TỔNG QUAN
Một trong những đặc điểm nổi bật ở giai đoạn này là bé của bạn đang phát triển ngôn ngữ nói với tốc độ rất nhanh. Bạn sẽ thấy khả năng hiểu lời nói của bé cũng gia tăng không ngừng trong suốt giai đoạn này.
Giờ đây, đứa trẻ chập chững biết đi của bạn dường như đang chuyển đổi qua lại giữa hai giai đoạn là trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Bé sẽ thích đi bộ khi bạn cho bé ra ngoài chơi nhưng chỉ được một quãng ngắn bé lại đòi bế ngay. Bé muốn tự mình cầm thìa xúc ăn cho dù thường làm thức ăn rơi vãi. Nhưng những khi bé ốm hoặc mệt, bé sẽ muốn bạn đút cho bé ăn, dỗ dành bé giống như trước đây.
Bé rất dễ rơi vào những tình huống nguy hiểm và thỉnh thoảng sẽ gặp một số tai nạn, cho nên bạn vẫn có cảm giác phải gắn thêm mắt để có thể bao quát bé mọi lúc mọi nơi. Bạn sẽ nhận thấy bé vô cùng phấn khích khi biết mình sắp được đi chơi và khi ở bên ngoài, mọi con vật, mọi người và mọi đồ vật đều hấp dẫn bé. Nếu có thể thỉnh thoảng cùng bé ra ngoài chơi và tận hưởng niềm hứng thú mãnh liệt của bé với thế giới bên ngoài sẽ rất tuyệt vời.
Xin hãy chú ý rằng các giai đoạn phát triển được mô tả ở đây tính theo mức trung bình.
Tốc độ phát triển của nhiều trẻ sẽ có chút khác biệt, thông thường một phương diện phát triển nhanh có thể khiến một phương diện khác phát triển chậm lại. Cha mẹ không nên quá lo lắng hay thất vọng nếu con mình không làm được mọi thứ đúng như thời gian mô tả. Để hiểu rõ hơn, xem phần Lý do cần lo lắng, trang 204.
Bé vẫn muốn bạn ở bên thật nhiều để hỗ trợ, trấn an và bảo vệ bé. Tính cách của bé cũng bắt đầu hình thành trong giai đoạn này và bạn sẽ nhận thấy bé có những nét tính cách giống với các thành viên trong gia đình như sôi nổi hoặc kiên nhẫn.
Con bạn không còn bé bỏng lâu nữa đâu, vì thế hãy nắm bắt thời gian.
Giai đoạn này cũng chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của não bộ, với nhiều liên kết thần kinh được hình thành hơn, và nghiên cứu cho thấy rằng sự phát triển này chịu tác động rất lớn bởi lượng kích thích mà trẻ nhận được. Những trẻ không được nói chuyện và chơi cùng ở giai đoạn này sẽ không thể phát triển hết tiềm năng trong tương lai1.
12 – 14 THÁNG TUỔI
SỰ PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ
Xét về khả năng hiểu, trẻ mới chỉ đang bắt đầu giải mã ngôn ngữ ở đầu giai đoạn này. Có hai đặc điểm đáng chú ý khi xem xét khả năng hiểu của trẻ ở giai đoạn này.
Khả năng hiểu của các bé ở giai đoạn này có những sự khác biệt đáng kể, điều này cho thấy, không giống với việc sử dụng từ ngữ, khả năng hiểu phụ thuộc phần lớn vào trải nghiệm của trẻ tính đến thời điểm này.
Thứ hai, giữa khả năng hiểu và khả năng nói ra các từ có một khoảng cách đáng kể xét về tốc độ phát triển, khả năng hiểu đang phát triển rất nhanh trong khi lượng từ được nói ra tăng tương đối chậm. Một lần nữa điều này cho thấy sự khác biệt lớn giữa số lần ta cần phải nghe một từ để có thể nhận diện được từ đó khi được nghe lại (điều này có thể xảy ra chỉ với một lần nghe đối với cả người lớn và trẻ nhỏ) và số lần ta cần nghe từ đó để có thể nói ra một cách chính xác. Điều này có thể thấy rõ ở trẻ em. Tại thời điểm trẻ dùng từ ngữ để chỉ một nhóm các sự vật có đặc điểm giống nhau, chẳng hạn như “mèo” cho tất cả các con vật bốn chân, trẻ thường có thể chỉ chính xác bức ảnh của những con vật đó như mèo, ngựa và cừu.
Tầm một tuổi, nếu không có gì bất thường, trẻ có thể hiểu một số từ và có thể nói hai hoặc ba từ. Cha mẹ thường nhận thấy mỗi tuần trẻ hiểu thêm một vài từ mới thông qua việc trẻ nhìn xung quanh tìm kiếm người hoặc vật được nhắc đến. Lúc này, trẻ cũng giỏi hơn trong việc nhận diện cảm xúc ẩn sau những gì người khác nói, ví dụ biết được liệu bố mẹ hài lòng hay khó chịu đối với điều trẻ vừa làm.
Một sự khởi đầu mới quan trọng ở giai đoạn này là việc trẻ thích nhìn vào những cuốn sách tranh về những đồ vật quen thuộc và muốn nghe người lớn gọi tên những bức tranh này. Trẻ sẽ nhanh chóng hiểu được những tên gọi này – một tiền đề quan trọng đối với sự phát triển khả năng đọc.
Trẻ sẽ hiểu những đề nghị đơn giản, đặc biệt là nếu những câu này là một phần của trò chơi, ví dụ “Đưa nó cho mẹ nào” hay “Đổ hết rồi”.
Thời điểm này chứng kiến nhiều sự phát triển quan trọng trong khả năng giao tiếp xã hội. Đầu giai đoạn này, trẻ bắt đầu biết rằng mình là một người tách biệt với những người khác và trở thành một đối tác bình đẳng trong quá trình tương tác. Trẻ thường khởi xướng “hội thoại” bằng âm và những trò chơi kết hợp ngôn ngữ và hành động như “Vỗ tay”. Trẻ nhận thức rõ hơn về tác động của những cách thức giao tiếp khác nhau, ví dụ trẻ có thể dự đoán mọi người sẽ cười khi mình pha trò hay mong muốn được đưa cho đồ vật mà trẻ chỉ tay vào sau khi nhìn vào một người lớn.
Tầm mười bốn tháng, khả năng nói của trẻ đã phát triển, trẻ có thể sử dụng 4 đến 5 từ tương đối ổn định và thường có một từ ưa thích được nói thường xuyên. (Một trong các con của tôi thường hay nói “bế”, không chỉ có nghĩa là muốn được bế, mà nhìn chung thể hiện mong muốn được chú ý tới). Điều đáng chú ý là độ tuổi và thời điểm trẻ nói những từ này không có nhiều khác biệt giữa các trẻ trong những môi trường khác nhau (mặc dù sau này sự khác biệt lại rất lớn). Điều này cho thấy phương diện phát triển này phần lớn chịu sự chi phối của một dấu mốc phát triển về mặt sinh học.
Những từ đầu tiên thường là tên gọi của những đồ vật quen thuộc như đồ ăn, quần áo, bộ phận cơ thể hoặc đồ chơi, tiếp đến là những từ chỉ các hành động quen thuộc như “bế”. Trẻ chỉ nói những từ này trong bối cảnh mà trẻ đã nghe thấy chúng. Ví dụ, trẻ chỉ có thể nói “thìa” tại nhà mình vào giờ ăn2.
Cách thức sử dụng những từ đầu tiên này cũng rất thú vị: không hề giống như cách người lớn sử dụng. Chúng thường không chỉ dùng để gọi tên, mà còn đại diện cho cả một câu, thể hiện một câu hỏi, hỏi xin đồ vật hay đòi hỏi sự chú ý, chào hỏi, cung cấp thông tin, phản đối hay yêu cầu. Ví dụ, từ “cốc” có thể có nghĩa là “Con muốn uống nước”, “Đó là cốc của con” hay “Cốc của con ở đâu?”. Trẻ trở nên thành thạo trong việc làm rõ nghĩa, có thể diễn đạt những ý nghĩa khác nhau thông qua giọng điệu và cử chỉ. Ví dụ, trẻ có thể sử dụng ngữ điệu đi lên để biến một từ trở thành câu hỏi. Ngay cả ở giai đoạn nói từng từ một này, trẻ có xu hướng nói về những yếu tố trong môi trường của trẻ - những thứ có ích nhất với trẻ để cung cấp thông tin và giao tiếp, chủ yếu là về đồ chơi và những người quan trọng với trẻ. Khi thế giới của trẻ mở rộng hơn, trẻ sẽ dần dần học được những từ vựng mới.
Khi trẻ không biết một từ nào đó, trẻ sẽ sử dụng một từ khác đại diện cho sự vật tương tự. Ví dụ, trẻ có thể biết được rằng con vật lông mượt sống trong nhà gọi là “mèo”, nên có thể áp dụng tên gọi này cho bất kỳ con vật nào có lông đi bằng bốn chân. Các cụm từ cũng có thể được ghép lại thành một từ, chẳng hạn như “allfalldown” trong tiếng Anh.
Những từ đầu tiên này được sử dụng không đều trong một khoảng thời gian. Trẻ có thể nói các từ trong vài ngày hoặc vài tuần, rồi sau đó không dùng đến trong một quãng thời gian. Do vậy, phụ huynh có thể thấy mình không thể trả lời câu hỏi “Con nói được bao nhiêu từ rồi?”. Điều thú vị là những từ đầu tiên thường biến mất trong một khoảng thời gian tương đối lâu. Không ai biết tại sao lại như vậy, nhưng không cần phải lo lắng vì cuối cùng chúng cũng sẽ quay trở lại thôi.
Dù vậy, trẻ vẫn trao đổi hầu hết các nhu cầu của mình bằng cách chỉ tay, kèm theo âm “ư ư”. Trẻ sử dụng những chuỗi bập bẹ dài giàu âm điệu và chêm vào đó những từ mà mình đang nói. Trẻ thích bắt chước những từ người lớn sử dụng và những âm thanh của động vật và các phương tiện giao thông. Trẻ cũng bắt chước âm thanh do những em bé khác tạo ra3. Trẻ rất tích cực phản hồi khi những em bé khác tạo âm và thường khởi xướng các trò chơi ngôn từ theo lượt với các trẻ khác như “Round and round the garden” (Quanh vòng quanh khu vườn).
