Ngay bên ngoài lớp Phách là một lớp cơ thể tuy vật chất khá thô, nhưng vẫn thuộc về vật chất siêu hình nên mắt thường của thân xác con người không nhìn thấy được. Đó là thể Vía. Thể Vía gồm hai lớp: Vía Hạ trí (Mental) và Vía Thiên thể (Astral).
Các học giả Âu châu gọi lớp cơ thể này là thể Mental (mental body). Các học giả Á Đông còn gọi thể Vía này là Hạ trí để phân biệt với một lớp cơ thể nữa sẽ nói ở phần sau, là thểThượng trí thuộc Tâm linh. Về bản chất, Vía Hạ trí là một trường sinh học, trong đó tồn tại loại vật chất dạng sóng hạt khá mịn. Thể Vía Hạ trí bao quanh thân xác con người, nằm bên ngoài thể Phách. Nó như một thân hình bản sao của thân xác, nhưng to hơn đáng kể, cách thân xác khoảng 20 - 25 cm và liên thông với não bộ qua huyệt Bách hội. Chức năng của Vía Hạ trí là thực hiện các hoạt động suy nghĩ, tính toán, để giải quyết các vấn đề mà cuộc sống đặt ra, nhằm phục vụ cho thân xác, thỏa mãn các đòi hỏi của thân xác về cuộc sống vật chất, đam mê, dục vọng… Chính vì thể Vía này phục vụ những mục đích, những đòi hỏi rất trần tục của xác thịt nên nó mới có tên là Hạ trí. Khi hoạt động, Vía Hạ trí phát ra nhiều màu sắc khác nhau, phản ánh trạng thái tâm lý. Cũng có thể vì phần Vía thuộc vật chất siêu hình, không thấy được, nên bấy lâu nay người ta đã rất nhầm lẫn khi cho rằng não bộ là nơi tính toán, suy nghĩ, tư duy. Thực ra não bộ chỉ là một bộ phận của thân xác, tương tự như chiếc màn hình vi tính, là nơi “hiện hình” những tính toán, những nghĩ suy, những cảm xúc của Vía Hạ trí, Vía Thiên thể và của thể Tuệ tâm (Thượng trí), thể Thiện tâm; rồi Vía Hạ trí truyền những xúc cảm, những tư duy, tính toán ấy đến những cơ quan biểu cảm, hay chi phối hành động phản ứng của thân xác. Để dễ hiểu hơn, ta có thể ví não bộ như cái màn hình vi tính (monitor), còn bộ vi xử lý (CPU) được hợp thành từ bốn bộ phận là: thể Vía Hạ trí, thể Vía Thiên thể, thể Tuệ tâm (Thượng trí), thể Thiện tâm. Vía Hạ trí đảm nhiệm phần suy nghĩ, tính toán mang tính vị kỷ, mưu lợi cho thân xác. Điều này chúng ta sẽ còn nói rõ ở phần sau. Về mặt vật chất, thể Vía Hạ trí tương đương với tầng vật chất Trung giới, hay còn gọi là Hạ trí trong Vũ trụ.
Bên ngoài cùng, bao trùm bên ngoài toàn bộ các cơ thể của con người là lớp Vía Thiên thể, hay còn gọi là Vía Cảm xúc. Vật chất thể Vía thứ hai này tương ứng với tầng vật chất Thượng giới trong Vũ trụ. Vía Thiên thể trông hình thù giống như quả trứng đặt theo chiều dọc, có đường kính ngang ở đoạn giữa khoảng 1 mét. Bản chất của lớp cơ thể này cũng là một trường sóng hạt mịn, nhưng tinh tế hơn, thanh nhẹ hơn thể Vía Hạ trí. Các nước châu Âu dùng từ Astral Body nghĩa là Thiên thể để chỉ lớp Vía này. Có thể gọi thể Vía này bằng một tên nữa là Vía Cảm xúc (emotional body). Nó bao trùm kín toàn bộ cơ thể con người. Đường kính bề ngang của lớp Vía này khoảng hơn 1 mét, nó bùng nhùng, bao bọc và luôn luôn theo sát con người với rất nhiều màu sắc, tùy theo cảm xúc ở từng thời điểm.
Vía Cảm xúc cùng với Vía Hạ trí nối liên thông với não bộ qua huyệt Bách hội. Lớp Vía Cảm xúc này như một trong bốn bộ phận của bộ vi xử lý (CPU) của con người. Nó truyền đến não bộ (màn hình vi tính) toàn bộ cảm xúc, ấn tượng, tâm trạng tình cảm, các nhận thức cảm tính thông qua năm giác quan. Đồng thời nó cùng với Vía Hạ trí cũng truyền đến não bộ những suy nghĩ, tính toán, những ưu tư, trăn trở trên cơ sở những cảm xúc và đưa ra những hành động cho thân xác thực hiện. Tóm lại, nó phản ánh về não bộ toàn bộ trạng thái tình cảm, tâm sinh lý như yêu, ghét, thích thú, ham muốn, dục vọng cả về vật chất lẫn sinh lý và tinh thần (mang tính vật chất và xác thịt), từ đó đề xuất ra những hành động nhằm đạt được những tham vọng đó. Chính thể Vía này khơi gợi lên trong mỗi con người những đam mê, khát khao, ham muốn về một đối tượng vật chất nào đó, rồi dần dần theo thời gian nó thôi thúc, thiêu đốt con người, thúc giục Vía Hạ trí tính toán, để đạt được những ham muốn, những thú vui hay những đòi hỏi mang tính vị kỷ đó của thân xác. Từ một ham muốn về vật chất, biết bao kẻ đã phải trộm cắp hay làm những việc đồi bại, thậm chí là giết người để đạt được mục đích. Từ những ham muốn về xác thịt, nhiều kẻ đã làm những việc táng tận lương tâm để thỏa mãn về dục tình. Từ những ham muốn về quyền lực, nhiều kẻ đã bán rẻ cả dân tộc, cả đất nước, hoặc giết người hàng loạt.
Mặt tích cực của hai thể Vía này là từ những cảm xúc của năm giác quan cộng với lòng đam mê thông qua Vía Cảm xúc, hai lớp Vía này đã tạo ra các bộ môn nghệ thuật làm rung động lòng người, với các nghệ sĩ và nghệ nhân tài hoa đáng khâm phục và ngưỡng mộ. Từ cảm xúc của thị giác sẽ tạo ra các nghệ sĩ và nghệ nhân với các ngành nghệ thuật: mỹ thuật, nghệ thuật múa, thời trang, điêu khắc, nghề thủ công mỹ nghệ… Từ cảm xúc của thính giác thể Vía sẽ tạo ra ngành nghệ thuật âm nhạc; Từ vị giác và khứu giác thể Vía sẽ tạo ra nghệ thuật ẩm thực và nước hoa; Từ cảm xúc của tư duy, trí tuệ kết hợp với cảm xúc của thể Thiện tâm cùng các giác quan cảm xúc của thể Vía sẽ tạo ra nghệ thuật sân khấu, văn học…
Ý thức được rằng chính hai lớp Vía này là nguyên nhân gây ra các đam mê, dục vọng dẫn đến khổ đau cho nhân loại nên tất cả các tôn giáo đều tìm cách khống chế hai thể Vía này, làm cho chúng tiêu mòn, không được tự do phát triển. Không phải vô cớ, các tôn giáo đều kêu gọi và đề ra những luật lệ, phép tắc sinh hoạt nhằm khống chế, tiết giảm dục vọng tự phát của con người.
Về cấu tạo, Vía Cảm xúc được cấu tạo bởi các nguyên tử của tầng vật chất Thượng giới. Còn Vía Hạ trí được cấu tạo bởi các nguyên tử tầng vật chất Trung giới. Nghĩa là nguyên tử cấu tạo ra Vía Hạ trí nhỏ hơn các nguyên tử cấu tạo ra thân xác đến gần 168 lần, còn nguyên tử cấu tạo ra Vía Thiên thể nhỏ hơn nguyên tử cấu tạo ra thân xác đến cả 2.401 lần. Vía Thiên thể và Vía Hạ trí là hai trường điện từ sinh học hết sức linh hoạt với tần số dao động cực kỳ cao, nhanh hơn sóng vô tuyến đến hàng trăm lần, trong đó có các kết cấu hạt nguyên tử của tầng Trung và Thượng giới rất tinh vi. Thể Vía luôn phát ra những vầng hào quang đầy màu sắc khác nhau. Sự khác nhau đó không phải chỉ có giữa người này với người khác, mà ngay trong một con người màu sắc của thể Vía cũng luôn biến đổi, tùy thuộc vào bản tính, tâm trạng, trạng thái tâm lý từng thời điểm của người đó. Thậm chí một người đang ở trong hai trạng thái tâm lý như vừa vui nhưng có đôi chút giận hờn, thì thể Vía cũng sẽ có hai màu sắc đan chéo nhau. Thể Vía luôn phản ánh chân thực nhất tâm tư, trạng thái tình cảm, tâm lý từng thời điểm. Nếu chụp được ảnh thể Vía sẽ giúp cho con người rất nhiều việc hữu ích. Chụp ảnh thể Vía hiện nay không còn là vấn đề không thể thực hiện được. Hoàn toàn có thể chụp được thể Phách và Vía trong một điện trường cao. Chắc chắn trong thời gian không xa, sẽ có những bức ảnh màu, hoặc những thước phim màu ghi lại được cả sự biến thiên màu sắc vô cùng tinh tế của thể Vía. Đây là một đề tài rất thú vị cho những người yêu khoa học vật lý: chế tạo máy chụp, quay phim thể Vía con người. Có được những thiết bị này, sẽ ứng dụng được rất nhiều trong việc khám, chữa bệnh, tư vấn hôn nhân và giáo dục, cũng như tìm hiểu về con người một cách hiệu quả.
