đỏ ở lại đây nuôi dưỡng trung khu thần kinh, còn phần năng lượng màu vàng sẽ chạy qua huyệt Bách hội đi nuôi dưỡng các thể Tâm linh, làm cho trí lực, khả năng tư duy của người tập rất phát triển. Nhưng nếu người luyện tập lại chú tâm vào luân xa 2 và bộ phận sinh dục, nguồn năng lượng đỏ và da cam này sẽ không lên não nữa, mà đổ dồn về cơ quan sinh dục ở vùng luân xa 2, khiến cơ quan này quá phát triển. Vì vậy, trừ những người bị liệt dương hoặc lãnh cảm, những người bình thường không nên quá tập trung tư tưởng vào luân xa 2 này trong quá trình luyện tập yoga hay khí công, hoặc thiền. Tránh cho nguồn năng lượng quý giá kia tập trung hết tại cơ quan sinh dục, không còn dư để lên não bộ, khiến tình dục phát mạnh, thậm chí thành bệnh hoạn và trí tuệ sẽ trì trệ dần. Thành thử các thiền sư mới nghĩ ra cách ngồi kiết già, hoặc bán già, dùng hai bàn chân, hoặc một bàn chân đè chặt ở bẹn, chặn các mạch máu, hạn chế sự trao đổi chất của cơ quan sinh dục, làm giảm và triệt tiêu dần dục vọng, dục tình. Khi luồng sinh lực màu đỏ và da cam chạy đến đây, nếu cơ quan sinh dục không có nhu cầu sử dụng, luồng sinh lực này sẽ lập tức quay lại, chạy ngược lên não bộ, chuyển sang thể tâm linh nuôi dưỡng các lớp: Tuệ tâm, Thiện tâm, giúp con người trở nên uyên bác, thông tuệ.
Luân xa 3
Luân xa 3 nằm ở vùng phía dưới rốn khoảng 4 cm, thẳng với huyệt Mệnh môn hỏa (điểm giao cắt giữa hai tuyến thượng thận - nằm trên đỉnh hai quả thận - với cột sống).
Tốc độ quay của luân xa này khá nhanh và khỏe. Luân xa này màu hồng đỏ, khi quay tỏa ra trông như đóa sen mười cánh. Nhiệm vụ của luân xa 3 là cuốn hút các sinh khí cầu được thể Phách thu hút đến, phân tách, đồng hóa chúng thành bảy luồng sinh lực, bảy nguồn năng lượng đặc thù chuyển qua bảy luân xa khác nhau, để nuôi dưỡng và đem lại sự sống cho toàn bộ bảy lớp cơ thể của con người. Luân xa 3 như một bộ sạc năng lượng Tiên thiên, cung cấp cho trường sinh học các lớp cơ thể khác của con người. Bản thân luân xa 3 sẽ chỉ thu nhận một dòng sinh lực đặc thù màu hồng, truyền vào tủy sống để nuôi dưỡng tủy và toàn bộ hệ thần kinh. Khi luyện tập khai mở luân xa, nếu hai luồng hỏa hầu từ đốt xương cụt cuối cùng đi lên đến đây, khai mở được luân xa 3 này, người tập luyện sẽ không cảm thấy mỏi mệt, đau đớn, không bệnh tật. Họ có thể chủ động thoát xác đi phiêu du ở cõi Trung giới, Thượng giới, hoặc nhập vào các thân xác của những người khác được.
Luân xa 4
Luân xa 4 nằm ở khu vực điểm giao cắt giữa đường ngang hai núm vú với cột sống. Luân xa này quay nhanh hơn luân xa 3, nên trông nó như cái quạt máy có mười hai cánh màu vàng ánh kim vậy. Nhiệm vụ của luân xa 4 là tiếp nhận luồng sinh lực màu vàng từ luân xa 3 đưa đến, chuyển vào tim để nuôi dưỡng tim và hệ thống tuần hoàn máu. Nguồn năng lượng màu vàng nêu trên (ngoài phần đã nuôi dưỡng tim và hệ tuần hoàn), nếu còn dư sẽ chạy lên não, qua điểm liên thông ở huyệt Bách hội, chuyển sang nuôi dưỡng lớp Vía Thiên thể (Vía Cảm xúc).
Khi luyện tập yoga để khai mở luân xa, nếu hai dòng hỏa hầu Kundalini từ vùng xương cụt bò lên đến đây, nó sẽ khai mở luân xa 4 này. Khi đó, người tập luyện sẽ cảm thấy như có phép lạ: Họ có thể cảm nhận được quá khứ, hiện tại và tương lai của người khác thông qua tiếp xúc ban đầu. Luân xa này khai mở, người luyện thậm chí còn có thể nghe thấy, hoặc nhìn thấy lờ mờ người và vật ở cõi Trung giới (cõi Âm). Nếu chăm chỉ luyện tập, những người này sẽ càng ngày càng nhìn và nghe rõ nét hơn. Đây là bước đầu để những người này có thể trở thành các bậc tiên tri, nếu họ say mê tu luyện.