SỰ PHÁT TRIỂN CHUNG
Năng lực giao tiếp của trẻ phát triển song song với các lĩnh vực khác. Đầu giai đoạn này, trẻ luôn bận rộn khám phá mọi thứ bằng cách bò hoặc toài người đi xung quanh, có thể đứng thẳng mà không cần sự hỗ trợ, có thể trèo lên một bậc cầu thang thấp. Trẻ có thể bước những bước đi đầu tiên ở giai đoạn này.
Kiến thức của trẻ về bản thân và môi trường ngày càng phong phú. Có thể thấy điều này qua việc trẻ lúc này biết nhìn về nơi có quả bóng sau khi quả bóng lăn ra khỏi tầm nhìn, cho thấy bé đã ghi nhớ, hoặc sẽ lặp lại trò đùa khiến mọi người cười vì nhớ rằng trò đó đã từng làm mọi người thích thú. Nhìn chung, trẻ tỏ ra sẵn sàng giúp đỡ và hợp tác trong giai đoạn này, ví dụ chủ động hỗ trợ mặc quần áo bằng cách duỗi tay hoặc giơ chân. Trẻ có khả năng thể hiện cảm xúc đa dạng, bao gồm cả khiếu hài hước. Lấy ví dụ, trẻ sẽ cười sảng khoái khi nghe thấy âm thanh thể hiện sự ngạc nhiên.
Các kỹ năng sử dụng đôi tay của trẻ cũng đang phát triển rất nhanh kèm theo sự hình thành những kỹ năng mới, giúp trẻ rất nhiều trong quá trình khám phá thế giới. Sau khi được mười hai tháng tuổi, trẻ có thể đặt một khối lập phương chồng lên một khối khác, nhưng tạm thời vẫn chưa thể thả tay ra trong vòng một tháng sau đó. Trẻ có thể bắt đầu cho thấy xu hướng thuận tay trái hoặc tay phải ở giai đoạn này, cho dù nhiều trẻ không biểu hiện xu hướng này ngay. Khả năng cầm nắm đồ vật của trẻ đang dần đạt đến trình độ của người trưởng thành và trẻ có thể cầm hai khối lập phương bằng một tay. Trẻ vẫn thích đưa đồ chơi và các vật khác vào trong hoặc lấy ra khỏi hộp chứa và thích vẽ nguệch ngoạc. Trẻ rất thích nhìn ra cửa sổ và chỉ vào những gì nhìn thấy.
KHẢ NĂNG CHÚ Ý
Trẻ sẽ bắt đầu có những khoảng thời gian tập trung cao độ vào những đồ vật hay hoạt động do trẻ lựa chọn, mặc dù thời gian tập trung nhìn chung vẫn rất ngắn.
Cụm từ “do trẻ lựa chọn” rất quan trọng. Mặc dù đầu giai đoạn này, trẻ có thể nhìn về phía mà người lớn đang nhìn nhưng trẻ vẫn còn lâu mới có thể duy trì sự chú ý ổn định tới đối tượng do người lớn lựa chọn. Khi trẻ chú ý vào sự vật sự việc theo cách này, trẻ gần như không thể chuyển trọng tâm chú ý tương ứng với hướng nhìn của người lớn. Không phải trẻ không chịu hợp tác – đơn giản là trẻ không thể làm được4.
Như chúng ta đã biết, ở thời điểm này, trẻ có thể tạo ra ngày càng nhiều liên kết giữa các từ và ý nghĩa mà các từ biểu đạt. Một sự phát triển quan trọng khác là trẻ có thể duy trì sự chú ý tới các bức tranh trong một thời gian ngắn và liên hệ tên gọi với bức tranh. Để mài giũa hai kỹ năng này, điều quan trọng là cả người lớn và trẻ có chung trọng tâm chú ý, nhờ đó người lớn có thể giúp trẻ thấy rõ các từ đó thể hiện cái gì.
Sự phối hợp chú ý này đạt được ở giai đoạn này chủ yếu thông qua việc người lớn dõi theo hướng nhìn của trẻ và nói về điều mà trẻ đang tập trung vào. Người lớn càng thường xuyên làm như vậy, trẻ sẽ càng thuận lợi tiến tới thời điểm người lớn có thể định hướng sự chú ý của trẻ, điều cốt lõi cho tất cả hoạt động học tập ở trường. Nghiên cứu gần đây cho thấy, so với khi chơi một mình, trẻ ở giai đoạn này thường có sự tập trung cao độ hơn trong quá trình chơi tương tác với một người lớn5.
Thời điểm này, trẻ bắt đầu có thể điều khiển sự chú ý của người lớn và khả năng này cho thấy sự phát triển đáng kể. Ban đầu, trẻ sẽ chỉ vào một vật và nhìn sang người lớn, thể hiện sự quan tâm của mình đến đồ vật đó. Khi được 14 tháng tuổi, trẻ sẽ vừa chỉ tay vào một vật vừa nhìn vào người lớn.
KHẢ NĂNG LẮNG NGHE
Nếu không có gì bất thường, tại thời điểm này, trẻ có thể tập trung vào âm thanh cần nghe và sàng lọc âm thanh nền ở một mức độ nhất định. Trẻ vẫn chỉ có thể làm được điều này trong điều kiện môi trường có rất ít âm thanh nền và mức độ gây nhiễu thấp. Khả năng mới và vô cùng quan trọng này dễ dàng bị triệt tiêu nếu điều kiện môi trường không phù hợp, do đó nó cần được quan tâm chu đáo.
Tôi gặp Mary khi bé được mười bốn tháng tuổi. Do rối loạn di truyền, một tai của bé có thính lực bình thường nhưng tai còn lại thì mất thính lực hoàn toàn. Cha mẹ bé nhận được lời tư vấn rằng điều này sẽ không tạo ra bất kỳ ảnh hưởng nào đến bé, nhưng thực tế lại hoàn toàn không phải như vậy. Chúng ta chỉ có thể định vị nguồn phát âm thanh khi so sánh sự khác nhau ở những âm thanh truyền đến cả hai tai. Tất nhiên, Mary không thể làm được điều này, bởi vậy không thể liên kết ý nghĩa với những âm thanh mà bé nghe thấy. Do đó, âm thanh ngày càng trở nên vô nghĩa với Mary và bé hoàn toàn tập trung vào quan sát và cầm nắm, gần như ngừng hoạt động lắng nghe. Đặc biệt là bé hầu như không quan tâm đến lời nói. Bé sống trong một gia đình có ba anh chị lúc nào cũng ồn ào, khiến cho mọi thứ với bé ngày càng khó khăn hơn.
Chúng tôi đưa bé vào Chương trình Trẻ học nói, tập trung vào khả năng lắng nghe và các hoạt động nhằm giúp bé có thể liên kết ý nghĩa với từ ngữ. Môi trường hoàn toàn yên tĩnh, không có âm thanh nền hoàn toàn cần thiết đối với Mary vì việc lắng nghe bằng một tai vốn đã khó sẽ càng trở nên khó khăn hơn nếu xuất hiện âm thanh nền. Cho bé thật nhiều đồ chơi phát ra âm thanh thú vị, khiến lời nói trở nên hấp dẫn và dễ nghe hơn bằng cách nói chậm hơn, to hơn và giàu âm điệu hơn sẽ giúp bé nhanh chóng cảm thấy hứng thú với việc lắng nghe. Nói chuyện với bé về trọng tâm chú ý của bé sẽ nhanh chóng giúp bé hình thành liên kết giữa ý nghĩa và từ ngữ. Khả năng lắng nghe và hiểu từ ngữ của Mary bắt đầu tiến bộ gần như ngay lập tức, và chỉ trong bốn tháng, hai khả năng này của bé đã bắt kịp trình độ phát triển tương đương với lứa tuổi.
Điều này càng trở nên thiết yếu trong trường hợp trẻ bị suy giảm thính lực, có thể vĩnh viễn hay tạm thời do các chứng viêm tai giữa xuất tiết gây ra, những bệnh vốn hay xảy ra với trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.
Kiến thức của trẻ về ý nghĩa của âm thanh vẫn đang được củng cố dần dần và điều này giúp trẻ rất nhiều trong việc hiểu thế giới xung quanh. Nó giúp trẻ hiểu được nhịp điệu và trình tự cuộc sống trong một ngày, ví dụ trẻ nhận ra tất cả âm thanh gắn liền với các giờ ăn, giờ tắm, khách đến chơi và giờ đi dạo.
Bạn sẽ thấy rằng trong những tình huống ồn ào, trẻ thường trở nên yên lặng, có lẽ đúng vào lúc bạn muốn bé hòa nhập. Không phải vì trẻ không hòa đồng, mà bởi trẻ đang quá bận rộn lắng nghe và cố gắng phân loại tất cả những âm thanh khác nhau xung quanh trẻ để có thể nói cùng.
14 – 16 THÁNG TUỔI
SỰ PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ
Khả năng hiểu từ vựng ở trẻ tiếp tục phát triển nhanh chóng. Lúc này, trẻ có thể hiểu được tên gọi của nhiều vật dụng hằng ngày như quần áo và đồ dùng và có thể nhận diện một vài bộ phận cơ thể như tai và tóc – không chỉ của chính mình mà còn của búp bê. Trẻ bắt đầu hiểu được một vài từ không phải tên gọi của đồ vật và hành động, ví dụ những từ “trong” và “trên”. Trẻ cũng bắt đầu hiểu điệu bộ cử chỉ của người lớn, ban đầu chỉ khi người lớn ở gần trẻ và về sau vào cuối giai đoạn này là khi người lớn ở xa. Trẻ sẽ cho thấy khả năng hiểu một câu hỏi bằng cách phản hồi bằng một chuỗi âm thanh đi kèm với một cử chỉ. Ví dụ, khi được hỏi “Nước của con ở đâu?”, trẻ sẽ chỉ vào đó và đồng thời nói “ư ư”.