Dưới đây là bản thống kê các màu sắc của Vía Thiên thể tương ứng với bản tính, trạng thái tâm lý, tình cảm của con người - theo mô tả của một số người có khả năng thấu thị, đã nhiều năm nghiên cứu về tâm linh con người. Qua màu sắc của thể Vía có thể biết được tâm tính, trạng thái tình cảm, sức khỏe của từng cơ quan trong cơ thể. Tiếc là chỉ có một số rất ít người có khả năng nhìn được thể Vía và màu sắc của nó.
1
MÀU SẮC CỦA THỂ VÍA VỚI BẢN TÍNH, TÂM TRẠNG, TÌNH CẢM CỦA CON NGƯỜI
Chúng ta nên nhớ rằng, tâm linh càng phát triển thì những hành vi cao thượng, bác ái càng nhiều, tâm tính con người sẽ dần thay đổi theo chiều hướng thiện. Thể Vía cũng sẽ thay đổi theo. Màu sắc của thể Vía sẽ đơn giản hơn, ít màu đi và sáng dần lên. Tâm linh càng phát triển thì thể Vía sẽ chỉ còn lại ba màu chính trông rất trong sáng là vàng, xanh ngọc, tím có ánh hồng.
Vía của ai còn nhiều màu hỗn hợp là những người có trạng thái tâm lý còn phức tạp, mâu thuẫn và tâm linh chưa phát triển lắm. Thể Vía của họ to và bùng nhùng với các màu hỗn tạp thiên về u tối. Ngược lại, những người tâm linh phát triển, có trí tuệ mẫn tiệp, nhân đức, có tình yêu thương, bác ái thì thể Vía của họ rất gọn gàng, màu sắc không hỗn tạp, có màu vàng sáng, hoặc xanh ngọc (nếu họ thiên về trí tuệ, sáng tạo), hoặc màu xanh tím rực sáng (nếu họ thiên về hướng mộ đạo, nhân từ và bác ái). Việc chế tạo ra máy ảnh chụp Vía, Phách đến nay không còn là việc bất khả thi. Hy vọng những người yêu khoa học trên toàn thế giới sẽ sớm chế tạo được thiết bị này. Người Nga đã có những bước tiến trong lĩnh vực này. Họ chỉ ra rằng có thể chụp được thể Phách và Vía dưới điện trường cao. Có loại máy ảnh này sẽ giúp cho việc chẩn đoán bệnh rất chính xác, cũng như giúp cho việc giáo dục tình cảm, giáo dục con người và tìm bạn đời đúng hướng hơn. Đặc biệt nó sẽ cho mỗi người thấy tâm tính thật của mình, không bị huyền hoặc, u mê, hay tự dối lừa. Điều này sẽ giúp cho việc tự tu thân rất tốt.
2
CHỨC NĂNG VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THỂ VÍA
Như đã nói ở phần trên, chức năng của Vía Hạ trí là tính toán (theo kiểu vị kỷ), nhằm đem lại cho thân xác một sự thỏa mãn nào đó về dục vọng, cả vật chất lẫn tinh thần. Hoạt động của Vía Hạ trí và Vía Thiên thể (cảm xúc) luôn gắn liền với nhau một cách hữu cơ và mật thiết. Vía Thiên thể luôn tạo ra những thích thú, ham muốn, khát vọng, từ đó nó thôi thúc Vía Hạ trí hoạt động để thỏa mãn những ham muốn mà Vía Thiên thể đưa ra. Ví dụ: Ta đang đi trên đường bằng một chiếc xe cà tàng, bỗng nhìn thấy một chiếc xe cực đẹp lướt qua. Tất cả mọi người đều nhìn theo, trầm trồ đầy vẻ thèm muốn. Những hình ảnh đó đập vào mắt ta, tác động vào Vía Thiên thể, Vía Thiên thể bắt đầu dao động, mỗi lúc một mạnh thêm và ta chợt thấy thèm muốn có một chiếc xe như vậy. Càng nhìn chiếc xe cũ của mình, ta lại càng ham muốn có được chiếc xe vừa đẹp, vừa tốt kia. Sự thèm muốn đó bắt đầu âm thầm thiêu đốt ta, đi đâu ta cũng nhìn xung quanh xem người khác đi xe gì và rồi cảm giác hình như cả thiên hạ đều đi xe đẹp, chỉ mình ta có chiếc xe cà tàng này thôi. Từ đó trở đi, ruột gan ta như có lửa đốt, không lúc nào yên. Những tín hiệu đó lập tức chuyển sang Vía Hạ trí, mỗi lúc một mạnh hơn và Vía Hạ trí bắt đầu hoạt động. Nó nhanh chóng tính toán, cân nhắc, xem hiện tại có bao nhiêu tiền? Còn thiếu bao nhiêu? Làm thế nào để có được số tiền cần thiết ấy?
Tùy thuộc vào bản chất tâm tính của mỗi cá nhân, Vía Hạ trí sẽ đưa ra những kết luận khác nhau. Ở những kẻ lưu manh, hạ đẳng, tâm linh không phát triển, Vía Hạ trí của họ sẽ không bị Tâm linh cản trở, Vía Hạ trí sẽ đưa ra ngay một kế hoạch để đạt ngay mục đích, còn hậu quả thế nào chẳng cần để ý. Ở những kẻ này, hai thể Tuệ tâm và Thiện tâm gần như không lên tiếng, vì tâm linh rất mờ nhạt, không hoạt động. Còn ở những người đứng đắn, tâm linh phát triển hơn thì cách xử sự lại khác. Sau khi bị Vía Thiên thể tác động, cũng như bao người khác, họ cảm thấy khao khát muốn sở hữu một chiếc xe như thế. Những tín hiệu ham muốn đó nhanh chóng chuyển sang Vía Hạ trí. Vía Hạ trí của họ cũng bắt đầu tính toán và đưa ra các phương án để lựa chọn. Tất nhiên trong các phương án của Vía Hạ trí cũng có những trò lưu manh để có được số tiền cần thiết. Nhưng sự khác biệt là ở chỗ, trong khi lựa chọn các phương án huy động tiền sẽ có sự tham gia rất đúng lúc và đầy trách nhiệm của hai thể Tâm linh là Thiện tâm và Tuệ tâm. Hai thể Tâm linh này sẽ vẽ ra trước mắt người đó cả cái hay lẫn cái dở của từng phương án. Chúng sẽ đặt ra trước họ hàng loạt câu hỏi về trách nhiệm, đạo đức, danh dự và bắt họ phải trả lời. Từ đó họ sẽ kiềm chế được ham muốn và đưa ra lựa chọn đúng đắn.
Sau những ý kiến của Tâm linh, những ham muốn cháy bỏng do Vía Thiên thể đưa ra, sẽ từ từ bị hai thể Tuệ tâm và Thiện tâm làm cho nguội lạnh. Kết luận cuối cùng bao giờ cũng sẽ chính xác, nếu như có sự tham gia của Tâm linh. Tất nhiên, trong suốt quá trình đó Vía Thiên thể chẳng bao giờ ngừng thúc giục Vía Hạ trí đưa ra hành động để thỏa mãn những thèm muốn vật chất đó. Thành thử, trong mỗi con người luôn luôn diễn ra các cuộc đấu tranh, giằng co giữa Tâm linh và Vía, giữa nhân tính và dục vọng, giữa khát vọng cao cả với dục vọng tầm thường. Tâm linh hay Vía sẽ thắng? Điều này phụ thuộc vào sự phát triển về Tâm linh ở mỗi con người. Phần nào thắng sẽ có cách hành động và xử sự của thân xác tương ứng với một người tử tế hay một kẻ hạ đẳng.
Mặt khác, Vía Thiên thể cũng có những mặt rất tích cực của nó. Bản chất của hoạt động Vía Thiên thể là tạo ra hứng thú, say mê, khát vọng và đam mê. Khi những khát vọng và đam mê được đặt vào những mục đích đúng đắn, tích cực, nó sẽ tạo ra những sự nghiệp lớn lao để phụng sự nhân loại. Con người có năm giác quan, từ năm giác quan này con người đã tạo ra rất nhiều nền nghệ thuật để thưởng thức. Trong tất cả các hoạt động nghệ thuật, vai trò chủ đạo vẫn là hoạt động của Vía Thiên thể, như một tác nhân tạo ra hứng thú, say mê, cuốn hút, sau mới đến hoạt động của Vía Hạ trí, tính toán thực hiện. Nếu thiếu sự đam mê, khát vọng, sẽ không thể có được các nghệ sĩ, không thể có các tác phẩm nghệ thuật.
Qua đó ta thấy hoạt động tương quan rất chặt chẽ giữa các lớp cơ thể: thể Vía, thể Xác và Tâm linh. Ngoài ra, ở thể Vía cũng như thể Xác và Tâm linh còn có các bộ nhớ, các file lưu giữ tất cả các sự kiện trong cuộc đời. Ở thân xác, bộ nhớ nằm ở từ trường não bộ. Ở Tâm linh và Vía cũng có các bộ nhớ riêng, lưu giữ bằng từ trường sinh học ở Vía Thiên thể và ở thể Trân tâm. Khi diễn ra một sự kiện quan trọng nào đó (liên quan đến vấn đề nhân văn), sự kiện đó lập tức được ghi ngay vào cả ba bộ nhớ. Những dữ liệu lưu ở não bộ sẽ dùng để phục vụ cho thân xác. Các dữ liệu lưu ở Vía sẽ phục vụ cho con người trong giai đoạn sống ở cõi Trung giới, sau khi thân xác chết đi. Còn những dữ liệu lưu ở Tâm linh sẽ giúp cho quá trình đầu thai sau này ở các kiếp sau. Rất nhiều hiện tượng cụ thể minh chứng cho điều này. Sau khi chết, thân xác con người được chôn xuống đất và bị phân hủy. Não cũng bị phân hủy không còn tồn tại. Vía và Tâm linh thoát ra khỏi thân xác đã chết ấy vẫn tồn tại trong Vũ trụ, vẫn tìm cách liên lạc với người sống để truyền đạt, thông báo những tình cảm, những suy tư, tính toán của mình, những ý kiến để giải quyết những vấn đề còn khúc mắc và dang dở.