Luân xa 5
Luân xa này nằm ở khoảng hố lõm yết hầu, vùng giữa bên dưới tuyến giáp. Luân xa này quay nhanh hơn luân xa 4, nên khi quay trông nó như chiếc quạt mười sáu cánh màu xanh cô-ban ánh bạc. Nhiệm vụ của luân xa 5 là tiếp nhận luồng sinh lực màu tím từ luân xa 3 đi lên. Khi đến luân xa 5, luồng sinh lực màu tím chia làm hai nhánh, một nhánh nhỏ màu xanh cô-ban chạy vào luân xa 5 nuôi tuyến giáp trạng, yết hầu và các tuyến nội tiết ở khu vực này. Dòng sinh lực lớn hơn màu tím hồng chạy lên não, qua điểm liên thông tại huyệt Bách hội chạy vào thể Tâm linh, nuôi dưỡng lớp Tâm linh ngoài cùng là thể Tuệ tâm. Đối với những người luyện yoga hay thiền định, trong quá trình tập luyện để khai mở luân xa, khi hai dòng năng lượng Kundalini từ luân xa 1 chạy lên đến đây, chúng sẽ khai mở luân xa 5 này. Người luyện yoga sẽ nghe thấy những tiếng nói văng vẳng trong tai từ thế giới khác (cõi Trung giới, hoặc Thượng thiên), những lời nhắn nhủ, mách bảo, chỉ dẫn. Hiện tượng này gọi là thần nhĩ được khai mở. Một số người không luyện tập gì cũng thấy hiện tượng này, vì tần số Tâm linh của họ bẩm sinh đã khá trùng hợp với các tần số của cõi Trung giới. Có thể từ kiếp trước những người này đã có những thành công nào đó trong tu luyện. Song hiện tượng “thần nhĩ” bẩm sinh này không bao giờ chủ động được và không thường xuyên, lúc có, lúc không.
Luân xa 6
Luân xa 6 nằm ở vùng huyệt Ấn đường, khoảng giữa hai đỉnh của hai lông mày, giao cắt với đường sống mũi thẳng lên, nhưng hơi cao hơn một chút, tại chỗ lõm nhỏ ở xương trán. Ở những người bình thường, luân xa này hơi nhỏ hơn các luân xa khác. Nếu trung bình các luân xa khác có đường kính khoảng 5 cm, thì luân xa 6 có đường kính khoảng 4 cm. Độ to, nhỏ của luân xa này phụ thuộc vào từng người. Những người chăm luyện tập về Tâm linh có luân xa 6 rất to, đường kính đến 10 cm. Luân xa 6 nằm đúng giữa huyệt Ấn đường. Nó quay rất nhanh so với các luân xa bên dưới. Khi nó quay, rất khó mà đếm được có bao nhiêu cánh. Luân xa này vừa nhỏ, vừa chói sáng. Thấy rõ nhất là nó có hai phần, một sáng, một tối, luôn nhấp nháy nên thoạt nhìn, nó như chỉ có hai cánh, một to, một nhỏ. Vì thế nhiều người bảo nó chỉ có hai cánh, nhưng nhiều người khác bảo nó có chín mươi sáu cánh. Mặc dù rất khó xác định nhưng tôi thấy chín mươi sáu cánh đúng hơn. Khi khai mở được luân xa 6 này, người luyện có thể nhìn được các vật thể ở cõi Hạ giới và Trung giới mà không cần đến thị giác của thân xác. Người luyện có thể thấy được những gì mình mong muốn được thấy, dù ở cõi Phàm trần, hay cõi Âm (Trung giới). Thấy ở đây không phải là nhìn hoàn toàn bằng thị giác, mà là thấy qua chiêm bao, hoặc trong trạng thái nửa mơ, nửa tỉnh, hoặc hình ảnh thoáng hiện lên trong tiềm thức. Hoạt động “nhìn” ở đây được thực hiện bằng giác quan thể Vía, hoặc Tâm linh và hình ảnh được truyền tải qua não bộ để hiển thị, nên sẽ rõ nhất là khi ngủ, vì lúc đó các giác quan thể xác đều tắt.
Đặc biệt từ luân xa này (hay còn gọi là con mắt thứ ba) ở những người có Tâm linh phát triển, tỏa ra một luồng năng lượng rất mạnh, mang đầy tình thương yêu, khiến người xung quanh mất hết sự nghi ngại, luôn cảm thấy yên tâm, tin tưởng. Những người Tâm linh phát triển, đã khai mở được luân xa này, khi nhìn bằng “con mắt thứ ba”, thấy mọi đồ vật đều tỏa hào quang với bảy sắc cầu vồng. Nếu tập trung tư tưởng vào sự việc gì, sẽ thấy sự việc đó hiện ra, cả trong quá khứ và tương lai. Tiếp xúc với những người như thế này chúng ta luôn cảm thấy thiện cảm, dễ chịu, bình an, đáng tin cậy và rất muốn gần họ. Đặc biệt những bệnh tật, cơn đau gì đó trong ta đều tan biến. Họ thực sự có thể xem là những thánh nhân bằng xương, bằng thịt.