Khả năng hiểu đang phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đến cuối giai đoạn này, trẻ dần hiểu được tên gọi của các bộ phận nhỏ hơn của một chỉnh thể, ví dụ “cửa” và “cửa sổ” là các bộ phận của ngôi nhà, hay “tay áo” và “cúc áo” là các bộ phận của chiếc áo khoác. Trẻ bắt đầu hiểu được một vài cụm từ rất quen thuộc như “Bố đang đến” trong bối cảnh quen thuộc mà không có hoặc có rất ít những dấu hiệu hình ảnh.
Một bước ngoặt ở giai đoạn này là một số trẻ bắt đầu giải mã các câu nói, chứ không còn dừng lại ở các từ đơn. Trẻ có thể làm theo những câu chỉ dẫn ngắn chứa hai từ quan trọng như “Đi vào BẾP và lấy GIÀY của con lại đây”6.
Những lời nói đầu tiên của trẻ chỉ có những người gần gũi với trẻ mới hiểu được, mặc dù đến tháng thứ 16, lời nói bập bẹ của trẻ gần như đã chứa toàn bộ các âm trong tiếng mẹ đẻ. Tiến trình “chuyển giao lời nói” – trong đó các âm bập bẹ của trẻ sẽ chỉ còn những âm xuất hiện trong ngôn ngữ được nói xung quanh trẻ – lúc này gần như đã hoàn tất. Những từ này thường là phiên bản đơn giản của các từ mà người lớn sử dụng. (Ví dụ, con gái tôi gọi chiếc chăn của mình là “banna”). Hầu hết các gia đình đều thích và giữ lại một vài từ đầu tiên của con mình ở dạng này. Nhà tôi từ lâu đã gọi thỏ là “bunnit” và chuột lang nhà là “wiggy wig”.
Nhiều âm khác nhau bắt đầu xuất hiện trong các từ của trẻ, bao gồm những âm được tạo ra ở phần trước của miệng như /p/, /b/, ở vị trí giữa miệng như /t/, /d/, và ở phần sau của miệng như /g/, /k/. Trẻ có thể tròn môi, đóng chặt môi để tạo âm /b/ và thả lỏng để tạo âm /p/.
Trẻ thường có thể nói sáu hoặc bảy từ khi được mười sáu tháng tuổi và những từ này bắt đầu xuất hiện trong lời nói bập bẹ của trẻ. Như thể bé biết rõ rằng chúng ta không nói từng từ riêng lẻ mà là từng chuỗi dài và trẻ đang cố hết sức để làm được như thế. Từ vựng của trẻ lúc này hoạt động rất tích cực: Ngay ở giai đoạn này, phần nhiều giao tiếp của trẻ được thực hiện bằng lời, mặc dù trẻ thường cần sự hỗ trợ của cử chỉ. Thông điệp của trẻ đang trở nên rõ ràng hơn rất nhiều.
Vào cuối giai đoạn này, một vài trẻ bắt đầu cho thấy khả năng tiếp nhận từ đơn nhanh hơn, trong khi các trẻ khác có thể không làm được như vậy mà phải đợi đến giai đoạn sau. Nhiều trẻ ở thời điểm này cũng thích thử nói những từ cảm thán của người lớn như “ố ồ” khi một vật bị rơi.
Trẻ lúc này thích thay phiên nhau tạo âm với cả người lớn và trẻ em, nhưng hầu hết quá trình tương tác đều diễn ra trong thời gian khá ngắn, chỉ một hoặc hai lượt dành cho mỗi bên. Trẻ bắt đầu phát triển những cử chỉ mang tính biểu tượng, ví dụ lắc đầu thay cho từ “không”, và thích hát một mình.
SỰ PHÁT TRIỂN CHUNG
Trong khoảng thời gian này, hầu hết các trẻ thường có thể tự mình đứng thẳng, giúp giải phóng bàn tay để tìm hiểu và khám phá nhiều hơn. Trẻ có thể bước đi vài bước nếu bé chưa làm được trong giai đoạn trước, nhưng không thể dừng đột ngột hoặc đi quanh các góc. Trẻ bước đi với sải chân rộng, bàn chân đặt khá xa nhau để tạo độ vững và có thể trèo cầu thang bằng bàn tay và đầu gối. Trẻ sẽ cố ném một quả bóng, nhưng sẽ không thể làm được như vậy mà không bị ngã.
Trẻ bắt đầu làm nhiều thứ hơn cho bản thân mình và tự dùng thìa xúc ăn mặc dù rơi vãi rất nhiều, có thể cởi mũ, giày và tất. Trẻ cũng bắt đầu có thể kiểm soát hành vi của bản thân: Ví dụ, nói “không” và thu tay lại khi bắt gặp một vật mà trẻ không được phép chạm vào.
Sự khéo léo của đôi tay tiếp tục phát triển. Trẻ có thể xây tòa tháp gồm hai khối xếp hình, thả tay ra khỏi khối thứ hai. Giờ đây, trẻ có thể làm việc này rất dễ dàng, ít ném đồ vật hơn, nhưng trẻ vẫn thích ném và sau đó lại nhặt lên. Trẻ sẽ đưa đồ chơi cho người lớn và sẽ thả vật khi được yêu cầu. Trẻ có thể dễ dàng lăn bóng và đặt một vài khối lập phương vào trong hộp chứa. Đôi lúc trẻ thích chơi một mình, nhưng trẻ vẫn thích chơi với người lớn.
Trẻ ngày càng hứng thú với sách, giúp lật giở các trang sách và thích thú nhìn vào các bức tranh, thỉnh thoảng đập tay vào bức tranh.
Sự phát triển ngôn ngữ và sự phát triển trí tuệ tác động lẫn nhau, tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. Trí tuệ cần phát triển tới một mức độ nhất định thì ngôn ngữ mới có thể phát triển, và sự phát triển ngôn ngữ có thể hỗ trợ quá trình phát triển trí tuệ.
Ở giai đoạn này, trẻ đang dần tiếp nhận các khái niệm. Ví dụ, trẻ dần hiểu ra rằng không chỉ có một chiếc cốc và một cái áo khoác, những thứ gắn bó với trẻ, mà còn có một nhóm các chiếc cốc và áo khoác khác nữa. Những khái niệm như vậy bắt đầu ở phạm vi rộng như “đồ dùng cho việc ăn uống”, dần dần thu hẹp lại thành những nhóm nhỏ hơn như “bộ dao dĩa thìa” và “bát đĩa”, và cuối cùng là “dao”, “dĩa”, và “thìa”7. Những khái niệm này rất cần thiết cho quá trình tiếp nhận ngôn ngữ có nghĩa. Trẻ cũng bắt đầu tiếp nhận những khái niệm liên quan đến kích thước và số lượng, như “một” và “nhiều”, “to hơn” và “nhỏ hơn”. Nếu không có những khái niệm này, các từ đại diện cho chúng sẽ trở nên vô nghĩa.
KHẢ NĂNG CHÚ Ý
Trẻ lúc này thường có những khoảng thời gian tập trung chú ý cao độ dài hơn vào những đồ vật hoặc hoạt động do trẻ chọn. Việc trẻ có cơ hội tập trung theo ý muốn của mình vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, đa phần thời gian chú ý vẫn còn ngắn và trẻ vẫn chưa thể duy trì sự chú ý ổn định tới trọng tâm chú ý do người lớn chọn. Cho nên, người lớn cần quan sát hướng nhìn của trẻ để biết trẻ đang nhìn gì và nói về trọng tâm đó càng nhiều càng tốt.
Khả năng của trẻ trong việc điều khiển sự chú ý của người lớn cũng đang tiếp tục phát triển. Như chúng ta đã biết, trẻ được 12 tháng tuổi sẽ chỉ vào một vật sau đó nhìn về phía người lớn; khi được 14 tháng tuổi, trẻ sẽ vừa chỉ vào vật vừa nhìn về phía người lớn. Đến tháng thứ mười sáu, trẻ thường sẽ nhìn về phía người lớn rồi mới chỉ vào vật, để chắc chắn có được sự chú ý của người lớn khi trẻ làm như vậy.
KHẢ NĂNG LẮNG NGHE
Hiểu biết của trẻ về ý nghĩa của âm thanh xung quanh đang gia tăng nhanh chóng. Âm thanh leng keng khi bố tra chìa khóa vào ổ hay tiếng trẻ con nhà hàng xóm có thể khiến bé vô cùng thích thú.
Trẻ ngày càng hứng thú với lời nói và sẽ chăm chú lắng nghe người khác trò chuyện trong một thời gian khá dài. Trẻ thể hiện rõ sự hứng thú với từ mới thông qua biểu cảm trên khuôn mặt và ngôn ngữ cơ thể, và lúc này trẻ không dễ bị sao nhãng khi ai đó đang nói chuyện với trẻ.
Trẻ cũng rất hứng thú lắng nghe âm thanh do chính mình tạo ra. Điều này có ý nghĩa quan trọng ở thời điểm này vì hệ thống âm lời nói của trẻ đang nhanh chóng hoàn thiện giống với hệ thống âm trong ngôn ngữ trẻ nghe được xung quanh mình, nhờ khả năng so sánh âm của bản thân với những âm trẻ nghe được từ người khác.
CHƠI CÙNG TRẺ
Trẻ ở giai đoạn này vẫn tiếp tục bận rộn khám phá cách thế giới vận hành. Trẻ khám phá theo những cách khác nhau, thông qua các hoạt động chơi khám phá, chơi tương tác và lúc này có thêm hoạt động chơi giả vờ và chơi tượng trưng, thường có sự tương tác với những người khác. Các hoạt động chơi mới (chơi giả vờ và chơi tượng trưng) trong giai đoạn này rất quan trọng, vì đây là tiền đề quan trọng của trí tưởng tượng sáng tạo và tất cả những năng lực bắt nguồn từ đó.
Những kỹ năng thao tác bằng tay mới có được và khả năng kiểm soát cơ thể ngày càng tốt hỗ trợ trẻ trong quá trình khám phá và giờ đây trẻ có thể trực tiếp học được từ bất kỳ tình huống hay vật liệu nào. Tất cả những trải nghiệm này giúp trẻ hiểu hơn về môi trường xung quanh và hình thành ngày càng nhiều các khái niệm, ví dụ “thô ráp” và “mềm mượt”, “to” và “nhỏ” – những khái niệm quan trọng để sử dụng ngôn ngữ một cách có ý nghĩa.