Theo trang Khoa học.com.vn, năm 2008, tạp chí Sức khỏe đời sống Pravda của Nga có đăng những câu chuyện gây sốc như có đến hàng trăm trường hợp không có não, hoặc não bị tổn thương, hoặc bị hủy hoại nặng nề, vẫn sống được bình thường. Thậm chí có những người còn học hành rất giỏi, có chỉ số IQ rất cao (trên 120).
Năm 1935 khi điều trị cho một sinh viên khoa Toán của Đại học Sheffiend, lúc xem phim chụp CAT - Scan não, giáo sư Lorber phát hiện ra trong hộp sọ của sinh viên này hoàn toàn không có não. Chỉ có một lớp mỏng mô não chưa đến 1 mm phủ trên đỉnh cột sống chỗ nối với hộp sọ. Người sinh viên này vẫn sống bình thường, học lực xuất sắc, từng đạt học vị danh dự ngành Toán. Chỉ số IQ của anh ta rất cao, là 126. Năm 1950, anh này qua đời ở tuổi 35 vì bệnh tim và một số bệnh khác. Khi mổ tử thi, các bác sĩ một lần nữa xác nhận, người này hoàn toàn không có não.
Cũng trên tạp chí Sức khỏe và đời sống Pravda từng đăng một tài liệu lịch sử có ghi lại một sự kiện hy hữu gây tranh cãi đến tận bây giờ. Năm 1636, vua Ludwig xứ Bavaria ra lệnh xử trảm Dietze Von Schaumburg và bốn đồng phạm khác vì âm mưu nổi loạn chống lại triều đình. Trước giờ hành quyết, nhà vua cho phép Dietze được nói nguyện vọng cuối cùng. Dietze xin nhà vua cho bốn tử tù đứng xếp hàng ngang, trong khoảng 8 mét. Dietze sẽ bị chặt đầu trước tiên. Nếu sau khi bị chặt đầu mà anh vẫn chạy đến gặp cả bốn bạn tù, thì xin nhà vua tha chết cho bốn tử tù kia. Vua Ludwig đồng ý. Dietze quỳ xuống, kê đầu lên thớt trảm và đao phủ xuống đao. Đầu Dietze rơi xuống đất. Anh vùng đứng dậy chạy lại trước mặt từng tử tù rồi ngã gục xuống chết trước người tử tù cuối cùng. Quá kinh ngạc, nhà vua đã thực hiện lời hứa tha mạng cho bốn tử tù kia.
Qua những chuyện kể trên, ta phải đặt ra câu hỏi, liệu bộ não con người có phải là nơi diễn ra những tính toán, tư duy, là nơi diễn ra những tình cảm yêu thương, hay hờn ghen, oán ghét, là yếu tố quyết định sự thông minh, tài năng, hay ngu độn?
Ở Việt Nam, những chuyện như thế diễn ra thường xuyên. Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng con người tại số 1, phố Đông Tác, Kim Liên, Hà Nội, cũng như tại nhà một số bà đồng, các nhà ngoại cảm ở nhiều tỉnh thành, vẫn hàng ngày giúp cho hàng trăm gia đình có dịp để nói chuyện với người nhà đã chết. Chuyện gọi hồn, nói chuyện với những người đã chết là có thật. Nhưng cũng có nhiều kẻ bịp bợm đã lợi dụng chuyện này để kiếm tiền. Ở đây chúng ta sẽ không đề cập đến những kẻ bất lương, lợi dụng việc này để bịp bợm, dối trá, làm tiền. Nhưng nếu vì những kẻ này mà phủ nhận một hiện thực khách quan, có thật, thì rất sai lầm.
Chúng ta nên tìm hiểu nghiên cứu kỹ những hiện thực này để hiểu rõ hơn về những giai đoạn sống sau cái chết của thân xác. Tại số 1 phố Đông Tác, nhiều gia đình tìm đến để được trò chuyện với người thân quá cố của họ. Tôi đã đến đây nhiều lần cùng nhiều người thân trong gia đình để nghiên cứu về hiện tượng này cũng từng được chuyện trò với mẹ tôi và những người thân đã quá cố khác.
Trong một hội trường rộng có trải rất nhiều tấm chiếu lớn. Mỗi gia đình có khoảng năm đến bảy người ngồi một chiếu. Đại diện của từng gia đình sẽ tự khấn tên những người quá cố trước một ban thờ kê trong hội trường đó. Khi trên loa thông báo các vong bắt đầu về, mọi người đều lầm rầm khấn tên những người quá cố mà gia đình đang muốn mời về nói chuyện. Một lúc sau, các vong bắt đầu về, nhập vào một người thân nào đó trong gia đình. Những tiếng khóc, tiếng cười bắt đầu nổi lên. Những cuộc nói chuyện đẫm nước mắt từ các gia đình mỗi lúc một rôm rả. Qua các cuộc nói chuyện này, chúng ta thấy người chết vẫn suy nghĩ, tính toán như người sống, có phần còn chính xác và tinh anh hơn người sống. Bản thân tôi (tác giả cuốn sách này) được chứng kiến và tham gia vào rất nhiều các cuộc nói chuyện với “người âm” như thế này, ở nhiều nơi khác nhau, để nghiên cứu và kiểm chứng. Trong đó có mấy chuyện rất đáng chú ý mà tôi muốn chia sẻ lại ở đây.
Một người cháu họ của tôi, khi còn sống có mua chung một căn nhà với một người họ hàng bên chồng. Cháu gái tôi có hai phần tiền trong đó, còn người kia có một phần tiền. Cả hai góp tiền mua chung căn nhà để kinh doanh riêng và đều giấu chồng. Hai bên thỏa thuận là cháu tôi sẽ đứng tên, còn người kia giữ giấy tờ. Như vậy là công bằng, để cả hai có thể yên tâm. Không may sau đó cháu tôi bị bệnh ung thư và qua đời, không kịp nói chuyện căn nhà kia cho chồng biết. Một thời gian sau, người cô kia đến gặp cháu rể tôi hỏi:
- Lúc vợ cháu còn sống, nó có nói gì với cháu về căn nhà số… ở phố… không?
- Không ạ. Căn nhà đó là thế nào hả cô?
- À, đó là căn nhà cô mua, nhưng cô không muốn cho chồng cô biết, nên cô nhờ vợ cháu đứng tên, nhưng giấy tờ thì cô vẫn giữ. Bây giờ cô cần tiền, cô muốn bán, nhưng tên lại là tên vợ cháu, thành thử không bán được.
- Thế thì cô cứ đưa giấy tờ cho cháu, cháu sẽ chuyển tên sang cho cô, để cô bán.
- Ừ thế thì tốt quá! Cô cảm ơn cháu.
Và người kia đưa giấy tờ cho cháu rể tôi làm thủ tục sang tên. Trong quá trình làm các thủ tục sang tên gặp khá nhiều trục trặc khách quan. Đúng thời gian đó, có một người họ hàng rủ cả nhà đi “gọi hồn” ở Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng con người, số 1, phố Đông Tác, Hà Nội. Cuộc gọi hồn đó, không hiểu sao người kia cũng xin đi theo để xem. Và tất nhiên là có mặt cả cháu rể tôi. Hồn cháu gái tôi về nhập ngay vào một người em họ có mặt ở đó. Cháu gọi ngay tên bà cô bên chồng kia và nói chuyện ngay với người đó trước sự ngỡ ngàng của cả nhà:
- Cô ạ, hồi cháu còn sống, cháu và cô có mua chung căn nhà nhỏ ở số… phố… Cháu có… ngàn đô, là hai phần tiền. Cô có… ngàn, là một phần ba giá trị căn nhà. Cháu và cô có thỏa thuận là cháu đứng tên, còn cô giữ giấy tờ cho cả hai được yên tâm. Khi nào bán, được bao nhiêu thì sẽ chia theo tỷ lệ cháu hai phần, cô một phần. Nếu bây giờ cô cần tiền, cô bảo chồng cháu cùng cô rao bán, xem người ta trả giá bao nhiêu, chồng cháu sẽ trả cô tiền cả gốc lẫn lãi theo tỷ lệ bỏ vốn. Cô ạ, khi cháu bị bệnh, chồng cháu đã phải bán cả căn nhà riêng của bọn cháu để chạy chữa, nên hiện tại mấy bố con không có nhà ở, đang phải ở nhờ nhà mẹ đẻ cháu. Vì thế cháu muốn giữ lại căn nhà này cho mấy bố con ở.
Tất cả mọi người có mặt hôm ấy đều sững sờ, nhất là cháu rể tôi. Không ngờ câu chuyện lại là như vậy. Rất may là thủ tục giấy tờ sang tên cho người cô kia chưa kịp hoàn tất. Câu chuyện cuối cùng đã được giải quyết một cách êm thấm, như đề nghị của cháu gái tôi và không để người ngoài biết.