Luân xa 6 thu hút dòng sinh lực màu tím từ luân xa 3, rồi đưa vào thể Tâm linh nuôi dưỡng hai thể Tuệ tâm và Thiện tâm.
Luân xa 7
Luân xa này nằm vào khoảng chính giữa đỉnh đầu (tại huyệt Bách hội). Nó hoàn toàn khác về hình thù so với các luân xa kia. Trông nó như một cơn lốc màu đỏ da cam hình cái phễu quay tít mù. Khi quay, nó chia thành hai tầng. Tầng nhỏ ở dưới trông như cái phễu có mười hai cánh, còn vòng to ở trên xòe ra vô vàn cánh. Theo các hành giả yoga Ấn Độ, vòng trên có đến chín trăm sáu mươi cánh. Luân xa này quay nhanh khủng khiếp, phát ra màu đỏ vàng da cam chói lọi. Sở dĩ luân xa này có hai tầng, quay với hai tốc độ khác nhau, vì nó đảm nhiệm hai chức năng: Vòng tròn to bên trên quay rất nhanh, nên trông như cơn bão lốc, có chức năng thu dòng năng lượng rất lớn màu tím từ luân xa 3 đi lên, chuyển vào thể Tâm linh nuôi dưỡng lớp Thiện tâm và Trân tâm. Còn vòng phễu nhỏ mười hai cánh ở dưới thu hút và chuyển dòng sinh lực màu vàng vào nuôi dưỡng thể Vía Cảm xúc và vía Hạ trí. Luân xa 7 còn một chức năng nữa là thải xác các sinh khí cầu, các nguyên tử sinh bào đã bị thu hết năng lượng ra ngoài cơ thể. Xác các sinh khí cầu, các nguyên tử sinh bào hết năng lượng từ thể Phách bị hút lên, văng bật ra ngoài qua luân xa này. Khi luyện tập khí công hay thiền định, nhiều người vì không hiểu biết về cơ chế này đã dẫn dòng năng lượng Tiên thiên từ “kho Đan điền” đi lên đỉnh đầu, khiến những năng lượng sống quý giá bị phóng ra ngoài qua luân xa này, nên bị “tẩu hỏa, nhập ma”. Bao nhiêu năng lượng sống chứa tại Đan điền dần dần bị thất thoát ra ngoài qua huyệt Bách hội. Khi năng lượng hàng ngày bị thất thoát, lớp vệ khí bảo vệ cơ thể bị suy giảm, nên các sinh linh khác thừa cơ xâm nhập vào, mượn thân xác những người này để thỏa mãn những dục vọng bấy lâu không được thụ hưởng. Nhiều người không có thực tế tu luyện, lại nhầm tưởng luân xa này tự thu được năng lượng từ ngoài vào, vì nó có hình cái phễu. Luân xa 7 cực kỳ quan trọng, vì nó liên thông với toàn bộ bảy lớp cơ thể. Khi thân xác chết, Linh hồn, Phách, Vía đều thoát ra ngoài qua luân xa này, qua huyệt Bách hội. Các bậc chân tu thuộc các tôn giáo, các thiền sư đắc đạo, các nhà hiền triết thực sự, các học giả uyên thâm, ít nhiều đều có khai mở luân xa 7. Trên đầu họ lấp lánh một vầng hào quang màu vàng bao quanh. Thành thử tu sĩ các tôn giáo thường cạo trọc đầu, để dễ nhận biết các đồng đạo, tránh các phần tử bất hảo trà trộn vào để phá đạo. Khi khai mở được luân xa cuối cùng này, người luyện có thể chủ động xuất hồn, ra vào cõi Niết bàn, tiếp cận với những nguồn tri thức thâm sâu, bất tận của Vũ trụ. Thành thử những người này có những tri thức của bậc toàn năng, không ranh giới. Họ giỏi hết thảy mọi lĩnh vực, từ xã hội học, đến nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học Tâm linh huyền bí, đến y học, tiên tri… Gọi họ là Thánh sống, Nhà Tiên tri cũng không có gì quá đáng!
3
BẢY CỬA KHẨU VÀ HỆ THỐNG PHÒNG VỆ CỦA CƠ THỂ CON NGƯỜI
Năng lượng Tiên thiên vào và ra khỏi cơ thể con người, cả thể Xác, thể Phách, thể Vía và Tâm linh đều qua bảy luân xa. Bảy luân xa nói trên chính là bảy cửa khẩu để cơ thể con người giao lưu, trao đổi năng lượng với Vũ trụ. Thông thường khi chết, con người vẫn còn rất nhiều những mối ràng buộc, những dang dở, những ưu tư, những khát vọng chưa được thỏa mãn, những mâu thuẫn, uất hận chưa được giải quyết. Sau khi chết rồi, Linh hồn cùng với thể Phách, Vía đã thoát ra ngoài thân xác. Thân xác sẽ được chôn xuống đất và sẽ bị phân hủy. “Con người” bây giờ tồn tại với cơ thể ở dạng vật chất siêu hình là trường sóng hạt của Phách, Vía và Tâm linh. Song họ vẫn khát khao được tiếp tục sống ở cõi trần. Theo thói quen, họ vẫn khôn nguôi khát vọng trở lại cuộc sống thân xác. Nhưng giờ đây thân xác đâu còn và họ không thể tiếp tục cuộc sống cõi trần mà thiếu thân xác được.