Một điều tiếp tục đóng vai trò quan trọng ở giai đoạn này là trẻ cần có thời gian chơi một mình và có cơ hội tự mình khám phá mọi thứ. Tuy nhiên, sự tham gia của người lớn cực kỳ quan trọng, và trẻ sẽ được hỗ trợ tốt nhất nếu được chơi cùng đối tác tinh ý, biết được khi nào nên tham gia giúp đỡ và khi nào nên để trẻ tự khám phá một mình. Người lớn có thể giúp đỡ phát triển trò chơi giả vờ bằng cách cho trẻ biết những việc mà trẻ có thể làm, và tất nhiên, mọi trò chơi sẽ hấp dẫn hơn khi có người lớn bổ sung ngôn ngữ đầu vào phù hợp.
CHƠI KHÁM PHÁ
Đôi bàn tay ngày càng khéo léo cho phép trẻ khám phá đồ chơi một cách tỉ mỉ hơn ở giai đoạn này. Trước đây, trẻ khám phá bằng cách lắc, đập và nếm để tìm hiểu đặc tính cơ bản của đồ vật như kích thước, hình dáng và kết cấu. Hiện tại, mặc dù trẻ vẫn thường quan sát và tiếp xúc trực tiếp với đồ vật, nhưng khả năng tư duy phát triển, cùng với khả năng kiểm soát bàn tay và cơ thể tốt hơn, cho phép trẻ tiến hành các hoạt động khám phá rộng hơn và phức tạp hơn. Trẻ bắt đầu thích lắp ghép đồ chơi, xếp đồ vật chồng lên nhau và sẽ cố gắng thử sức, chẳng hạn với bộ đồ chơi phân loại hình khối đơn giản. Trẻ bắt đầu tìm hiểu mối liên hệ giữa các đồ vật, vẫn thích đặt đồ vật vào trong hoặc lấy ra khỏi hộp đựng, tháo rời các bộ phận của đồ chơi và lắp ghép lại. Tất cả những hoạt động này hỗ trợ trẻ rất nhiều trong việc hình thành các khái niệm về kích thước và vị trí, ví dụ “to hơn” và “nhỏ hơn”, “bên trong” và “bên dưới”.
Lúc này, trẻ lần đầu tiên biết sử dụng các công cụ, trong đó những đồ chơi như chốt gỗ và búa được sử dụng phù hợp, nhờ đó tăng cường vốn hiểu biết về quan hệ nguyên nhân - kết quả, vốn vẫn còn rất sơ khai. Ví dụ, trong trường hợp này, trẻ sẽ biết rằng dùng búa đập vào cái chốt sẽ khiến cái chốt đi xuống.
Trẻ bắt đầu có thể kéo đồ chơi có dây kéo và rất thích chơi trò này. Nghịch nước cũng bắt đầu trở thành nguồn vui mới. Đây là cơ hội tuyệt vời để đưa ngôn ngữ vào cuộc chơi với nhiều từ tuyệt vời như “tí tách”, “lộp độp” hay “ào ào”. Trẻ cũng có thể học được nhiều khái niệm trong khi chơi với nước như “nặng” và “nhẹ”, “nổi” và “chìm”, “đầy” và “rỗng”.
Trẻ bắt đầu chủ động nhìn vào sách hơn, trẻ mở sách và thực sự nhìn vào các bức tranh thay vì gặm và xé sách như trước đây.
Hoạt động khám phá âm thanh vẫn rất quan trọng. Trẻ vẫn thích chơi với đồ chơi tạo âm thanh như hộp nhạc, chũm chọe và đồ chơi kêu chút chít. Tuy nhiên, tôi muốn nhấn mạnh rằng, một số đồ chơi, đặc biệt là những đồ chơi điện tử, phát ra âm thanh to có thể gây hại cho thính giác của bé. Hãy kiểm tra kĩ lưỡng trước khi cho bé chơi.
Giờ đây, mong muốn khám phá của trẻ bao gồm cả những hành động khó hiểu của người lớn. Ở giai đoạn này, trẻ bắt đầu thực sự muốn “giúp” người lớn làm việc nhà như quét nhà và lau bụi, để xem bản chất của các hoạt động này là gì. Tôi nhớ mình đã hỏi một người mẹ xem con gái cô ấy có thích thú những hoạt động đó không và người mẹ đáp: “Tôi không khiến nó làm việc nhà”, câu trả lời khiến tôi buồn lòng biết bao.
Trẻ ở độ tuổi này thích những đồ chơi mô phỏng đồ vật thật như điện thoại, nhờ đó trẻ có thể hiểu hơn về chức năng của những đồ vật đó, đồng thời để trẻ thể hiện khả năng bắt chước của mình.
CHƠI TƯƠNG TÁC
Các bài thơ, bài vè kết hợp cử động ngón tay và các bài hát, đặc biệt những bài có giai điệu và ca từ quen thuộc và đơn giản có liên quan đến con người, đồ vật và hành động trẻ đã quen thuộc khiến trẻ rất thích thú. Những bài liên quan đến các bộ phận trên cơ thể như “I’m a little tea pot”(Tớ là ấm trà nhỏ) vẫn được trẻ yêu thích và muốn lặp lại thường xuyên. Bài hát nào cũng được, nhưng những bài hát, bài thơ truyền thống cho trẻ nhỏ trong hầu hết các ngôn ngữ thường trở thành một phần của nền văn hóa bởi vì nhịp phách, giai điệu của chúng rất hay và chúng còn lặp đi lặp lại, khiến trẻ ở giai đoạn này vô cùng thích thú.
Các trò chơi tương tác theo lượt tiếp tục là một phần quan trọng trong hoạt động chơi và thường xuyên được trẻ khởi xướng hơn. Trẻ cũng sẽ truyền đi thông điệp mong muốn tiếp tục chơi thông qua ngôn ngữ cơ thể. Những trò chơi này thường có sự tham gia của đồ chơi và các đồ vật khác. Những hoạt động như lần lượt đặt các hình khối vào trong xô và lấy ra khỏi xô, những trò chơi ném, nhét thư vào thùng, xâu vòng vào gậy đều thích hợp để chơi theo lượt. Những hoạt động chơi luân phiên cơ bản này sẽ sớm phát triển thành các trò chơi giả vờ, ví dụ vẫy tay tạm biệt nhau. Những trò chơi đó thường bắt đầu với việc bố/mẹ bắt chước trẻ, và từ đó phát triển thành các trò chơi theo lượt. Trẻ lúc này luân phiên thực hiện lượt chơi với đối tác một cách rõ ràng, hoàn thành lượt của mình rồi đợi người lớn thực hiện lượt của họ. Khi người lớn thêm chút biến tấu cho trò chơi, ví dụ vỗ vào lưng của búp bê, trẻ có thể dễ dàng bắt chước hành động mới mẻ này.
Tất cả những hoạt động chơi như vậy, đi kèm với ngôn ngữ, hỗ trợ trẻ rất nhiều, giúp trẻ khám phá các cách sử dụng ngôn ngữ để thực hiện công việc, hiểu được ý nghĩa của hành động và các sự kiện diễn ra, và củng cố các kỹ năng giao tiếp.
CHƠI GIẢ VỜ
Trong giai đoạn này, hoạt động chơi giả vờ đơn giản bắt đầu nở rộ. Việc giả vờ đồ vật này là đồ vật khác, dùng chúng như những biểu tượng, rất quan trọng đối với sự phát triển trí tuệ của trẻ. Đó là tiền đề cho khả năng tư duy trừu tượng để xem xét các vấn đề và tìm ra được giải pháp sáng tạo cho các vấn đề đó. Khả năng sử dụng trí tưởng tượng một cách sáng tạo và tự do có ý nghĩa trong mọi lĩnh vực của đời sống. Có người đã chia sẻ với tôi câu nói của Einstein: “Trí tưởng tượng quan trọng hơn kiến thức”. Việc chơi giả vờ và khả năng ngôn ngữ thể hiện cùng một dạng năng lực trí tuệ ẩn sâu bên dưới – khả năng thể hiện sự vật sự việc một cách biểu tượng.
Trẻ bắt đầu mô phỏng những thói quen hằng ngày quen thuộc, đơn giản và sẽ sớm bắt đầu sử dụng đồ chơi để chơi giả vờ, ví dụ giả vờ cầm cốc đồ chơi uống nước, sau đó cho thú bông hoặc búp bê uống nước từ cái cốc đó. Ở giai đoạn đầu của hoạt động chơi giả vờ, trẻ là người chủ động còn thú bông hay búp bê thì bị động tiếp nhận hành động từ trẻ – ví dụ búp bê nhận một cái ôm chặt – nhưng dần dần đồ chơi sẽ bắt đầu “diễn” vai của mình, ví dụ sau đó thú bông sẽ trao lại cái cốc. Trẻ thích người lớn cùng tham gia với mình, ví dụ đưa cho mẹ một món đồ chơi mềm để ôm hoặc giả vờ cho mẹ ăn trong trò chơi tiệc trà đơn giản.
Khi được 15 tháng tuổi, trẻ sẽ sử dụng những đồ vật ít tương đồng hơn so với đồ vật thực tế, ví dụ sử dụng một cái hộp để làm giường cho búp bê, hoặc những viên gạch đồ chơi làm bánh sandwich. Trẻ cũng sẽ bắt đầu kết hợp các đồ vật với nhau, ví dụ đặt búp bê lên giường hoặc trải một tấm ga giường lên giường.
Trẻ sẽ nhận được rất nhiều lợi ích từ sự tham gia của người lớn trong hoạt động chơi giả vờ. Trẻ sẽ thử nhiều hoạt động khác nhau và đưa những gì người lớn đã làm mẫu vào trong cuộc chơi8.
MÁY TÍNH
Đừng sốt ruột cho con bạn làm quen với các trò chơi trên máy tính. Ngày nay, các công ty phần mềm coi trẻ dưới năm tuổi là nhóm khách hàng tiềm năng và các chương trình đang được sản xuất nhắm đến trẻ thậm chí là từ chín tháng tuổi. Điều rất đáng lo đối với trẻ nhỏ sử dụng máy tính là chúng có những yếu tố hấp dẫn giống như tivi và video, vì thế trẻ nhỏ có nguy cơ dành nhiều giờ liền để chơi các trò chơi này. Tất cả những gì trẻ ở độ tuổi này cần làm là tương tác và khám phá, thời gian dành cho máy tính còn rất nhiều sau này. Việc tiếp xúc với máy tính muộn hơn không hề khiến trẻ gặp nhiều bất lợi hơn so với những trẻ tiếp xúc từ khi còn bé. Trong khi đó, những trẻ chơi với máy tính từ sớm đã bỏ lỡ khoảng thời gian quý giá để tương tác và vui chơi chẳng vì lý do tốt đẹp nào.