Một câu chuyện có thật khác, liên quan đến người học trò của tôi. Cậu học trò tôi có một người chú ruột hy sinh trong chiến tranh chống Mỹ nhưng chưa tìm được hài cốt. Nghe nói ở Hải Phòng có một người thanh niên có thể mời được các vong hồn về nói chuyện nên cả nhà người học trò tôi liền đến đó, mong được nói chuyện để tìm hài cốt của liệt sĩ kia. Sau khi thực hiện những nghi lễ cần thiết, ông chú người học trò của tôi về nhập vào một cô cháu gái đi cùng. Khi được hỏi về việc ông hy sinh thế nào, hiện hài cốt ở đâu, ông cho biết: Ông làm lính thông tin và hy sinh trong một trận chiến ác liệt tại xã… huyện… tỉnh…. Một đồng đội đã buộc dây ngang ngực ông, kéo ông ra một bờ suối tại ấp…, và chôn ông cạnh một tổ mối ở đó. Ông còn kể, do người đồng đội chôn vội nên mộ rất nông, thậm chí một bàn chân còn nhô lên trên mặt đất, đến đêm bị lợn rừng ra đào ăn. May là một người dân nhìn thấy nên đã chôn lại và đắp thêm đất đầy lên mộ ông cho thú rừng không đào được. Trong cuộc gọi hồn, ông nhờ hai người cháu đi tìm và đưa ông về quê. Ông dặn, đúng ngày… tháng… năm… thì đi và cứ yên tâm là bạn bè, đồng đội của ông sẽ đón tiếp, giúp đỡ và sẽ mua vé máy bay cho ông cùng mọi người về Hải Phòng, chứ không phải đi tàu. Ông căn dặn, khi vào Sài Gòn hãy gọi điện cho đồng đội của ông theo số điện thoại mà ông cung cấp. Khi đến cánh rừng thuộc địa phận xã… sẽ gặp một người đàn bà mặc quần áo đen. Cứ hỏi, người này sẽ giúp tìm ra nơi chôn cất. Sau khi thấy hài cốt rồi, bạn bè, đồng đội của ông sẽ lo thủ tục máy bay chở về, người nhà không phải lo. Tôi cho người học trò mượn một máy quay video để quay toàn bộ hành trình đi tìm hài cốt. Sau đó sẽ đối chiếu sự kiện với nội dung cuốn băng ghi âm khi gọi hồn xem có đúng không. Kết quả từng sự kiện khi đi tìm hài cốt về sau gần khớp với nội dung cuốn băng ghi âm cuộc gọi hồn cách đó hai tháng. Chỉ có điều khi gặp người phụ nữ mặc áo đen, thì người chú liệt sĩ kia không nhập vào người cháu để chỉ bảo nữa. Người đàn bà chỉ đưa mọi người đến được vùng đất xảy ra trận đánh, chứ không biết vị trí ngôi mộ. Mọi người đào khắp nơi vẫn không gặp được ngôi mộ. Hóa ra, thấy hàng trăm đồng đội vẫn còn bơ vơ ở đó, ông không nỡ bỏ lại đồng đội. Sau hai ngày trời yên lặng, thấy gia đình quyết tâm tìm bằng được, vả lại những đồng đội (đã chết) cũng khuyên nhủ ông nên về với gia đình, ông mới tiếp tục nhập vào người nhà, chỉ đúng chỗ ông nằm. Khi đào lên, bộ hài cốt vẫn còn nguyên hình nhưng động đến thì vụn như cát, vì mối xông đã ăn gần hết cả xương. Người nhà buộc phải bốc cả vụn xương lẫn đất đem về. Trước khi về quê, ông còn nhập hồn vào một người và dặn dò, khi về đến nhà nhớ xin phép Thổ địa cho các đồng đội của ông được vào nhà, vì họ đi theo ông về chơi đông lắm và xin phép Thổ địa cho ông được ở nhà một ngày, một đêm, trước khi đưa ra nghĩa trang liệt sĩ.
Một câu chuyện khác tôi được chứng kiến và khá ấn tượng cũng là hành trình đi tìm hài cốt liệt sĩ. Bạn tôi có một người anh trai hy sinh ở Trường Sơn, nhưng không biết cụ thể ở đâu. Nghe tin nhiều người đi “gọi hồn” ở Nghệ An và đã tìm thấy hài cốt. Bạn tôi cũng gọi hồn người anh trai, để hỏi han và bảo anh chỉ chỗ để đi tìm hài cốt, đưa về quê. Sau khi vào Nghệ An gọi hồn, vong của người anh lên nhập vào con trai thứ hai của bạn tôi. Tên tuổi của những người thân trong gia đình và dòng họ anh ta đều nói đúng. Bạn tôi quyết định chọn sáu người khỏe mạnh đi tìm hài cốt anh mình. Mọi người sẽ gọi hồn người liệt sĩ, rồi nhờ anh chỉ lối, đưa đường để đi tìm hài cốt của anh đưa về quê. Suốt một tháng trời, ngày nào anh cũng nhập vào cháu trai, hỏi thăm từng người trong gia đình, họ hàng, làng xóm, nhưng tuyệt nhiên không đả động gì đến hài cốt của anh ở đâu. Bạn tôi nóng lòng quá, buộc phải gay gắt với người quá cố. Cuối cùng anh ta buộc phải chỉ chỗ. Hôm sau tất cả lên đường. Sau gần một tuần vất vả, mọi người mới đến được một bản nhỏ ở sâu trong rừng núi Trường Sơn. Vượt gần một ngàn cây số đường hiểm trở mới vào đến nơi. Đột nhiên người anh trai của bạn tôi không nhập vào cháu trai như mọi ngày nữa. Mọi người trong đoàn tìm mộ của bạn tôi trở thành bơ vơ trong rừng hoang vắng. Mọi người lấy ảnh của anh ra đi tìm và hỏi những người dân địa phương. Nhìn bức ảnh, có những người dân địa phương nhận ra ngay anh bộ đội từng quen biết ngày xưa. Họ còn nhớ anh hy sinh như thế nào và được dân làng chôn cất ở một góc rừng, nhưng không ai còn nhớ chính xác vị trí. Bạn tôi gọi điện cho tôi, hỏi xem nên xử lý thế nào. Tôi khuyên nên dùng phương pháp cảm xạ học (đũa thần) mà tôi đã hướng dẫn cho bạn tôi trước khi lên đường. Theo phương pháp này, cả đoàn đã đào thấy tăng, võng, bi đông, bát sắt, thìa, quần áo, nhưng không thấy hài cốt. Tôi bảo bạn tôi rằng có thể ai đó đã bốc hài cốt, đem quy tập vào nghĩa trang liệt sĩ rồi, hãy thử hỏi dân địa phương xem nghĩa trang liệt sĩ gần nhất ở đâu, cứ đến đó dùng phương pháp cảm xạ học tìm ở khu những ngôi mộ vô danh. Theo lời tôi cả đoàn tìm đến nghĩa trang liệt sĩ cách đó 30 km. Sau khi dùng cảm xạ học tìm kiếm, thấy “đũa thần” báo có tại một ngôi mộ vô danh, nhưng chẳng ai dám chắc. Bạn tôi lại gọi điện ra Hà Nội cho tôi. Tôi bảo bạn tôi thắp hương ở đài liệt sĩ khấn “đồng chí chỉ huy’’, nhờ đồng chí yêu cầu bộ đội tên là Nguyễn văn Tiến quê quán tại… phải về gặp gia đình nói chuyện đàng hoàng, không thể xử sự như thế này được. Sau khi khấn xong được mấy phút, lập tức anh trai bạn tôi nhập ngay vào đứa cháu trai. Mọi người nín thở theo dõi từng động thái của vong. Anh ta lò dò đi dọc từng hàng mộ, đến từng ngôi. Cuối cùng, khi đến bên ngôi mộ mà bạn tôi tìm thấy trước đó bằng phương pháp cảm xạ, anh ta ngồi sụp xuống, ôm lấy ngôi mộ đó. Mấy phút sau anh mới mếu máo kể lại vì sao anh phải trốn mọi người. Thì ra anh bị lạc mất hài cốt của mình mấy năm rồi, không tìm lại được. Hồi chiến tranh, nhóm của anh có ba người. Anh và một người bạn hy sinh. Người thứ ba sống sót. Năm 2006, người đồng đội đó quay trở lại chiến trường xưa bốc mộ hai người bạn chiến đấu đưa vào nghĩa trang liệt sĩ, vì lo về sau anh đau yếu không vào được Trường Sơn xa xôi nữa sẽ không ai biết mộ các bạn đồng ngũ mình ở đâu. Bản thân anh cũng chẳng biết gia đình hai người bạn mình ở huyện, tỉnh nào, mà báo tin. Một mình anh lầm lũi đào xới, cũng chẳng khấn gì các bạn. Hôm đó vong hai người lại đi chơi. Khi tìm được hài cốt các đồng đội, người kia lặn lội đi bộ 30 km, đưa được vào nghĩa trang địa phương và có báo cho người quản lý nghĩa trang ghi tên hai người, nhưng không nhớ được họ và quê quán. Vì vậy, mộ hai người cũng chẳng có bia. Khi vong hồn anh trai bạn tôi đi chơi trở về, thì phần mộ của mình đã không còn hài cốt nữa. Từ đó anh bị mất hài cốt, không biết di hài của mình ở đâu. Vì thế, nên khi các em muốn anh chỉ đường để đi tìm, anh cứ phải loanh quanh, lẩn tránh. Anh buộc phải lặng lẽ đi theo đoàn các em vào đến nghĩa trang. May gặp được vong của người chỉ huy ở nghĩa trang kể lại đầu đuôi câu chuyện người bạn chiến đấu năm xưa đã đưa hài cốt của hai người về đây, anh mới tìm lại được hài cốt của mình. Kể đến đây anh còn đọc cho bạn tôi ghi một địa chỉ và nhờ em mình (bạn tôi) tìm đến địa chỉ này, là gia đình của người bạn cùng hy sinh một ngày, mộ hiện đang ở ngay bên cạnh. Sau khi trở về, theo yêu cầu của anh trai, bạn tôi đã tìm về tỉnh Thái Bình, đến đúng địa chỉ mà anh đã đọc cho ghi. Thật đáng tiếc, gia đình người liệt sĩ kia chẳng còn ai. Vợ anh đã đi lấy chồng nơi khác. Hai người con gái đi làm cửu vạn ở biên giới Lạng Sơn và đã lấy chồng ở đấy, không thấy về quê nữa. Ngôi mộ của anh sẽ vĩnh viễn nằm lại ở nghĩa trang xa xôi này và chắc là sẽ chẳng có ai đến thăm viếng anh nữa.