Chính vì không hiểu biết cuộc sống ở cõi Trung giới (cõi Âm), nên họ hay bị hốt hoảng, sợ hãi trong những tháng năm đầu. Dần dần họ sẽ phải quen với thế giới mới, nhưng những thói quen ở kiếp sống cõi trần và cảnh những người thân đang sống trong cõi trần, vẫn làm họ đau khổ, vì họ và những người thân không thể trao đổi được thông tin. Thực ra giờ đây họ không cần ăn như hồi ở cõi trần. Năng lượng giờ đây ở cõi Trung giới không phải là thức ăn (calo) như ở cõi trần, mà là Tiên thiên khí. Họ chỉ cần ngửi, hít là Tiên thiên khí đã bị thu vào cơ thể họ rồi. Họ không còn cảm thấy đói như khi còn thân xác, nhưng thói quen ăn uống hàng ngày vẫn hành hạ họ, và họ vẫn cảm giác hình như mình đói. Những thói quen sinh lý cũng tương tự. Họ vẫn bị thói quen sinh hoạt tình dục khêu gợi, thôi thúc, mặc dù giờ đây thân xác chẳng còn. Họ đặc biệt đau khổ khi nhìn thấy vợ hay chồng của mình đang sống vui vẻ hay ân ái với kẻ khác. Chính vì vậy, họ rất muốn có một thân xác, dù là tạm bợ của ai đó, để trở lại cõi trần. Thành thử nhiều trường hợp, khi gặp một người cõi trần có điều kiện vật chất gần trùng hợp với mong muốn của mình, họ sẽ thử xâm nhập vào. Nếu “hệ thống phòng vệ” của người kia yếu đuối, không cản được, là họ xâm nhập luôn và nếu có thể tồn tại được trong thân xác này, họ sẽ tạm chiếm luôn thân xác của người kia, để truyền đạt thông tin, hay trả thù một người nào đó, hoặc để thỏa mãn những ham muốn, dục vọng của mình. Đó chính là những trường hợp bị “ma” nhập hồn.
Tuy nhiên, việc nhập hồn vào thân xác người khác hoàn toàn không hề đơn giản. Tại bảy luân xa có một mạng lưới nguyên tử phòng vệ. Mạng lưới nguyên tử này ngăn cách giữa thể Xác và thể Phách, giữa cõi Trần và cõi Trung giới. Đây thực ra là hai từ trường sinh học kép: Từ trường của thân xác và từ trường năng lượng rất mạnh của thể Phách. Chính hai lớp từ trường này tạo ra một mạng lưới phòng vệ rất chắc chắn. Mạng lưới phòng vệ này phát ra một từ trường cực mạnh so với trường sinh học của thể Vía và Tâm linh. Từ trường phòng vệ này có mạng lưới điện tích dương quay ra bên ngoài. Sau lớp Phách lại gặp một mạng lưới điện tích dương thứ hai của thân xác. Hai lớp điện tích dương này sẽ cản các Linh hồn ở cõi Âm (cõi Trung giới) không thể xâm nhập vào thân xác được.
Ở một số người, bẩm sinh đã có từ trường phòng vệ này vốn yếu, hoặc ở một số người đã từng bị chết lâm sàng, sau đó sống lại, thì từ trường phòng vệ ở người này cũng bị tổn thương. Mạng lưới phòng vệ như bị rách, sẽ không đủ mạnh để ngăn cản sự xâm nhập của một “vong” nào đó. Dạng cơ thể như thế này thường là của các bà đồng, cô đồng. Song, nhiều nơi cũng có một số đồng cốt là nam giới. Mạng lưới phòng vệ ở cơ thể nam giới vốn dương tính nhiều hơn, nên vong rất khó nhập hơn. Nếu có nhập vào được một cơ thể nam nào đó thì cũng chỉ mang tính nhất thời, chứ không thể thường xuyên được. Thành thử, các đồng cốt nam giới chuyên nghiệp thường là người “song tính”. Ở những người này, tần số của từ trường phòng vệ là cân bằng. Họ thường là những người đồng cốt chuyên nghiệp. Họ chuyên cho các vong “nhập hồn” để trao đổi thông tin với người sống. Tuy nhiên đồng cốt nam vẫn ít hơn, chiếm khoảng 30% mà thôi, chiếm số lượng lớn vẫn là những đồng cốt nữ. Ngoài yếu tố bẩm sinh, nguyên nhân suy yếu của mạng lưới nguyên tử phòng vệ này là do rối loạn thần kinh, dẫn đến suy yếu rồi tê liệt hệ thống thần kinh. Một số trường hợp khác do tai nạn làm tổn thương đến toàn bộ hệ thần kinh, như bị điện giật, bị sét đánh, bị chó dại cắn, dẫn đến trạng thái chết lâm sàng trong một khoảng thời gian nhất định.