HỘP ĐỒ CHƠI
Những đồ chơi và đồ vật sau sẽ đáp ứng nhu cầu chơi khám phá, chơi tương tác và chơi giả vờ của trẻ trong giai đoạn này. Nhiều đồ chơi sẽ được sử dụng theo những cách khác nhau trong giai đoạn này khi trẻ bày trò chơi với chúng và trong tương lai cũng sẽ được chơi theo cách khác.
Đối với những đồ chơi dành cho chơi giả vờ, ví dụ búp bê và những thứ giúp trẻ bắt chước hoạt động của bạn, hãy đảm bảo rằng chúng đại diện cho thực tế. Những đoàn tàu biết nói và những chiếc ô tô biết bay là lựa chọn tốt cho các giai đoạn phát triển sau này, nhưng ở giai đoạn hiện tại, khi mà trẻ mới chỉ đang khám phá thế giới, chúng có thể khiến trẻ nhầm lẫn.
Tôi nhớ mình đã từng nghe một đoạn kịch truyền thanh về người sao Hỏa khi còn bé và phải nhiều năm sau tôi mới vỡ lẽ ra rằng không có con người sống trên sao Hỏa.
Những đồ chơi được đề xuất ở đây được phân chia thành hai nhóm: chơi khám phá và chơi giả vờ. Tuy nhiên, cách chia này rất chủ quan vì bất kỳ đồ chơi nào cũng có thể trở thành trọng tâm của hoạt động chơi tương tác. Bạn sẽ thấy con mình chơi với đồ vật theo những cách mà bạn không hề nghĩ tới.
Nhiều đồ chơi phù hợp cho lứa tuổi này có thể tự làm ở nhà và không tốn kém mấy. Ví dụ, những chiếc hộp và khăn lau tay có thể dùng làm giường và ga trải giường cho búp bê; một chiếc hộp chứa có một lỗ trên nắp hoặc lõi cuộn giấy mà đồ chơi có thể chui lọt qua; các hộp chứa như hộp thiếc cùng với các vật khác như các cuộn chỉ có thể bỏ vào và lấy ra khỏi hộp đựng. Bản thân giấy và hộp chứa cũng đã rất thu hút trẻ. Hãy tạo cho bé thật nhiều đồ chơi phát ra âm thanh bằng cách bỏ vào trong vật chứa các vật khác nhau như gạo hay đỗ xanh.
Chơi khám phá
✔ Đồ chơi có thể đẩy: ví dụ xe tải đồ chơi hay xe tập đi
✔ Đồ chơi có thể kéo như vịt buộc dây
✔ Bút màu sáp to
✔ Đồ chơi phân loại hình khối đơn giản
✔ Thuyền đồ chơi có hình người ngồi trong
✔ Đồ chơi tạo âm thanh mới: trống, đàn mộc cầm, lục lạc đồ chơi maraca, hoặc đồ chơi kêu chút chít nếu vẫn chưa có trong giỏ đồ chơi của bé
✔ Hòm thư đơn giản
✔ Búa và chốt đồ chơi
Chơi giả vờ
✔ Điện thoại đồ chơi
✔ Thú bông và búp bê to và đơn giản, cùng với ga trải giường và quần áo búp bê
✔ Một đoàn tàu đơn giản
✔ Máy bay
✔ Bộ đồ nấu ăn
✔ Bộ đồ chơi vật dụng hằng ngày như cái hót rác, bàn chải, chổi
GIÁ SÁCH
Khía cạnh quan trọng nhất của sách trong giai đoạn này là mang đến cho trẻ một trải nghiệm tương tác ấm áp thông qua việc cùng nhau đọc sách. Lúc này, bạn có thể định hình niềm đam mê đọc sách sẽ có ích cho trẻ trong suốt cuộc đời. Đặt bé lên đùi để bạn và bé có thể gần nhau và cùng nhìn vào các bức tranh. Bạn chắc chắn sẽ hứng thú với bé hơn so với sách và hãy để bé biết điều này.
Những cuốn sách phù hợp vẫn nên là những cuốn có tranh vẽ những đồ vật thân thuộc với bé và có màu sắc tươi sáng. Những bức ảnh chụp người và vật thật trong cuộc sống của bé sẽ thật tuyệt vời vào lúc này. (Tự tay làm một cuốn sách bằng những bức tranh cắt ra từ tạp chí cũng là một trò vui). Bé thích thú nhìn vào các chi tiết trong bức tranh, do đó các bức tranh bây giờ có thể phức tạp hơn hoặc có bối cảnh nền phức tạp hơn trước.
Bé cũng sẽ rất thích những cuốn sách rất tuyệt vời dành cho trẻ nhỏ, trong đó có những chất liệu khác nhau để bé dùng các ngón tay chạm vào hoặc những cuốn sách bạn có thể ấn và tạo ra âm thanh đi kèm các bức tranh. Ví dụ, bé sẽ rất thích thú khi biết bạn vịt trong sách có thể kêu quác quác.
Hãy để bé dẫn dắt quá trình đọc sách. Vào khoảng giữa giai đoạn này, bé sẽ giúp bạn lật giở các trang sách và thể hiện rõ mình thích những bức tranh nào bằng cách đập tay vào trang sách và nói chuyện với các bức tranh. Đừng bao giờ buộc trẻ phải hứng thú một bức tranh hay cuốn sách lâu hơn mong muốn của trẻ. Những cuốn sách tuyệt vời cho giai đoạn này bao gồm:
✔ Touch and Feel Fluffy Chick (Chạm và cảm nhận chú gà con lông vàng)
Rod Campbell (NXB Campbell Books)
✔ My Farm (Nông trại của tớ)
Rod Campbell (NXB Campbell Books)
✔ Touch and Feel (Chạm và cảm nhận)
(NXB Dorling Kindersley)
✔ Clever Dog, Kip! (Kip, chú chó thông minh)
Benedict Blathwayt (NXB Julia Macrae)
✔ Rosie’s Walk (Chuyến đi dạo của cô gà mái Rosie)
Pat Hutchins (NXB Bodley Head)
✔ Hide and Seek With Duck (Cùng bạn vịt chơi trốn tìm)
Jo Lodge (NXB Bodley Head)
✔ Peepo (Ú òa)
Janet and Allan Ahlberg (NXB Puffin)
✔ Where’s Spot?(Spot đâu rồi?)
Eric Hill (NXB Puffin)
✔ The Very Hungry Caterpillar (Chú sâu háu ăn)
Eric Carle (NXB Hamish Hamilton)
✔ Wibbly Pig board books (Bộ sách giấy bồi về Lợn con Wibbly Pig)
Mick Inkpen (NXB Hodder Children’s)
✔ Dr Seuss board books (Sách giấy bồi của Dr Seuss)
(NXB HarperCollins)
TIVI VÀ VIDEO
Có nhiều chương trình truyền hình và video được sản xuất cho trẻ nhỏ và có thể đem lại sự thích thú cho con bạn từ độ tuổi này, nhưng cần lưu ý phải sử dụng những chương trình đó đúng cách.
Hãy giới hạn thời gian xem tivi, video của trẻ ở mức tối đa là nửa tiếng mỗi ngày. Trẻ cần dành nhiều thời gian tương tác với mọi người xung quanh và học hỏi thông qua hoạt động chơi. Đây là quãng thời gian tuyệt vời mà quá trình học hỏi có thể diễn ra vô cùng nhanh. Những cơ hội bị bỏ lỡ ở giai đoạn này sẽ mất đi mãi mãi. Tivi rất hấp dẫn đối với trẻ vì màu sắc lung linh và các chuyển động nhanh, do đó có thể khiến trẻ nhỏ ngồi xem triền miên nếu được phép. Tôi đã từng gặp một số em bé xem tivi hơn sáu tiếng một ngày. Không chỉ các kỹ năng ngôn ngữ của trẻ bị chậm lại đáng kể, mà nghiêm trọng hơn, kỹ năng tương tác, kỹ năng chơi và khả năng hiểu thế giới cũng bị chậm lại. Những trẻ ấy trông ủ rũ và đờ đẫn.
Hãy cùng xem video với trẻ để biến việc này trở thành một trải nghiệm mang tính tương tác và bạn có thể làm cho những gì trẻ nhìn thấy trở nên có nghĩa với trẻ. Ví dụ, một đoạn video bài hát cho trẻ nhỏ sẽ vô cùng thú vị nếu cả bạn và bé cùng thực hiện các hành động trong video.
Nội dung các chương trình và video nên gắn với thế giới theo cách hiểu của trẻ. Ví dụ, nhiều chương trình dành cho trẻ lớn tuổi hơn như “Thomas the Tank Engine” (Đầu máy xe lửa Thomas) và “Pingu” (Pingu, chim cánh cụt ngộ nghĩnh) đều là những chương trình giả tưởng, trong đó phương tiện giao thông và các con vật biết làm những việc mà chúng không thể làm được ngoài đời thực như là biết nói và biết bay. Những chương trình này sẽ rất thú vị với những trẻ đã có đủ trải nghiệm về thế giới để biết rằng đó là những chương trình giả tưởng, nhưng chúng sẽ khiến trẻ ở độ tuổi này bối rối. Suy cho cùng, trẻ lúc này mới chỉ đang tìm hiểu con người, động vật và đồ vật thật thực sự làm gì.
Đừng rơi vào cái bẫy tư duy rằng tivi có thể giúp trẻ hiểu ngôn từ và giờ trẻ bắt đầu có thể làm được điều đó. Tivi không thể làm được điều đó. Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ hoàn toàn bị màu sắc lung linh và ánh sáng chuyển động của tivi cuốn hút và sẽ không học được gì từ âm thanh. Trong một thí nghiệm, người ta phát hiện trẻ em Hà Lan xem kênh truyền hình bằng tiếng Đức trong thời gian dài không hề học được một chút tiếng Đức nào9. Một trường hợp khác là trẻ em có thính lực bình thường, trong khi cha mẹ các em bị điếc, cũng không học được một chút ngôn ngữ nào từ tivi, ngoại trừ ngôn ngữ kí hiệu học từ cha mẹ10.