Qua những câu chuyện vừa kể, ta thấy sau khi chết, não đã bị phân hủy, hài cốt cũng chẳng còn, nhưng “con người tâm linh” vẫn tồn tại, vẫn còn yêu thương, vẫn nhớ nhung, đau khổ, vẫn tư duy, suy nghĩ, tính toán. Chính phần Vía và Tâm linh mới là nơi thực hiện các hoạt động tính toán, suy tư, yêu, ghét như một bộ vi xử lý (CPU), còn não bộ chỉ là cái màn hình (monitor) hiển thị các suy nghĩ, tính toán đó. Khi não bộ bị hỏng, hoặc tiêu vong, các phép tính toán sẽ không hiển thị lên ở thể xác được nữa, nhưng các hoạt động tình cảm, tính toán, suy tư ở thể Vía và Tâm linh vẫn tiếp tục diễn ra. Ở cõi Trung giới, vong sẽ không thể liên lạc thông tin được với những người thân ở cõi Hồng trần. Những trường hợp cần thiết vong buộc phải tìm cách nhập vào những người có tần số thích hợp, mượn “màn hình” của họ cùng tai nghe và giọng nói, để trao đổi thông tin với người thân. Việc làm của con trai bạn tôi, hay của các nhà ngoại cảm, như nhiều người vẫn thường gọi, thực ra cũng như vậy. Vì họ có tần số thích hợp để vong dễ nhập, nên vong thường nhập vào, mượn não bộ và thân xác của họ để nói chuyện, trao đổi thông tin. Chỉ có điều, việc này vẫn phải kiểm chứng, vì các nhà ngoại cảm vẫn bị các vong lừa dối mà không biết. Bản thân các nhà ngoại cảm làm sao phân biệt được vong này có đúng là người này hay người kia đâu. Vong làm gì có hộ chiếu kèm ảnh, để mà nhận diện, kiểm chứng.
3
LUẬT “ĐỒNG THANH TƯƠNG ỨNG, ĐỒNG KHÍ TƯƠNG CẦU” Ở THỂ VÍA
Âm thanh cùng thang bậc thì cộng hưởng, vật cùng đồng chất thì thu hút nhau. Nói theo thuật ngữ khoa học thì: Âm thanh cùng tần số thì cộng hưởng, vật chất cùng tần số thì hút nhau. Đây là định luật bất di bất dịch của Vật lý nói chung và đối với thể Vía nói riêng. Khi hai con người gặp nhau thì hai thể Vía Thiên thể (hai trường điện từ sinh học) của họ cũng bắt đầu giao tiếp với nhau. Nếu có tần số tương đồng, hai thể Vía này bắt đầu rung động, mỗi lúc một mạnh dần, và hút nhau (xem hình vẽ trang sau). Nếu hai người có thể Vía cùng tần số, thì ngay từ phút đầu gặp mặt, họ đã cảm thấy có thiện cảm và thấy thích nhau. Càng tiếp xúc với nhau họ càng cảm thấy thân thiết, quý mến nhau hơn. Nếu là đồng giới, họ sẽ trở thành những người bạn thân, càng quan hệ lâu, họ sẽ càng gắn bó khăng khít và trở thành bạn bè tâm giao cả đời với nhau. Nếu khác giới, họ sẽ có luyến ái và rất có thể sẽ nảy sinh những “mối tình sét đánh”, rất dễ tiến đến hôn nhân, để trở thành vợ chồng.
Trong chuyện này có vai trò của Vía Mental (Tính toán) tham gia. Có khi Vía Astral hợp tần số, nên lúc đầu hút nhau, nhưng Vía Mental lại không hợp, nên lại đẩy nhau. Thành thử, nhiều trường hợp lúc mới gặp hai người rất mến nhau, nhưng càng tiếp xúc, vì Vía Mental không hợp, nên hai người bắt đầu thấy chênh nhau về các cách suy nghĩ, tính toán. Càng quan hệ lâu, họ càng không muốn gần nhau thêm nữa.
Ngược lại, một trường hợp lúc đầu hai người mới gặp nhau, Vía Astral không hợp tần số, nên họ cảm thấy có ác cảm, nhưng càng có điều kiện tiếp xúc với nhau, họ lại thấy cách suy nghĩ, tính toán của hai người là giống nhau, vì họ có hai thể Vía Mental hợp nhau. Dần dà họ lại trở thành bạn bè.
Trường hợp hai người đang ở bên nhau, mà hai thể Vía không tương đồng, tần số không hợp, thì hai Vía sẽ đẩy nhau (xem hình vẽ bên dưới).
Hai người có Vía không hợp nhau này dù mới lần đầu gặp mặt cũng đã cảm thấy khó chịu, có ác cảm về nhau. Nếu là những người lịch sự, họ vẫn bắt tay, chào hỏi, nở những nụ cười gượng gạo. Nhưng trong lòng họ muốn mau mau kết thúc cuộc gặp. Còn nếu họ là những người xa lạ, tần số của Vía lại tương phản quá lớn, họ sẽ không cần đếm xỉa đến phép tắc lịch sự, có thể ngay từ cái nhìn đầu tiên đã có thể dẫn đến xung đột, thậm chí ẩu đả. Đây là chuyện thường gặp trong cuộc sống.
Hiểu được luật này, ta hiểu rằng mình phải làm chủ thể Vía chứ đừng để thể Vía chi phối, điều khiển ta. Hiểu được bản chất vấn đề cũng giúp ta cảm thấy bớt khó chịu hơn, và chắc chắn sẽ không xảy ra những chuyện đáng tiếc. Gặp một người Vía không hợp với ta như vậy, tốt nhất hãy nhủ thầm: “Người này có Vía không hợp với mình đây!”. Lập tức ta sẽ chủ động hoàn toàn trong giao tiếp, bỏ qua những cảm xúc ban đầu mà thể Vía tạo ra và ta sẽ bớt khó chịu ngay.
Đây cũng chính là nguyên nhân bất hạnh của rất nhiều cặp vợ chồng. Người này hợp người kia, nhưng lại không hợp người nọ. Nguyên nhân chính là do tần số của thể Vía không hòa hợp. Làm chủ được thể Vía, là ta sẽ làm chủ được cảm xúc, làm chủ được những nghĩ suy.
Ngoài chuyện cảm xúc, khi hai thể Vía có tần số phù hợp gặp nhau cũng truyền cho nhau năng lượng một cách dễ dàng. Khi hai người thân nhau (có hai thể Vía cùng tần số), mà một trong hai người bị đau ốm, người kia năng lui tới thăm hỏi, người ốm sẽ cảm thấy rất dễ chịu và chóng bình phục. Nhiều người vẫn lầm tưởng việc này là do tâm lý. Nhưng thực chất khi hai từ trường Vía có cùng tần số giao thoa với nhau, năng lượng từ hai thể Phách sẽ nhanh chóng được truyền từ người khỏe sang người yếu thông qua thể Vía. Thể Vía lúc này đóng vai trò làm cầu năng lượng, chuyển năng lượng từ người mạnh sang yếu. Vì thế mà người yếu cảm thấy dễ chịu và khỏe lên, chứ không phải chỉ do yếu tố tâm lý. Ngược lại, một người ốm, mà phải sống giữa những người không hợp Vía, sẽ cảm thấy vô cùng khó chịu, năng lượng không được cải thiện và rất lâu lành bệnh, cho dù những người khác vẫn nhiệt tình chăm sóc. Vì vậy, khi ai đó bị đau yếu, ta nên thông báo cho những người ruột thịt trong gia đình, bạn bè thân thiết (những người hợp Vía) đến thăm nom, người ốm sẽ rất chóng khỏe. Nên nhớ, tuy ruột thịt trong một gia đình vẫn chưa chắc đã hợp Vía. Tần số của Vía và Tâm linh không di truyền. Thành thử mới có câu: “Cha mẹ sinh con, trời sinh tính!”.
Một câu nói khác cũng phản ảnh đúng hiện tượng này là “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”. Những người có cùng tần số thể Vía rất dễ gặp nhau, dễ bị lôi cuốn đến với nhau. Những người này chỉ mới nhìn nhau là đã nhận ra nhau rồi. Ví dụ, những người dị tính rất khó phân biệt những người đồng tính luyến ái, nhưng cùng là người đồng tính chỉ nhìn thoáng qua là nhận ra nhau ngay.
Những người tốt bụng cũng rất hay gặp gỡ và gần nhau, hay lập ra các hội từ thiện, hội tương thân, tương trợ để giúp đỡ người nghèo khó.
Những người xấu tính, hay những kẻ lưu manh tìm nhau còn nhanh hơn nhiều. Họ rất dễ tìm ra nhau và rất nhanh kết thành băng đảng. So với người tử tế, thì kẻ xấu kết bè, kết đảng có phần nhanh hơn.
Những người tử tế và những kẻ lưu manh rất ngại gặp nhau. Trong thâm tâm những người này, họ tự động chẳng muốn gặp mặt, vì tần số Tâm linh của họ rất trái ngược nhau. Nếu bắt buộc phải gặp nhau, thì đó chắc chắn chỉ là những cuộc gặp miễn cưỡng. Sau những cuộc gặp mặt không mong muốn đó, nếu không vì những lý do bắt buộc nào đó, chắc chắn họ không bao giờ có nguyện vọng gặp lại.