Vì thế, khi mạng lưới nguyên tử phòng vệ bị suy yếu, các vong (Phách, Vía hoặc Linh hồn) ở cõi Trung giới có thể xâm nhập vào thể Phách, sau đó thông qua bảy luân xa ở thể Phách, vong sẽ nhập vào thể Xác, làm tê liệt sự điều khiển của não bộ với thân xác, chiếm lĩnh não bộ, điều khiển toàn bộ thân xác theo ý muốn của vong hồn. Các vong luôn đem vào cơ thể người bị nhập một lượng điện tích âm rất lớn, khiến họ như bị trúng cảm nặng. Nếu không biết cách loại trừ những điện tích âm này ra khỏi cơ thể, sức khỏe người bị nhập sẽ dần dần bị suy giảm, sinh bệnh tật, đau ốm. Nhiều người có tần số thấp (quá nhiều điện tích âm), nên liên tục bị các vong nhập vào cơ thể, mặc dù họ không hề muốn. Sau mỗi lần bị nhập họ mệt mỏi vô cùng, cơ thể rã rời, mặt mày nhợt nhạt. Hàng năm tôi phải giúp không ít những “cô đồng bất đắc dĩ” như thế. Họ bị nhập hồn với đủ các nguyên nhân. Có người do tò mò thử đi gọi hồn, bị người nhà nhập vào, thế là ngày nào người nhà cũng về nhập hồn, mà nhiều khi họ nhập hồn vào người thân chỉ để dặn dò những chuyện chẳng quan trọng gì. Có người bị người âm phải lòng về nhập, có trường hợp trong nhà có hài cốt, cũng bị vong nhập, vì hợp tần số. Tôi cũng từng gặp không ít trường hợp xảy ra những “mối tình âm dương” mà người bị nhập ngày một suy kiệt cả về thể xác lẫn tinh thần.
Muốn giúp những người bị nhập hồn này, ta chỉ cần đưa dòng năng lượng Prana vào thể Phách của họ để làm thay đổi tần số từ trường của họ. Rất nhiều trường hợp những người âm yêu người dương, nhưng người dương với các giác quan thể xác không cùng tần số với các giác quan thể Vía của người âm, nên không cảm nhận được người âm. Trong khi đó người âm không muốn người mình yêu đi lấy người khác. Người âm hay ghen, nên thường tìm cách phá hoại những quan hệ tình cảm của người mình yêu với người khác. Thành thử những người bị phá rất khó lấy vợ, lấy chồng, nhiều người đã luống tuổi rồi vẫn không gặp được ý trung nhân. Với trường hợp này cũng vậy, chỉ cần thay đổi tần số từ trường thể Phách, làm cho tần số lệch đi, là người âm không can thiệp được nữa. Những trường hợp tinh thần rối loạn do “ma nhập” cũng chữa theo phương pháp này là khỏi sau hai liệu trình, mỗi liệu trình hai phút.
Như vậy thông qua bảy luân xa của thể Phách, chúng ta có thể chữa được rất nhiều căn bệnh nan y của thân xác mà không cần dùng thuốc.
4
NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THỂ PHÁCH
Như chúng ta đã biết, thể Phách là một trường sóng hạt, rất nhạy cảm với các sóng năng lượng. Chức năng của thể Phách là thu hút năng lượng của Vũ trụ, chuyển hóa chúng thành những dòng năng lượng thích ứng, rồi cung cấp cho bảy lớp cơ thể của con người. Chính vì thế, các vật chất phát sóng đều rất dễ tác động đến thể Phách, cản trở sự thu hút và chuyển hóa năng lượng, do đó các vật chất này có thể làm ảnh hưởng đến sức khỏe con người.
Trước tiên, ta phải kể đến các loại sóng năng lượng phát ra từ Vũ trụ do những trận bão từ phát xuất từ Mặt trời. Những trận bão từ trường này ảnh hưởng trực tiếp, có tác động rất xấu đến sức khỏe con người. Đầu tiên bão từ làm nhiễu loạn từ trường Trái đất. Từ trường Trái đất khi nhiễu loạn sẽ tác động và làm ảnh hưởng trực tiếp đến thể Phách, khiến việc cung cấp năng lượng cho cơ thể bị chập chờn, hoặc ngừng trệ. Sau đó nó làm nhiễu loạn từ trường tổng thể của thân xác, khiến từ trường thân xác không thể tự cân bằng. Tiếp theo nó làm ảnh hưởng đến từ trường tim, làm tim đập không ổn định. Những người yếu tim cảm thấy mất thăng bằng, chóng mặt, như bị cảm. Nếu tình trạng này kéo dài sẽ rất hại cho tim. Bão từ còn gây ảnh hưởng xấu đến các cơ quan khác trong thân xác hoạt động theo nhịp điệu sinh học như phổi, thận, hệ thần kinh.