Nhiều lúc bạn có thể vô cùng muốn có một khoảng thời gian nghỉ ngơi và tivi có thể giải quyết vấn đề này. Nhưng xin bạn hãy hiểu rõ tình huống lúc đó: Lợi ích chỉ dành cho bạn mà thôi!
TỔNG KẾT
Tóm lại, khi được mười sáu tháng tuổi, con bạn có thể:
✔ Nói được sáu đến tám từ rõ ràng
✔ Thích thú nhìn vào các cuốn sách tranh
✔ Thể hiện những điều bé muốn thông qua các cử chỉ
✔ Nhìn vào mọi người hoặc các vật quen thuộc khi nghe thấy tên gọi của người đó hoặc vật đó.
LÝ DO CẦN LO LẮNG
Dưới đây là những tình huống mà bạn nên đi gặp bác sĩ tư vấn cho sự phát triển của con. (Mặc dù vậy, hãy nhớ rằng tốc độ phát triển của nhiều trẻ sẽ có chút khác biệt).
Nếu bạn lo lắng, ngay cả khi lý do khiến bạn lo lắng không được đề cập đến ở đây, hãy đưa con bạn đến bác sĩ càng sớm càng tốt.
Ở giai đoạn 16 tháng tuổi, bạn sẽ cần đến tư vấn từ chuyên gia y tế nếu:
✔ Trẻ không bao giờ thay phiên với bạn khi tạo âm tương tác với nhau.
✔ Trẻ không phản hồi bằng cách nhìn đúng hướng khi nghe thấy những câu hỏi đơn giản như “Mũ con đâu?”.
✔ Trẻ không bập bẹ bằng nhiều âm thanh khác nhau tựa như đang nói chuyện.
✔ Trẻ không hứng thú với việc khởi xướng các trò chơi với bạn như trò “Vỗ tay theo nhịp”.
✔ Trẻ không tập trung vào bất kỳ cái gì quá vài giây.
CHƯƠNG TRÌNH TRẺ HỌC NÓI
NỬA TIẾNG MỖI NGÀY
Khoảng thời gian chơi một - một hằng ngày vẫn là điều kiện tốt nhất có thể cho việc học ngôn ngữ và cũng vô cùng quan trọng cho sự phát triển cảm xúc của trẻ. Không gì có thể đem lại cho trẻ nhỏ nhiều sự tự tin hơn sự đảm bảo chắc chắn rằng mỗi ngày trẻ đều sẽ nhận được sự tập trung chú ý trọn vẹn từ một người trẻ yêu quý. Nếu bạn có từ hai con trở lên, bạn sẽ nhận thấy mong muốn có được sự chú ý trọn vẹn ấy ở con mình mãnh liệt đến mức nào.
Cũng giống người lớn, tính cách của trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ cũng có nhiều khác biệt, bao gồm mức độ hứng thú đối với tương tác. Trong một gia đình bận rộn, rất dễ xảy ra tình huống cha mẹ chỉ thấy hài lòng khi một đứa trẻ dường như thích chơi một mình trong thời gian dài, hiếm khi cần đến ai. Đáng buồn là đến tận khi trẻ được khoảng hai tuổi và không nói chuyện, người ta mới thấy hậu quả của chuyện đó.
Natasha được đưa tới gặp tôi khi bé được hai tuổi rưỡi, bởi vì lúc đó bé mới chỉ nói được ba từ. Bé trông rất sáng sủa và ngay lập tức chơi với đồ chơi của tôi một cách rất hợp tác, bận bịu với việc chuẩn bị bữa trưa cho thú bông của mình. Tuy nhiên, khi tôi tiếp cận bé, bé hoàn toàn không để ý đến tôi, khiến tôi có cảm giác mình đang cản trở hoạt động chơi của bé. Mẹ bé bảo rằng Natasha thường thích chơi một mình. Vì vậy, chúng tôi lên lịch chơi hằng ngày cho Natasha và mẹ bé, theo đó người mẹ bắt đầu thực hiện các nguyên tắc của Chương trình Trẻ học nói, đặc biệt là dõi theo trọng tâm chú ý của Natasha và tránh điều khiển cuộc chơi của bé. Natasha bắt đầu quen với sự có mặt của người mẹ trong vai trò là người làm cho trò chơi thêm vui và chúng tôi rất vui khi thấy sự hứng khởi giữa hai mẹ con khi tương tác với nhau ngày càng tăng. Kỹ năng ngôn ngữ của bé rất nhanh chóng bắt kịp và vượt qua trình độ tương ứng với lứa tuổi.
Gần đây, Natasha và mẹ có đưa em trai đến gặp tôi khi họ vào thành phố. Bé trai sáu tháng tuổi, và ngay khi gặp gỡ, bé đã tỏ rõ, thông qua nét mặt và cử chỉ, rằng bé rất muốn giao tiếp với tôi. Tôi thấy mình không thể nào không trả lời bé, nên đôi lúc phải tạm hoãn trao đổi với Natasha và mẹ cô bé. Người mẹ và tất cả chúng tôi đều rất ngạc nhiên trước tính cách khác biệt của hai chị em.
TẠO MÔI TRƯỜNG PHÙ HỢP
Môi trường yên tĩnh vẫn cực kì quan trọng
Chúng ta đã biết trẻ ở độ tuổi này học được kỹ năng rất quan trọng là tập trung vào âm thanh cần nghe và sàng lọc những âm thanh nền khác. Tuy nhiên, kỹ năng này vẫn còn mới và chưa ổn định, do đó cần được nuôi dưỡng cẩn thận, nếu không nó có thể biến mất. Kỹ năng này chỉ có thể hoạt động trong điều kiện không có yếu tố gây nhiễu, vì vậy một môi trường yên tĩnh trong thời gian chơi tiếp tục đóng vai trò quyết định trong chương trình.
Lý tưởng thì hoạt động chơi của trẻ lúc này sẽ cần nhiều đồ chơi hơn giai đoạn trước. Việc có sẵn nhiều đồ chơi sẽ cho trẻ cơ hội phát triển kỹ năng chơi khám phá, chơi tương tác và chơi giả vờ cùng một lúc. Nếu bạn có thể cung cấp cho trẻ nhiều loại đồ chơi khác nhau trong khu vực chơi sẽ rất tốt cho trẻ, vì phần lớn thời gian tập trung của trẻ vẫn rất ngắn.
Hãy đảm bảo rằng đồ chơi của trẻ sẽ bao gồm những thứ khuyến khích trẻ chơi tất cả các kiểu chơi khác nhau.
Giống như bạn đã làm trước đây, hãy ngồi trên sàn với trẻ sao cho mặt bạn và mặt trẻ ngang tầm nhau, cả hai đều dễ dàng với lấy đồ chơi, nhờ đó dễ dàng chia sẻ trọng tâm chú ý.
Lúc này, trẻ có thể di chuyển rất nhiều xung quanh phòng. Nếu vậy, hãy theo sát trẻ. Bạn cần ở gần trẻ để trẻ nghe được mọi điều bạn nói và tất cả những âm thanh bạn tạo ra một cách rõ ràng.
NÓI CHUYỆN VỚI CON
Chúng ta đã thấy khả năng hiểu từ vựng của trẻ phát triển nhanh như thế nào trong giai đoạn này. Chúng ta có thể làm nhiều việc để giúp trẻ trong quá trình này. Thực sự, lúc này chúng ta có thể tạo ra sự khác biệt. Dưới đây là các cách có thể giúp trẻ.
❖ Dõi theo trọng tâm chú ý của trẻ
Tầm quan trọng của việc dõi theo trọng tâm chú ý của trẻ không thể nào nhấn mạnh thêm nữa. Nhiều dẫn chứng khoa học cho thấy người lớn và trẻ nhỏ càng có nhiều sự chú ý chung, về sau vốn từ vựng của trẻ sẽ càng mở rộng và cấu trúc câu càng phức tạp11. Người ta đã làm phép so sánh trong hai tình huống khác nhau:
✔ Người lớn cố gắng điều khiển sự chú ý của trẻ ở giai đoạn này vào những đồ vật và hoạt động do người lớn chọn.
✔ Người lớn dõi theo hướng nhìn của trẻ và nói về trọng tâm chú ý của trẻ.
Kết quả cho thấy khả năng trẻ hiểu được các từ dùng trong tình huống thứ hai cao hơn nhiều so với các từ được dùng trong tình huống thứ nhất12. Và nếu người lớn dõi theo trẻ và trò chuyện với trẻ về trọng tâm chú ý trong giai đoạn này, các liên kết giữa từ ngữ và ý nghĩa hình thành với tốc độ nhanh đến bất ngờ13, 14.
Một lý do khác giải thích tại sao nên dõi theo trọng tâm chú ý của trẻ là trẻ thích điều này. Chẳng phải tất cả người lớn chúng ta cũng đều thích những người chúng ta yêu mến thực sự quan tâm đến điều chúng ta thích hay sao?
Nếu bạn đã áp dụng chương trình này, bạn đã dõi theo trọng tâm chú ý của trẻ, lúc này mọi thứ sẽ thật dễ dàng với bạn vì bạn và con đã có thời gian chơi chung với nhau và biết được điều gì quan trọng và thú vị đối với cả hai.
Các câu hỏi và lời chỉ dẫn cản trở khả năng lắng nghe của trẻ
Giống như giai đoạn trước, hãy luôn tường thuật về những thứ đang làm bé thích thú và hoàn toàn tránh các câu hỏi và những câu chỉ dẫn. Điều này vô cùng quan trọng và trên thực tế là một trong những nguyên tắc then chốt của Chương trình Trẻ học nói. Câu hỏi đem đến cho bé nhiệm vụ là phải tìm ra câu trả lời, còn những câu chỉ dẫn khiến bé phải quyết định mình có nên làm theo hay không. Cả hai đều cản trở quá trình lắng nghe của trẻ, trong khi những lời tường thuật chỉ làm trẻ thêm hứng thú với những gì đang làm và không gây ra cho trẻ bất kỳ áp lực giao tiếp nào.