4
HIỆN TƯỢNG THẦN GIAO CÁCH CẢM HAY LINH CẢM
Hiện tượng này thường xuyên xảy ra trong cuộc sống hàng ngày. Có những người thân lâu lắm ta không gặp mặt và cũng không có liên lạc, đột nhiên một hôm ta chợt nghĩ đến họ, thế rồi một vài giờ sau họ đến thăm ta thật. Cũng có khi, mấy tiếng sau ta nhận được tin báo họ vừa qua đời. Nhiều người có những linh cảm rất rõ nét, như trường hợp nhà bác học người Nga Lômônôxốp. Khi đó ông đã có gia đình, đang sống và làm việc tại Viện Hàn lâm Nga ở Matxcơva. Một đêm ông mơ thấy cha ông là một ngư dân ở vùng Cực Bắc xa xôi đến nhà thăm ông. Ông lão đánh cá đứng ở đầu giường nhìn Lômônôxốp và nói bằng một giọng rất buồn: “Con trai ơi, cha đã chết rồi. Thuyền của cha bị đắm ở gần hòn đảo không tên. Xác cha cùng những người khác đã dạt vào hòn đảo đó… Cuộc đời ngắn ngủi quá con nhỉ!”. Lômônôxôp vã mồ hôi tỉnh dậy. Ông linh cảm thấy điều chẳng lành, vội thu xếp hành lý để về quê ngay. Thời ấy không có điện tín, thư từ phải chuyển bằng ngựa trạm. Muốn biết thông tin, chỉ còn cách lên đường về quê. Quả nhiên, khi về đến nhà, ông mới hay tin, toàn bộ các ngư dân trên con thuyền đánh cá bất hạnh đã không trở về. Không ai biết thuyền của những người đánh cá xấu số đó bị đắm ở vùng biển nào. Lômônôxốp đã nói cho họ biết, đó là hòn đảo không tên. Ông cùng mọi người bơi thuyền ra đảo xem sao, và đúng như giấc chiêm bao, xác của cha ông cùng những ngư dân khác đã dạt vào hòn đảo đó.
Lý giải chuyện này như thế nào? Hoạt động suy nghĩ, xúc cảm diễn ra ở thể Vía và Tâm linh cũng như ở cả hai thể này đều tồn tại ở dạng trường sóng hạt, nghĩa là khi cảm xúc cùng suy nghĩ, thể Vía và Tâm linh của con người đều phát sóng. Cảm xúc cao cả và tư duy sâu sắc mang tính triết lý, tính nhân văn sẽ do thể Tâm linh thực hiện. Cảm xúc mang tính cá nhân, thân xác với những nghĩ suy, ưu tư, tính toán mang tính cá nhân sẽ do thể Vía thực hiện. Tất cả các hoạt động đó đều được phát sóng và truyền qua não bộ để thân xác biết và phối hợp hành động.
Khi thân xác đang tồn tại, cũng như khi thể xác đã chết, những hoạt động trên của thể Vía cũng như thể Tâm linh vẫn diễn ra bình thường. Vía và Tâm linh vẫn cứ hoạt động và vẫn phát sóng. Trong cùng một con người thì hoạt động của Vía và Tâm linh được truyền trực tiếp đến não bộ của thân xác. Với những con người khác nhau, tần số sóng của Tâm linh, của Vía và của thân xác chênh nhau đến hàng triệu lần, thành thử não bộ thuộc thân xác của người này không thể thu nhận được những nội dung phát sóng của Vía và Tâm linh người khác. Chỉ trong cùng một cơ thể, thì não bộ mới thu được những thông tin của Vía và Tâm linh của chính người đó truyền tải đến. Ngoài ra, những người thân trong gia đình, hoặc những người cùng huyết thống, nếu có tần số sóng của Vía và Tâm linh khá tương đồng, cũng sẽ có thể thu được phần nào những thông tin của Vía và Tâm linh người thân. Hiện tượng này thường được gọi là linh cảm, hay thần giao cách cảm. Nhưng ngược lại, phần Vía và Tâm linh của người đã chết (thân xác) lại có thể thu nhận được một cách dễ dàng (nghe, nhìn) những hình ảnh và thông tin của những người đang sống (thân xác), kể cả những người không quen biết. Vì khi suy nghĩ và nói năng, Vía và Tâm linh sẽ phát sóng, để truyền tín hiệu về não bộ. Những người đã chết về thể xác, cơ thể chỉ còn Phách, Vía và Tâm linh, sẽ thu được những tín hiệu sóng của Vía và Tâm linh những người khác một cách dễ dàng hơn.
Ngoài ra, có một số trường hợp, do yếu tố bẩm sinh hoặc bị tai nạn, những người này đã bị chết lâm sàng trong một khoảng thời gian nhất định nào đó, từ trường sinh học thân xác bị tạm ngắt khiến cho tần số dao động của sóng não bộ, thể Vía và Tâm linh của họ bị thay đổi. Tần số sóng não, tần số của Vía và Tâm linh sau khi hồi sinh rồi, vẫn không trở lại như những người bình thường. Tần số của họ bây giờ không quá chênh so với tần số Vía và Tâm linh của những người đã chết (thân xác), nên họ có thể cảm nhận được qua não những hình ảnh, hoặc thông tin từ thể Vía những người đã chết chuyển đến. Độ chính xác, độ nét phụ thuộc vào mức độ chênh của tần số giữa sóng não bộ, Tâm linh và Vía của người sống và người chết. Độ chính xác tối đa cũng chỉ đạt chừng 60 - 70%.
Xem lại chuyện xảy ra với nhà bác học Nga Lômônôxốp: Khi người cha bị chết, Vía và Tâm linh của ông thoát ra khỏi thân xác. Không gian tồn tại của Vía và Tâm linh bây giờ là thế giới đa chiều của sóng, chứ không phải là không gian ba chiều của thân xác trên Trái đất, trong thế giới ba chiều của vật chất thô như chúng ta vẫn quen thấy. Khi ông nghĩ đến người con trai đang sống và làm việc ở Matxcơva, ông muốn báo cho con ông biết là ông đã chết. Chỉ cần nghĩ đến thôi, lập tức Vía và Tâm linh ông đã di chuyển theo kiểu “sóng điện từ” đến ngay bên cạnh người con trai yêu quý của ông rồi. Việc này thậm chí còn nhanh hơn việc gọi điện thoại của chúng ta bây giờ hàng triệu lần. Trong thế giới đa chiều của sóng, khoảng cách không gian và thời gian không tồn tại. Vì hai người là cha - con, nên tần số sóng não, Vía và Tâm linh của Lômônôxốp so với tần số Vía và Tâm linh của người cha là khá tương đồng, nên khi ngủ, trường sinh học thân xác của Lômônôxôp tạm tắt, lúc đó Vía và Tâm linh của ông sẽ dễ dàng thu được tín hiệu từ Vía người cha thông báo việc đắm thuyền và xác những ngư dân dạt vào hòn đảo không tên. Sau khi Vía và Tâm linh của Lômônôxốp thu được những thông tin trên, đã truyền những thông tin đó đến não bộ và nhà bác học đã nhận được những thông tin cần thiết từ người cha và xử lý ngay những thông tin đó như chúng ta đã thấy. Kết quả là hoàn toàn chính xác.
Ở Nga, người ta đã từng làm những thí nghiệm như thế này: Họ cho hai người thân đến hai thành phố cách rất xa nhau. Một người ngồi ở thành phố này cầm một cỗ bài tây, còn người kia ngồi ở một thành phố khác sẽ phải ghi ra một tờ giấy những gì mà người ấy hình dung ra. Đúng giờ quy định, người cầm cỗ bài tây bắt đầu giở từng quân bài ra xem và đọc tên quân bài đó lên. Cũng tại thời khắc đã quy định ấy người kia, ở thành phố khác bắt đầu hình dung xem người thân đang làm gì và ghi lại vào tờ giấy. Kết quả khớp nhau đến 70 - 75%.
Hiện tượng thần giao cách cảm giữa những người đang sống xảy ra nhiều hơn giữa người chết với người sống. Ví dụ một người thân của ta đang bị ốm, hoặc gặp chuyện chẳng lành, ta sẽ thấy nóng ruột, cảm thấy trong người bất an, rất khó chịu, nhưng không thể lý giải được nguyên nhân. Nếu tần số giữa hai người càng tương đồng, ta có thể cảm nhận được ngay người nào đang có chuyện, thậm chí còn cảm nhận được chuyện gì đang xảy ra.