Ảnh hưởng thứ hai đến thân xác con người thông qua thể Phách là sóng hình thể. Thế nào là sóng hình thể? Đó là những đợt sóng năng lượng rất mạnh, được tạo ra do tác động của từ lực đường sức Trái đất kết hợp với các dòng điện tích, hay các dòng ion tự do, gặp các địa hình đặc thù của bề mặt Trái đất, hay các công trình xây dựng, sẽ tập trung và hướng các đợt sóng này thành dòng rất mạnh, phóng vào một căn nhà, hoặc một quần thể dân cư, làm ảnh hưởng rất xấu đến từ trường sinh học cơ thể, sinh ra các tật bệnh khó chữa. Các đợt sóng năng lượng mạnh mẽ này khi va chạm với các địa hình trong thiên nhiên như núi, sông, các công trình kiến trúc, cây to, nhà cửa, cột điện, sẽ bị định hướng theo một chiều, rồi phóng vào các công trình có người đang sinh sống. Các luồng sóng điện tích hay ion đó sẽ xâm nhập vào thể Phách, sau đó thông qua thể Phách xâm nhập vào cơ thể. Ở đây sẽ diễn ra quá trình trao đổi ion, làm mất đi năng lượng của cơ thể hoặc làm sản sinh thêm các ion thừa với số lượng rất lớn trong cơ thể. Điều này làm mất đi sự cân bằng điện tích, làm mất cân bằng từ trường cơ thể, ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe, đặc biệt là hệ thần kinh, tim, thận. Khoa Phong thủy thực chất là nghiên cứu và xử lý vấn đề này. Từ xa xưa con người đã ý thức được rất rõ mối liên quan mật thiết giữa sóng năng lượng với sức khỏe. Nhưng, các học giả Á Đông có thói quen chỉ đưa ra các kết luận, mà không bao giờ lý giải, chứng minh. Ai tin thì theo, ai không tin thì đừng theo. Chính vì thế nên khoa Phong thủy mang nhiều nét huyền bí, mọi người đều nhìn thấy hiện thực đó, nhưng không lý giải được. Nhiều người không hiểu nhưng cứ võ đoán, giải thích bừa, tô thêm những màu sắc thần bí dị đoan, khiến cho Phong thủy thêm huyền hoặc, làm mất đi tính khoa học vốn có. Nhiều kẻ còn lợi dụng Phong thủy để kiếm tiền, gán cho Phong thủy những chức năng như trang trí nội thất, vốn thuộc kiến trúc chứ không phải của Phong thủy. Muốn bán vật gì thì gán cho nó cái tên “phong thủy”, thành thử mới có cái gọi là trang trí phong thủy, nội thất phong thủy, đá phong thủy, đèn phong thủy, đồ thờ phong thủy, và cả đồ chơi phong thủy.
Người xưa gọi môn này là Phong - Thủy (tiếng Hán là Feng - sui), là gió và nước, với gió ở đây là gió ion, gió điện tích, còn nước đúng là khắc tinh của ion và điện tích. Nước có khả năng thu giữ triệt để tất cả các dòng điện tích hay ion, dù là dòng có lợi hay có hại, dù có cường độ mạnh đến đâu đi nữa. Ngoài nước ra, lửa cũng là khắc tinh tiêu diệt ion và điện tích. Song nếu dùng nước thì không nguy hiểm, còn dùng lửa thì có khi lợi bất cập hại. Chính vì thế người xưa mới dùng nước để trị “phong”. Do đó thuật chế ngự “phong” bằng nước được gọi là thuật Phong - Thủy. Nhiều kẻ bịa ra, nào là đá phong thủy, cây phong thủy, lọ hoa, bàn ghế phong thủy là không hiểu gì về phong thủy.
Ảnh hưởng thứ ba đến sức khỏe con người cũng cực kỳ lớn, là từ các loại sóng điện từ do con người tạo ra như sóng radio, sóng vô tuyến, sóng truyền hình hay sóng rađa. Các loại sóng điện từ này dày đặc trong không gian Vũ trụ mà chúng ta đang sống. Các loại sóng năng lượng này cũng có thể làm thể Phách nhiễu loạn, khiến cơ thể khó thu được năng lượng Tiên thiên. Từ đó bệnh tật mới dễ bề nảy sinh.