Bạn càng hiểu rõ điều bé đang nghĩ vào thời điểm đó bao nhiêu, bạn càng có thể giúp được bé nhiều bấy nhiêu. Hãy quan sát chăm chú những thứ trẻ đang nhìn. Đó có thể là một đồ vật mà bé yêu thích và muốn nó được gọi tên, nếu vậy bạn có thể nói “Đó là gà con” khi bé nhìn vào bức tranh, hoặc có thể là một âm thanh vui tai có thể khiến bé rất thích thú, khi đó bạn có thể tạo âm “chíp chíp”. Trẻ có thể thích những gì đang diễn ra, khi đó bạn có thể nói “Đổ hết rồi” khi các viên gạch xếp lên nhau đổ xuống, hoặc “Đâm rồi” khi ô tô đâm vào nhau. Việc lựa chọn ngôn từ phù hợp thường không mấy khó khăn. Lúc này bạn đang tương tác với một chủ thể giao tiếp khá hoàn thiện.
Tôi đã gặp nhiều trẻ nhỏ trước đó luôn nhận được nhiều lời chỉ dẫn. Bọn trẻ luôn quay lưng lại với tôi khi tôi đến gần để chơi cùng và cho dù tôi có khéo léo đến đâu, bọn trẻ vẫn hoàn toàn không để ý đến tôi. Tuy nhiên, chỉ trong vòng nửa tiếng, khi bọn trẻ nhận ra rằng tôi đang dõi theo sự chú ý của trẻ và khiến trẻ thích thú hơn bằng cách gọi tên đồ vật và tạo âm đi kèm đồ chơi tương ứng, như “brừm brừm” lúc trẻ nhặt ô tô lên, bọn trẻ đã hoàn toàn thay đổi. Điều đó khiến tôi vô cùng thỏa mãn và vui vẻ.
❖ Giúp trẻ thích việc lắng nghe
Hãy cố gắng cung cấp cho trẻ những đồ chơi tạo âm thanh để trẻ có thể thấy vui khi lắng nghe những âm thanh này trong môi trường yên tĩnh.
Hãy tận dụng mọi cơ hội để cho trẻ biết âm thanh đến từ đâu, ví dụ trong một cuốn sách có thể phát ra âm thanh. Đồng thời cũng nên tận dụng cơ hội để giúp trẻ thấy được đồ vật tạo ra những âm gì khi trẻ di chuyển xung quanh phòng. Ví dụ, trẻ sẽ rất thích khi bạn gõ móng tay lên cửa sổ hoặc lướt ngón tay dọc theo tấm rèm nếu trẻ hứng thú với những thứ này.
Luôn làm cho việc lắng nghe trở nên thú vị
Các bài thơ, bài vè và đồng dao kèm theo các động tác vẫn là những lựa chọn tuyệt vời để đem lại nhiều hứng thú cho trẻ khi lắng nghe giọng nói của bạn ở môi trường yên tĩnh và có tính tương tác này. Khi trẻ nhìn bạn đầy háo hức, cho thấy đã đến lượt bạn bắt đầu một hoạt động, bạn có thể hát và biểu diễn những bài này.
Hãy tiếp tục các trò chơi theo lượt, ví dụ trốn tìm và vỗ tay. Trẻ vẫn sẽ yêu thích những trò chơi này và đây là tiền đề quan trọng cho các kỹ năng giao tiếp thực sự sau này.
❖ Giúp trẻ giải mã ngôn ngữ
Một số thay đổi trong cách nói chuyện mà bạn đã thực hiện từ trước nhằm giúp trẻ tập trung lắng nghe và duy trì sự tập trung chú ý đó vẫn tiếp tục phát huy tác dụng. Nhưng đến lúc này, chúng còn có vai trò vô cùng quan trọng trong việc giúp trẻ hiểu các từ. Khi thực hiện những thay đổi này, hãy nghĩ mình đang học một ngoại ngữ nào đó và xem thử chúng có hữu ích hay không.
❖ Sử dụng các câu ngắn đơn giản.
Bạn đã nói chuyện với bé bằng những câu ngắn đơn giản từ trước để giúp bé tăng cường khả năng hiểu các từ và nên tiếp tục làm như vậy. Phải đến cuối giai đoạn này, trẻ mới hiểu được những cụm từ và câu ngắn chứa nhiều hơn một từ quan trọng. Do vậy, hãy tuân theo nguyên tắc rất quan trọng là luôn điều chỉnh ngôn ngữ đầu vào phù hợp với trình độ hiểu của trẻ, và hãy sử dụng những câu và cụm từ ngắn chứa một từ quan trọng, nhưng mở rộng thêm một chút. Ví dụ, “Đây là gấu bông”, “Vịt của con”, “Một chiếc ô tô nữa”, “Đây là búp bê”. (Hãy nhớ gọi tên đồ vật ở giai đoạn này, thay vì nói “Nó ở kia”, vì tên gọi là điều trẻ muốn học vào lúc này). Nếu trẻ quan tâm đến những gì đang diễn ra, chúng ta có thể nói “Nó đâm rồi” hoặc “Chúng đổ xuống rồi”. Hãy nhấn mạnh một chút vào từ quan trọng để trẻ có thể nhận diện được, nhưng giống như giai đoạn trước, hãy cẩn thận đừng bóp méo lời nói của bạn. Lời nói luôn phải nghe thật tự nhiên.
Các câu phải luôn đúng ngữ pháp
Những câu ngắn của bạn cũng cần phải đúng ngữ pháp. Ví dụ, chúng ta sẽ không nói, “Đây ô tô”, mà là “Đây là ô tô”. Hãy ngắt nghỉ sau mỗi câu ngắn để bé có thời gian lĩnh hội.
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng ngôn ngữ của người mẹ trong giai đoạn này càng đơn giản, độ dài các câu mà trẻ nói sau này càng tăng nhanh. Tôi đã gặp nhiều bà mẹ và các em nhỏ gắn bó thân thiết và yêu thương nhau, người mẹ nói chuyện rất nhiều với con mình nhưng lại bằng những câu rất dài.
Mẹ của Isla liên tục nói chuyện với con gái bằng những câu như “Đến lúc mẹ con mình đi mua đồ rồi. Mẹ không biết chúng ta nên mua bánh mì vào lúc này hay để sau”. Không có gì ngạc nhiên khi ở giai đoạn này Isla chỉ có thể nhận diện được tên riêng của mình, “Bố” và “không” khi xét đến khả năng hiểu từ ngữ của bé. Ngay khi mẹ cô bé nhận ra tầm quan trọng của các câu ngắn và bắt đầu sử dụng chúng, Isla cũng nhanh chóng học được nghĩa của các từ khác.
❖ Nói có ngữ điệu, chậm hơn và to hơn một chút
Những đặc điểm này vẫn rất quan trọng trong việc giúp trẻ tập trung vào lời nói của bạn và hơn nữa trẻ ở giai đoạn này vẫn yêu thích những lời nói như vậy. Bạn sẽ nhận thấy bé chú tâm lắng nghe khi bạn nói chuyện với bé bằng cách này, đồng thời nó cho trẻ cơ hội tốt nhất để nhận diện được âm nào đứng ở đâu trong từ nào giữa rất nhiều âm nghe được.
❖ Hãy lặp lại thật nhiều
Hãy đặt mình vào vị trí của một người đang học ngoại ngữ. Bạn có muốn nghe một từ thật nhiều lần để có thể ghi nhớ từ đó không? Con bạn cũng như vậy. Lúc này, trẻ đã biết hầu hết tất cả các âm trong tiếng mẹ đẻ, vì thế, lý do những âm này chưa xuất hiện đúng vị trí trong đúng từ là trẻ không thể nhớ được âm nào đứng ở đâu. Cách duy nhất giúp trẻ làm được điều này là nghe một từ rất nhiều lần.
Một điều cũng rất quan trọng đối với quá trình hình thành khái niệm của trẻ là trẻ phải được nghe các từ trong những văn cảnh khác nhau, để trẻ khám phá được rằng mũ của trẻ luôn được gọi là “mũ” dù nó ở trên đầu bé, trên sàn nhà hay cuộn trong túi xách của mẹ.
Trẻ cần được nghe các từ thật nhiều lần để có thể lĩnh hội chúng
Cách tốt nhất để thực hiện việc lặp lại ở giai đoạn này là đưa tên gọi của đồ vật vào trong một chuỗi các câu ngắn trong khi trẻ tập trung chú ý đến đồ vật đó. Ví dụ, khi trẻ nhặt một quả bóng lên chơi, bạn có thể nói: “Đây là quả bóng. Bóng của con.
Bóng đang lăn này”. Việc gọi tên đồ vật quen thuộc như “Cởi tất, cởi giày, cởi tất tay” khi bạn thay đồ cho trẻ cũng sẽ rất vui, cũng như trò “Johny nhảy lên, mẹ nhảy lên, bố nhảy lên”. Hãy nhấn mạnh một chút vào những tên gọi chính khi bạn nói cái tên đó lần đầu tiên, nhờ vậy, bé có thể nhận diện tên gọi đó một cách rõ ràng.
❖ Phản hồi trẻ bằng chính âm của trẻ
Việc phản hồi trẻ bằng chính âm của trẻ cực kỳ hữu ích. Chúng ta đều biết rằng ở giai đoạn này, tất cả các âm trong tiếng mẹ đẻ đang tham gia vào quá trình tạo âm của trẻ, cho phép trẻ so sánh âm của trẻ với âm của bạn. Như chúng ta đã biết, không có điều gì khuyến khích các cuộc đối thoại bằng âm với trẻ như việc đáp lại trẻ bằng âm của trẻ vì lúc này trẻ vẫn chưa thể diễn đạt bằng lời nói. Việc phản hồi trẻ bằng chính âm của trẻ có thể sẽ phức tạp hơn ở giai đoạn này, khi việc tạo âm của trẻ đã phức tạp hơn. Nếu trẻ tạo ra một chuỗi âm dài, hãy cố gắng bắt chước vài âm tiết cuối cùng. Trẻ sẽ thích điều đó và có thể tạo ra nhiều âm hơn để phản hồi bạn.