Hiện tượng thần giao cách cảm này xảy ra với bản thân tôi rất nhiều lần. Hồi đó đang còn chiến tranh, cha tôi đã mất, mẹ tôi đã nhiều tuổi ở nhà một mình. Tôi và các anh chị tôi bận công tác ở các tỉnh khác nhau. Hôm đó tôi cảm thấy nóng ruột vô cùng, người khó chịu đến mức không chịu nổi. Tôi không thể làm bất cứ việc gì. Tôi hết chạy ra, lại chạy vào, đứng ngồi không yên. Tôi chợt nhớ đến mẹ. Hay có chuyện gì xảy ra với mẹ tôi? Ngày đó điện thoại rất hiếm. Nhà mẹ tôi không có điện thoại nên không thể liên lạc được. Tôi liền lấy chiếc xe đạp, phóng một mạch mấy chục cây số về nhà thăm mẹ, xem có chuyện gì không. Về đến nhà, thấy mẹ tôi vẫn khỏe mạnh bình thường. Bà còn bảo tôi đi tắm, rồi ăn cơm chiều. Tôi hỏi thăm sức khỏe của mẹ. Bà bảo sức khỏe của bà bình thường, nhưng mấy hôm nay hơi nhâm nhẩm đau bụng, chắc ăn phải đồ lạnh. Thấy tình hình không có gì đáng ngại lắm, tôi liền đi tắm rửa, ăn cơm rồi đi ngủ sớm, để sáng mai quay trở lại cơ quan. Đến hai giờ sáng, chợt tôi nghe có tiếng đập cửa rất mạnh. Tôi bật dậy, nghe thấy tiếng mẹ tôi run run, yếu ớt bên ngoài cửa: “Mẹ đây… Con ơi mẹ đau bụng quá…”. Tôi vội chạy ra mở cửa, đỡ mẹ tôi vào giường. Mặt mẹ tôi tái nhợt vì đau. Tôi hỏi mẹ đau bên nào? Mẹ tôi chỉ bên phải. Tôi đoán là đau ruột thừa, nên vội chuẩn bị ít đồ dùng, rồi dìu mẹ tôi ra đường. Trời tối đen, phố xá vắng ngắt. Tôi chợt nhìn thấy một cảnh sát đang đi tuần tra. Tôi chạy lại kể rõ mọi chuyện và nhờ anh giúp đỡ. Anh cảnh sát rất nhiệt tình, bảo tôi cùng anh ra đứng ở giữa đường để chặn xe ôtô, xin đi nhờ đến bệnh viện Hà Nội. Mấy phút sau có ánh đèn pha ôtô, rồi một chiếc xe commanca xuất hiện. Anh cảnh sát ra hiệu dừng xe và nói với người lái xe. Người lái xe đồng ý ngay và nhảy xuống giúp chúng tôi đỡ mẹ tôi lên xe. Xe chở mẹ tôi đến bệnh viện kịp thời. Bác sĩ bảo, rất may là tôi đã đưa mẹ tôi đến bệnh viện kịp thời. Ruột thừa của mẹ tôi sắp vỡ. Tôi cứ nghĩ mãi, nếu hôm đó, tôi không bị nóng ruột, nếu tôi không về thăm mẹ, thì có lẽ mẹ tôi đã không qua khỏi hôm ấy rồi.
Xem lại câu chuyện trên, việc phát ra tín hiệu cấp cứu để tôi cảm nhận được và tìm về nhà, có thể là do Phách, Vía của mẹ tôi, song cũng có thể là Hồn, Vía của cha tôi, hay của một người thân quá cố nào đó đã phát tin cấp báo mà tôi là người cảm nhận được. Vì vậy chúng ta nên lắng nghe và cảm nhận những tín hiệu từ thế giới siêu hình. Hãy tin và kiểm chứng những tín hiệu đó. Đừng vội phủ nhận, kẻo sẽ là những chuyện dại dột và đáng tiếc.
5
HOẠT ĐỘNG CỦA THỂ VÍA KHI THÂN XÁC NGỦ
Ban đêm, khi não bộ bắt đầu được nghỉ ngơi trong một giấc ngủ sâu, thể Vía lúc này không phải hoạt động, không phải kết hợp nhịp nhàng cùng não bộ, nên cũng được nghỉ. Lúc này não bộ sẽ tạm ngắt liên lạc với các đường truyền dẫn từ thần kinh trung ương đến thân xác. Trường sinh học của não bộ hoạt động ở trạng thái nghỉ ngơi, duy trì, và thể Vía lúc này có thể tạm thời thoát khỏi sức hút của thân xác.
Bản chất thể Vía là một khối từ trường các hạt vật chất, lại mang tính sóng, lúc này không còn bị ràng buộc chặt chẽ với thân xác nữa, nên nó có thể thả mình chu du trong thế giới đa chiều của sóng. Vía có thể phiêu du trong ba cõi là: Trung giới, Thượng giới và phần dưới của cõi Bồ đề. Bản thân Vía có bộ nhớ riêng, độc lập, nên trong các cuộc phiêu du, Vía vẫn ghi lại tất cả những gì nó bắt gặp. Rất tiếc là tần số của Vía chênh với tần số của não bộ đến hơn 4, 5 lần, thành thử những “cảnh quay” này không thể hiện lên “màn hình” não bộ được. Chỉ thi thoảng những hình ảnh đó mới thấp thoáng hiện lên trong não bộ khi ngủ mà thôi. Vì thế, đôi khi có dịp ta đi đâu đó, đến những miền đất lần đầu tiên đặt chân, nhưng ta lại cảm thấy rất quen và thân thuộc như ta đã từng đến rồi. Ta thực sự không hề biết, Vía đã từng đến vùng này trước khi thân xác ta đến đó.
Nên nhớ, chính trong những cuộc phiêu du này Vía mới thực sự được nghỉ ngơi. Nó hoàn toàn được tách khỏi công việc. Nó không phải tiếp xúc với xã hội loài người, đầy những cám dỗ, những thèm khát, đầy những vấn đề phức tạp, nan giải. Và vì thế, nó không phải giải những bài toán lắt léo, hóc búa để có được những đáp án làm thỏa mãn lòng ham muốn vô bờ bến của “con người thân xác”. Những người không biết về vấn đề này, không biết đến sự tồn tại của Vía, Phách, Tâm linh, sẽ không quan tâm đến những hoạt động của chúng, nên hoàn toàn không có khái niệm gì. Nếu biết về các cơ thể này của chính mình, chúng ta có thể tập luyện được cách tập trung tư tưởng để quán tưởng vào thể Vía, vào Tâm linh, thì dần dần chúng ta sẽ ý thức được, theo dõi được những cuộc phiêu du của Vía và nếu công phu nhiều năm, ta có thể xuất Vía, xuất hồn và phiêu du cùng Vía lẫn Tâm linh vào những thế giới mà ta chưa biết.
Ngày xưa ở Việt Nam đã từng có một “dịch vụ du lịch cõi âm”, để gặp lại những người thân đã chết. Đó là môn Đồng thiếp. Có những ông thầy chuyên giúp mọi người làm việc này. Những người muốn đi “du lịch vào cõi âm”, để gặp lại những người thân đã chết, họ có thể đến gặp những thầy Đồng thiếp này. Sau khi đã thỏa thuận về chuyến đi, thầy Đồng thiếp căn dặn khách những điều cần chú ý khi vào cõi âm để tránh gặp tai họa. Sau khi cho các vị “khách du lịch” nằm lên giường, ông thầy Đồng thiếp phủ lên mặt các “khách du lịch” một tấm khăn. Sau đó ông phất tay qua mặt khách một cái, lập tức “khách du lịch” chìm vào trạng thái hôn mê. Ông thầy thử lay gọi, xem họ còn tỉnh thức không, sau đó ông lầm rầm đọc những điều gì đó và cứ để cho khách đi “du lịch” ngủ yên. Chừng một hai giờ sau, ông thầy gỡ bỏ tấm khăn ra khỏi mặt khách và khua tay qua mặt các vị “khách du lịch”. Những người này bắt đầu ngọ nguậy, trở mình, hít một hơi dài để chuẩn bị tỉnh dậy. Một lát sau, họ từ từ mở mắt ra và ngồi dậy. Vẻ mặt của họ vừa ngơ ngác, vừa tiếc nuối. Người có vẻ vui, kẻ có vẻ buồn. Khi được hỏi chuyện, ai cũng kể vanh vách, đầy hứng khởi về chuyến du lịch vào cõi âm, về những cảnh, những người họ vừa được gặp ở cõi âm. Đồng thiếp một thời bị quy kết là mê tín dị đoan. Những ông thầy bị bắt bớ và bị kết tội lừa bịp. Cho đến nay không còn tồn tại hoạt động này nữa. Làm Đồng thiếp vốn rất khó và rất ít những người có khả năng làm được, lại còn rất dễ bị bắt, bị kết tội, nên chẳng ai dám làm nữa. Vì thế hoạt động Đồng thiếp đã nhanh chóng bị chấm dứt hẳn. Khoảng năm mươi năm nay, đã không còn thấy một trường hợp nào nữa. Thực chất, những thầy Đồng thiếp là những người biết thôi miên, có thể làm cho từ trường não bộ của những người kia tạm ngừng hoạt động trong một thời gian. Những vị khách bị thôi miên lập tức chìm vào giấc ngủ sâu, lúc đó Vía sẽ xuất ra khỏi xác. Dưới sự gợi ý của thầy Đồng thiếp, Vía bắt đầu chu du vào cõi Trung giới, cõi Thượng thiên, hay Bồ đề tùy thuộc vào sự phát triển hay không phát triển về Tâm linh của từng vị khách. Điều này còn phụ thuộc vào các vong mà họ muốn gặp hiện đang ở cõi nào? Trước khi làm “Đồng thiếp”, ông thầy đã “gửi thông điệp” mời các vong của những người sắp “đi du lịch cõi âm” về đón. Sau mỗi lần đánh Đồng thiếp, khi hỏi chuyện những người đi chơi cõi âm về, mỗi người kể lại hành trình của mình một kiểu, không ai giống ai. Có người chỉ được đi chơi, mà không gặp được người thân. Họ kể được cảnh này, cảnh nọ ở cõi âm, những chuyện khác biệt với dương thế. Có người được gặp lại chồng con, cha, mẹ, hay người thân. Họ kể rất tỉ mỉ về cõi âm, kể về cách ăn vận, hình dáng những người thân của họ hiện nay ra sao, sung sướng hay khổ sở.