Ảnh hưởng thứ tư là ảnh hưởng của các loại đá phát ra phóng xạ, như đá Granite (đá hoa cương) các màu, các loại đá già phát ra sóng năng lượng có tần số dao động ổn định, như các loại đá thạch anh. Các loại đá này phát ra các sóng năng lượng gây ảnh hưởng đến sức khỏe, tùy thuộc vào cường độ và tần số của sóng sẽ làm khuếch đại tần số của Phách, hay sẽ làm triệt tiêu tần số dao động này của cơ thể. Có loại đá làm khuếch đại tần số dao động của Phách, qua đó làm cho sức khỏe có thể tốt lên một thời gian, nhưng về sau, chính sự đột biến do kích thích đó lại làm mất cân bằng năng lượng. Có loại đá lại làm dao động của thể Phách tắt dần, khiến sức khỏe suy sụp rất nhanh. Ảnh hưởng này còn tùy thuộc vào tần số của từng người. Có nhiều người tự nhiên thấy toàn thân đau nhức, thần kinh căng thẳng, mệt mỏi, đến nhờ tôi xem bệnh. Không tìm thấy có dấu hiệu về bệnh lý, tôi hỏi họ có đem các vật dụng gì bằng đá vào nhà không? Họ đều trả lời là có. Người thì mua quả cầu bằng đá thạch anh về để làm ăn cho may mắn, người thì được biếu con chó đá để canh nhà, giữ cho tài lộc khỏi ra đi. Tôi bảo họ tạm thả các vật bằng đá đó xuống nước, rồi theo dõi thử vài hôm. Quả nhiên người hết đau nhức, thần kinh hết căng thẳng, mỏi mệt, sức khỏe trở lại bình thường, mà không cần phải uống thuốc men gì. Sau thí nghiệm này, mọi người đều tự vứt hết chó đá, lẫn “đá phong thủy” nọ xuống sông, xuống hồ, hoặc trả lại cho người bán với giá chịu lỗ to.
Ảnh hưởng thứ năm là các loại khí độc hại như amoniac (NH3), amoni (NH4), metan (CH4), carbon dioxide (CO2), khí radon (Rn-222, Rn-220, Rn-119)... Đó là các loại khí có khả năng trao đổi ion mạnh. Khi các ion này qua thể Phách để vào thân xác sẽ diễn ra quá trình trao đổi ion trong cơ thể, làm cơ thể mất năng lượng, hoặc mất oxy và để lại các độc tố trong cơ thể. Còn khí radon (Rn) là khí trơ phóng xạ, khí này là kết quả phân rã của chất phóng xạ urani và radium. Khí radon theo các kẽ nứt của bề mặt Trái đất đi lên, tích tụ ở các điểm kín, ẩm thấp, không thoáng gió. Khi radon tích tụ đậm đặc ở một vùng nào đó, nó có thể thẩm thấu vào cơ thể những người sống trong khu vực, làm tổn hại các tế bào nhạy cảm như phổi và hệ thần kinh. Nhưng nếu khống chế được liều phóng xạ của radon ở mức từ 4 đến 8 Becquerel, hoặc các loại khí radon có chu kỳ phân rã nhanh như Rn-119 (2 - 4 giây), thì radon lại có thể trở thành công cụ chữa bệnh rất hiệu quả đối với các bệnh như mỡ máu, gan nhiễm mỡ, thấp khớp, dính khớp, thận, yếu sinh lý…
Ảnh hưởng thứ sáu đến cơ thể thông qua thể Phách là nước ngầm. Nước ngầm ở đây được hiểu là những dòng chảy ngầm, những cống, rãnh ngầm dưới đất, hoặc các khối nước, các bể nước, các bọc nước ngầm dưới lòng đất, mà bên trên khu vực này có cư dân sinh sống. Các dạng nước ngầm nêu trên giống như các sát thủ âm thầm tiêu diệt từ từ tất cả những ai sống bên trên. Họ thường hay bị đau ốm, mà không phát hiện ra nguồn bệnh. Người bệnh có thân hình tiều tụy dần, không ngủ được, không muốn ăn, da dẻ xanh xao, bủng xấu. Bí mật ở đây chính là khả năng hấp phụ ion và điện tích cực mạnh của nước. Trong khi cơ thể thường xuyên trao đổi năng lượng bên trên, thì nước ngầm ở dưới lẳng lặng thu dần các dòng năng lượng Tiên thiên (Prana) mà bảy lớp cơ thể trao đổi qua thể Phách. Nếu bên dưới một căn nhà, hay một khu dân cư có khối lượng nước tĩnh càng to hay dòng chảy càng lớn, thì sức hút sẽ càng mạnh và tác động xấu đến sức khỏe càng lớn. Đây là hiện tượng xảy ra thường xuyên nhưng ít người biết được. Ví dụ, như khi chúng ta vừa tắm xong hay khi bị ướt nước mưa, cơ thể đang thấm nước, thì lớp nước dính trên cơ thể như một khối nam châm, lập tức thu hút các điện tích âm tự do xâm nhập vào lớp biểu bì. Nếu khả năng phòng vệ của cơ thể yếu, thì quá trình trao đổi ion lập tức diễn ra, một lượng lớn các điện tích âm (âm khí) sẽ vượt qua hệ thống phòng vệ bên ngoài, để vào phần bên trong của cơ thể, làm nhiễu loạn từ trường và lấy mất một lượng lớn năng lượng của cơ thể, khiến ta trúng cảm. Chúng ta sẽ cảm thấy cực kỳ khó chịu, hoa mắt, chóng mặt, đầu óc choáng váng. Nếu nặng, có thể bị co quắp chân tay, cấm khẩu và ngất xỉu. Trong khi đó, một người khô ráo đứng ngay bên cạnh sẽ vẫn bình an vô sự. Đó chính là khả năng thu hút điện tích và ion của nước. Vì thế, nước có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc quy hoạch phong thủy khi xây dựng nhà ở. Ví dụ, nếu ở tầng trệt có đặt bể nước, hoặc có đường cống, hay dòng nước ngầm ở một vị trí nào đó xông thẳng lên các tầng trên, mà tầng trên lại được bố trí giường ngủ, thì những người ngủ ở đó sẽ luôn luôn mất ngủ. Lâu dần sẽ mắc bệnh căng thẳng thần kinh, khiến cơ thể suy nhược và chẳng thuốc nào chữa khỏi. Công việc làm ăn cũng vì thế mà luôn trắc trở, hoặc thất bại. Nếu đổi giường cho người đó ra vị trí khác, đặt theo hướng “đầu - bắc, chân - nam” thì người đó sẽ ngủ được ngay. Sức khỏe sẽ rất nhanh phục hồi.