Bản chất của chuyện này là khi thầy Đồng thiếp dùng thuật thôi miên cho não bộ của những người kia tạm ngừng hoạt động, thể Vía của họ sẽ thoát ra khỏi sức hút của thân xác và nghe được những gợi ý của thầy Đồng thiếp, chu du vào cõi Trung giới (cõi Âm). Hoặc lúc đó các vong (Phách, Vía, Tâm linh của người thân quá cố) đã có mặt để đón ở ranh giới giữa cõi trần và cõi sóng (Trung giới). Sau một khoảng thời gian nhất định, khi thầy Đồng thiếp cho não bộ hoạt động trở lại, trường sinh học của não bộ lập tức được tái thiết lập, tạo ra sức hút mạnh mẽ thu hút Vía trở về. Lúc này thầy Đồng thiếp cũng có động tác gọi hồn và Vía trở về, bằng cách hô: “Ba hồn bảy vía ông (bà)… ở đâu, ở cõi nào thì mau về nhập lại xác!”. Vía lập tức được lắp vào đúng vị trí, để cùng Tâm linh và não bộ hoạt động như “một bộ máy vi tính” hoàn chỉnh. Bộ vi xử lý (CPU), tức là Vía và Tâm linh lại được kết nối trở lại với “màn hình”(monitor) là não bộ. “Bộ nhớ” của Vía chuyển thông tin sang não bộ, giúp người bị đánh Đồng thiếp khi tỉnh lại rồi vẫn nhớ những gì họ thấy ở cõi Âm. Sau khi Vía đã trở lại với Thân xác, được kết nối với não bộ và Tâm linh, nó lại phải làm việc, phải tính toán, truyền các dữ liệu sang não bộ, điều khiển não bộ hiện hình những phép tính toán, những đáp án nhằm thỏa mãn những tham vọng, ham muốn, hay dục vọng không bờ bến của con người xác thịt.
Ở những người Tâm linh chưa phát triển, thường có nhiều tham vọng và dục vọng, Vía phải liên tục làm việc, liên tục giao tiếp, tính toán, làm sao để có cái này, được cái nọ, đoạt được cái kia. Vì phải làm việc liên tục, nên Vía làm tiêu hao rất lớn năng lượng Tiên thiên, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của thể xác và sự phát triển của Tâm linh. Bộ phận nào hoạt động nhiều, bộ phận đó sẽ phát triển, bộ phận nào ít hoạt động, bộ phận đó sẽ teo dần đi. Đó là quy luật của tạo hóa. Vì phải hoạt động nhiều, nên Vía rất phát triển. Lớp Vía dày mãi lên, làm cho Tâm linh bị phong tỏa, rất khó giao tiếp với Vũ trụ, khó hòa nhập được với Niết bàn. Không phải vô cớ, mà các tôn giáo đều kêu gọi con người tiết dục, không tham lam, hạn chế ham muốn, làm cho Vía không có đường phát triển, tạo điều kiện cho Tâm linh khai mở, phát xuất, hòa nhập được với Vũ trụ, kết nối được với Niết bàn. Tiết chế dục vọng, phát triển trí tuệ, mở rộng tình yêu thương nhân văn là con đường phát triển đúng đắn của mỗi cá nhân và của cả nhân loại.
6
HOẠT ĐỘNG CỦA THỂ VÍA SAU KHI THÂN XÁC CHẾT
Vì một lý do gì đó, như tuổi tác, bệnh tật, tai nạn, khiến thân xác bị hủy hoại và không thể tiếp tục tồn tại thì con người thể xác phải chết. Khi con người từ giã cõi trần, từ trường sinh học toàn thân vụt tắt, lực hút để liên kết và nuôi dưỡng giữa thân xác với Phách, Vía và Tâm linh không còn. Khối trường sóng hạt Tâm linh (linh hồn) cùng với hai lớp Vía và thể Phách buộc phải từ từ rời bỏ thân xác. Đầu tiên sáu lớp cơ thể này co cụm lại thành một quả cầu ở vùng Đan điền. Khi đó thân xác trở nên lạnh giá như băng tuyết. Khối sinh linh gồm sáu lớp của ba thể: Tâm linh, Vía, Phách sẽ từ từ thoát ra qua huyệt Bách hội trên đỉnh đầu, bay lơ lửng phía trên thân xác, nhưng khối sinh linh đó vẫn còn bị ràng buộc với thân xác bởi một sợi dây màu ánh kim, sáng chói nối với huyệt Bách hội trên đỉnh đầu. Đó là sợi Kim cương tuyến (shutra hay silver cord). Kim cương tuyến chính là “đoạn dây truyền năng lượng” giữa ba cơ thể siêu hình: Phách, Vía, Tâm linh với thân xác. Sau khi thân xác chết ba ngày, sợi Kim cương tuyến mới bị đứt và khối sinh linh Phách, Vía và Tâm linh không thể quay trở lại thân xác được nữa. Bấy giờ thân xác mới chết hẳn. Điều đó có nghĩa là, trong ba ngày, nếu thân xác vẫn còn nguyên lành, không bị hư hoại, nhưng vì một lý do gì đó, như bị điện giật, chó dại cắn, bị sốc thuốc, hay chết đuối… mà bị chết (lâm sàng), thì khối Tâm linh, Vía, Phách kia vẫn có thể thông qua Kim cương tuyến, quay trở lại được thân xác, người chết sẽ sống lại. Điều này xưa nay vẫn thường xảy ra.
Tục lệ sau ba ngày mới chôn (hay đem thiêu) ở nhiều nước và tục cúng cơm ngày thứ ba ở Việt Nam (lễ chia tay với linh hồn) không phải là vô cớ. Sau khi sợi Kim cương tuyến đứt thì thân xác chết hẳn, lúc này lớp Phách cùng với hai lớp Vía bao bọc, che chắn cho ba lớp Tâm linh bắt đầu tồn tại độc lập. Con người lúc này không còn thân xác, không còn não và các giác quan thể xác để mà cảm nhận, giao tiếp với xã hội, môi trường xung quanh như khi còn sống nữa. Con người hoàn toàn chuyển sang một thế giới khác hẳn với thế giới ba chiều của vật chất thô mà họ vừa trải qua trong kiếp trước. Con người bây giờ có cơ thể sáu lớp và bắt đầu một cuộc sống mới ở cõi Trung giới. Đây là một thế giới siêu hình, mọi thứ ở đây, mắt thường cũng như các giác quan thể xác khác không thể thấy được. Thế giới lúc này là thế giới của sóng. Môi trường con người đang tồn tại cũng là sóng. Bản thân họ cũng là một sinh linh được hình thành từ năm trường sóng hạt. Giờ đây họ không còn di chuyển bằng các phương tiện như xe cộ như trước, họ có thể theo thói quen đi bộ, nhưng cũng có thể bay hay phát sóng với tốc độ nhanh khủng khiếp, nhanh hơn tốc độ của sóng điện thoại rất nhiều lần. Không gian giờ đây cũng khác hẳn với không gian ba chiều trước kia. Không còn khái niệm chiều cao, chiều dài, chiều rộng như trước nữa. Chiều thời gian cũng chẳng còn. Không gian giờ đây là vô hạn, là đa chiều. Trong thế giới của sóng, biên giới hay các giới hạn chỉ là tần số. Việc ăn uống giờ đây cũng khác hẳn với khi còn thân xác. Khi thân xác còn, người ta nạp thức ăn, nước uống bằng miệng để có được calo nuôi thân xác. Giờ đây cơ thể với các lớp Vía, Phách, Tâm linh không dùng năng lượng calo như thân xác nữa, mà dùng năng lượng Tiên thiên khí, nên con người ở thế giới này “ăn uống” bằng cách nạp Prana (Tiên thiên khí). Chỉ cần tiếp xúc và hít (thu) trường năng lượng của các vật có Prana là nạp được Prana rồi. Việc tư duy, suy nghĩ vẫn như khi còn thân xác. Hai cơ quan chính để thực hiện những nghĩ suy và tư duy là Vía Hạ trí và Tuệ tâm vẫn còn nguyên, chỉ có điều những nghĩ suy, ưu tư giờ đây không hiển thị lên não bộ, mà hiển thị trên các từ trường và các bộ nhớ của thể Vía và Tâm linh. Vì thế việc giao tiếp giữa người sống (còn thân xác) với người chết (không còn thân xác) bây giờ trở thành một chiều, vô cùng khó khăn. Người sống nghe bằng âm thanh rung động qua các dây thanh quản của người nói, truyền qua không khí làm rung động màng nhĩ, rồi màng nhĩ chuyển những rung động ấy thành tín hiệu thần kinh, truyền đến não, não lại phục hồi những tín hiệu ấy thành âm thanh. Còn người chết ở cõi Âm (cõi sóng) lại nghe và nhìn bằng các giác quan thể Vía, nghĩa là nghe, nhìn bằng sóng, giống như thiết bị vô tuyến truyền hình, từ sóng thông tin hiển thị thành hình ảnh và tiếng nói, và được cảm nhận ở thể Vía. Tần số của não bộ người sống với tần số thể Vía của người đã chết quá chênh nhau, khiến người sống không thể thu được các tín hiệu từ người chết. Song ngược lại, người chết lại có thể nhìn rõ và nghe rõ những gì người sống đang làm và đang nói. Khi người sống suy nghĩ, hai lớp Vía và Tâm linh của họ phát sóng, chuyển những tín hiệu thông tin về não bộ, vì thế người chết thu ngay được sóng thông tin này trước khi người sống nói ra miệng. Trừ một số trường hợp hãn hữu do từng bị chết lâm sàng trong một khoảng thời gian nào đó, hoặc do cấu tạo bẩm sinh, một số người sống có tần số của não bộ và Vía không chênh lệch nhiều so với tần số người chết, nên họ có thể “nhìn thấy” (thực chất chỉ là hình dung thấy), hoặc “nghe thấy” (văng vẳng trong tai) người chết. Độ chính xác của các cuộc giao tiếp này hoàn toàn phụ thuộc vào trạng thái tâm lý, sức khỏe, tâm trạng của người sống (các nhà ngoại cảm hoặc các bà đồng) và với người chết thì tùy thuộc họ có muốn giao tiếp, thông báo hay không. Vì thế nhiều cuộc gọi hồn, hoặc giao tiếp với người âm cho kết quả không đúng, vì người chết giận dỗi, không muốn nói, không muốn chỉ ra những gì mà người sống muốn biết. Nhiều trường hợp người chết còn đóng giả người nọ người kia để lừa người sống. Vì thế đừng vội đổ oan tội bịp bợm cho các nhà ngoại cảm hay các bà đồng cốt! Thực ra họ chỉ giống như “những phiên dịch viên bị khiếm thị” mà thôi.