Tóm lại thể Phách là một lớp cơ thể, có trường sinh học tồn tại ở dạng sóng, được cấu tạo từ các hạt vừa là vật chất, vừa là năng lượng, đảm nhiệm việc thu nhận, chuyển hóa năng lượng Tiên thiên của Vũ trụ thành bảy dạng năng lượng tương thích, để cung cấp những nguồn năng lượng sống này cho bảy lớp cơ thể của con người.
5
HOẠT ĐỘNG CỦA THỂ PHÁCH SAU KHI THÂN XÁC CHẾT
Thân xác có thể bị tổn thương, hủy hoại dẫn đến cái chết. Có thể do bệnh tật đã hủy hoại thân xác đến mức không thể tồn tại được nữa, có thể do tai nạn làm cho thân xác bị tổn thương, không còn nguyên vẹn, hoặc có thể do bị ngộ độc, làm cho tim, phổi, hoặc não bị tê liệt, dẫn đến cái chết. Khi thân xác còn sống, Phách, Vía, Tâm linh do lực hút của từ trường sinh học thân xác mà có liên kết hữu cơ với thân xác. Sau khi thân xác chết, từ trường sinh học thân xác ngừng hoạt động, khiến ba lớp cơ thể là Phách, Vía, Tâm linh lập tức rời khỏi nhau và bị co rút lại, trông như một quả cầu có sáu lớp: Ngoài cùng là hai lớp Vía, trong là lớp Phách, rồi đến ba lớp Tâm linh. Lúc đầu “quả cầu” này tụ tại vùng Đan điền phía bụng dưới. Khi thân xác chết được khoảng mười hai tiếng, quả cầu Vía, Phách, Tâm linh này sẽ từ từ trườn theo cột sống lên đỉnh đầu và thoát ra ngoài thân xác qua huyệt Bách hội. Khối Vía, Phách, Tâm linh này bay lơ lửng như một “quả bóng bay” phía trên xác thân đã chết và bị giữ lại bởi một “sợi dây” màu ánh kim chói lọi, một đầu dính chặt với khối Phách, Vía, Tâm linh, đầu kia dính chặt với huyệt Bách hội ở đỉnh đầu của thân xác. Người Á Đông gọi sợi dây này là “kim cương tuyến”, người Ấn Độ gọi nó là “shutra”, người Âu gọi là “silver cord” (sợi dây bạc). Sau ba ngày, sợi kim cương tuyến này sẽ bị đứt, “quả cầu” Vía, Phách, Tâm linh kia mới hoàn toàn thoát khỏi thân xác. Lúc này thân xác mới thực sự chấm dứt sự tồn tại của mình. Sau một khoảng thời gian nhất định (mỗi chu kỳ 49 ngày), khối Tâm linh có thể sẽ đi đầu thai, chỉ còn lại khối Vía và Phách sẽ tồn tại khá lâu và độc lập tại cõi Trung giới, hay còn gọi là “cõi Âm”. Nếu sau chu kỳ đầu tiên chưa đầu thai được, thì vào một chu kỳ (49 ngày) nào đó tiếp theo, khi tần số Tâm linh đã bình ổn, Tâm linh mới đầu thai được. Khi Tâm linh đã đầu thai làm kiếp khác, con người lúc này tồn tại với ba lớp cơ thể: Phách và hai lớp Vía. Sau khoảng mấy trăm năm khối sinh linh Phách - Vía này cũng sẽ suy yếu dần, nhạt nhòa, rồi sẽ tắt hẳn.
Cũng có những trường hợp quá trình đầu thai sẽ lâu hơn. Điều này phụ thuộc vào tình trạng tinh thần và sức khỏe của thân xác con người khi chết: Trẻ hay già, khỏe hay ốm yếu, có nhiều gắn bó tình cảm với cõi trần hay đã chán ghét, muốn đoạn tuyệt. Càng chết trẻ, càng nhiều lưu luyến, nuối tiếc sẽ càng lâu đầu thai.