❖ Tạo ra các âm thanh vui nhộn gắn liền với những điều đang xảy ra
Những âm thanh vui nhộn cho thấy giọng nói rất thú vị
Hãy tiếp tục tạo những âm thanh vui nhộn. Những âm thanh như “brừm brừm” của xe ô tô, tiếng “tu tu tu” của xe cứu hỏa, tiếng “ùuuu” của máy bay hay âm “xoẹt xoẹt” khi bạn quét nhà... đều sẽ thu hút và duy trì sự chú ý của bé ở giai đoạn này. Chúng vẫn tiếp tục cho trẻ thấy một thông điệp quan trọng rằng giọng nói là điều thú vị đáng để lắng nghe, đồng thời cho trẻ cơ hội nghe các âm riêng biệt. Những cụm từ ngắn như “lên nào lên nào” khi nhấc trẻ lên, “bước đều bước đều bước” khi bạn và bé bước lên cầu thang vẫn rất cần thiết ở giai đoạn này. Bạn sẽ thấy sự thích thú hiện rõ trên khuôn mặt bé và bé sẽ lắng nghe tập trung mỗi khi bạn nói, ngay cả khi trẻ mệt hay không thoải mái.
❖ Luôn luôn phản hồi điều trẻ muốn nói
Thời điểm này trẻ có thể nói một số từ, tuy nhiên đừng cố gắng khuyến khích trẻ nói những từ đó bằng bất cứ cách nào. Trẻ sẽ nói khi trẻ sẵn sàng và điều đó sẽ đến nhanh hơn nếu trẻ không bao giờ chịu áp lực phải nói. Điều quan trọng là luôn luôn phản hồi điều trẻ muốn nói cho dù trẻ cố gắng nói với bạn bằng cách gì đi nữa. Lúc này, trẻ rất giỏi sử dụng ngôn ngữ cử chỉ, điệu bộ, nét mặt và thậm chí cả sự yên lặng để thể hiện bản thân, bởi vậy chẳng mấy khó khăn để hiểu được ý của trẻ. Nghiên cứu cho thấy mức độ cha mẹ phản hồi trẻ, tức là chú ý tới ý định của trẻ cho dù được thể hiện bằng cách thức nào, có nhiều khả năng tạo nên những khác biệt trong sự phát triển ngôn ngữ giữa các trẻ.
❖ Cho trẻ thấy điều bạn muốn nói
Chỉ vào đồ vật khi bạn gọi tên đồ vật đó
Một cách quan trọng nữa giúp trẻ giải mã ngôn ngữ ở giai đoạn này là bạn tiếp tục sử dụng cử chỉ để diễn tả thứ bạn muốn nói. Một lần nữa, hãy nghĩ mình đang học ngoại ngữ. Trẻ sẽ phải dự đoán từ nào trong số các từ đó đại điện cho đồ vật hay hoạt động cụ thể, khi đó việc chỉ tay về phía đồ vật trong khi gọi tên đồ vật đó sẽ giúp trẻ rất nhiều. Ví dụ, nếu trẻ nhìn vào những con vịt, chúng ta có thể nói “Đó là con vịt”, kèm theo hành động chỉ tay về phía con vịt đó. Điều này sẽ giúp trẻ hầu như không hiểu nhầm đối tượng mà từ “vịt” đại diện. Nếu trẻ không nhận được sự hỗ trợ như thế này, việc trẻ dễ dàng kết nối sai giữa nghĩa và từ cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Các chuyên gia trị liệu các vấn đề về ngôn ngữ và lời nói đều đã gặp những trẻ gắn sai tên cho các đồ vật.
Biểu cảm trên khuôn mặt và ngôn ngữ cơ thể có thể giúp trẻ hiểu được ý nghĩa của các từ cũng như cảm xúc và thái độ của bạn khi nói những lời đó.
Lời nói của Jerry rất lộn xộn, trong đó có nhiều từ bị gắn sai nghĩa. Bé gọi chiếc cúc áo là chiếc áo khoác và gọi cái dĩa là cái đĩa. Bé sinh ra trong một gia đình đông người, mẹ bé bị trầm cảm trong thời gian dài. Vì vậy, bé không được trò chuyện nhiều và chắc chắn không có thời gian tiếp xúc một - một. Vấn đề nảy sinh vì bé đã nghe một từ trong khi nhìn vào một vật khác, không phải là vật mà từ vừa nghe biểu thị, và vì vậy đã liên kết nhầm từ với ý nghĩa. Bạn có thể tưởng tượng được cảnh bé đã phải sống trong một thế giới hỗn loạn như vậy không? Chỉ một vài sự nhầm lẫn khái niệm cơ bản là đủ để gây ra khó khăn cho mọi hoạt động học tập diễn ra sau đó. Phải mất một thời gian dài Jerry mới có thể thoát khỏi tình trạng nhầm lẫn đó. Sau khi người lớn đã nỗ lực dõi theo trọng tâm chú ý của bé khi trò chuyện với bé, cả trong thời gian chơi một - một và mọi lúc có thể, cuối cùng Jerry đã hoàn toàn không còn nhầm lẫn các từ và ý nghĩa nữa.
MỘT VÀI ĐIỀU NÊN TRÁNH TRONG GIAI ĐOẠN NÀY
Hãy nói những lời tích cực, đừng nói những từ tiêu cực
Ở giai đoạn này, có một số việc bạn không nên làm. Đây là giai đoạn con bạn sẽ có thể rất linh hoạt, hiếu động và muốn khám phá mọi thứ, bao gồm cả ổ điện, bóng đèn và đồ trang trí đắt tiền. Bạn sẽ rất dễ nói những câu như “Không”, “Đừng chạm vào”, “Dừng lại” và “Đặt nó xuống”. Tuy nhiên, tốt hơn hết, bạn không nên nói như vậy. Hãy hạn chế dùng các từ mang tính tiêu cực hết sức có thể. Bạn vẫn đang dành nhiều thời gian và nỗ lực để trẻ hiểu được thông điệp rằng giọng nói là một thứ rất thú vị đáng để lắng nghe, và không ai muốn nghe những kiểu bình luận tiêu cực như thế. Hơn nữa, giai đoạn này bạn cần phải trực tiếp can thiệp và đưa trẻ ra khỏi nơi đó, và tốt hơn là bạn nên làm như vậy. (Xin đừng nghĩ rằng tôi ủng hộ việc để cho trẻ làm mọi thứ trẻ muốn. Hoàn toàn không phải như vậy. Điều tôi quan tâm là cách bạn can thiệp như thế nào).
Không bao giờ bình luận về những gì trẻ vừa nói hay cách trẻ nói những điều đó
Bé của bạn có thể sẽ nói những từ kỳ diệu đầu tiên ở giai đoạn này. Hãy kiềm chế việc yêu cầu trẻ “Nói từ đấy cho bố nghe nào”, “nói cho bà”, “nói cho dì nghe đi con” hay cho bất kỳ ai khác. Như chúng ta đã nói từ trước, trẻ nhỏ biết rất nhiều về quá trình giao tiếp và trẻ hiểu rõ việc đó không phải là giao tiếp thông thường. Điều đó chỉ khiến cho trẻ cảm thấy lo lắng và áp lực. Hãy chia sẻ niềm vui của bạn với người khác trên điện thoại khi trẻ không nghe thấy, nhưng đừng bao giờ bình luận về những điều trẻ vừa nói hay cách trẻ nói những điều đó trước mặt trẻ. Thay vào đó, hãy luôn phản hồi điều trẻ muốn diễn đạt trong quá trình giao tiếp. Trẻ sẽ cảm thấy hứng thú với sự phản hồi của bạn, nhất là khi bạn đáp lại những từ đầu tiên của trẻ, có khi chỉ bạn mới hiểu những từ đó.
Tôi và nhiều đồng nghiệp đã chứng kiến nhiều trẻ bắt đầu nói những từ đầu tiên và sau đó không nói nữa trong sáu tháng hoặc lâu hơn chỉ vì sự nhiệt tình quá mức từ phía gia đình.
Đây cũng chính là một chủ đề quan trọng nữa xuyên suốt Chương trình Trẻ học nói. Không bao giờ ép con bạn nói hoặc bắt chước các từ hay các âm! Điều này hoàn toàn không cần thiết. Nhiệm vụ của chúng ta là nói chuyện với trẻ theo cách thích hợp nhất. Nếu chúng ta làm được điều này, trẻ sẽ đảm nhận việc nói chuyện.
ĐẶT CÂU HỎI CHO TRẺ
Từ độ tuổi này, người lớn rất hay đặt câu hỏi cho trẻ. Họ làm vậy vì hai mục đích: một là thu thập thông tin, ví dụ “Con muốn ăn táo không?”; và hai là khuyến khích trẻ trả lời, ví dụ “Đây là gì?”.
Câu hỏi thứ nhất không có vấn đề gì, nhưng câu hỏi thứ hai thì không! Câu hỏi thứ nhất là giao tiếp đích thực, trong đó người lớn không biết câu trả lời, và trẻ nhỏ cũng biết rõ điều này. Câu hỏi thứ hai chẳng có gì liên quan đến giao tiếp và thực tế là một bài kiểm tra. Và trẻ biết rõ điều này. Câu hỏi mà trẻ đã biết rõ câu trả lời không giúp trẻ có thêm kiến thức mới, còn nếu trẻ không biết câu trả lời, câu hỏi đó chỉ khiến trẻ cảm thấy tồi tệ và có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc giao tiếp của trẻ. Tại trung tâm của mình, tôi đã gặp một cậu bé hoàn toàn không nói gì ngoại trừ câu hỏi “Đây là gì?”. Không khó để nhận ra rằng trẻ đã nghe đi nghe lại câu này rất nhiều lần.
Không đặt câu hỏi để kiểm tra trẻ
Tôi muốn đề xuất việc cấm sử dụng câu “Đây là gì?” ở độ tuổi này và cả trong một số giai đoạn sau, trừ khi có một tình huống bất chợt nào đó bạn không biết câu trả lời còn con bạn thì có thể biết.
(Khi trẻ lớn hơn, những câu hỏi phù hợp có thể giúp trẻ suy nghĩ và giải quyết vấn đề và có thể là một cách để chuyển lượt giao tiếp sang cho trẻ, nhưng từ đây đến lúc đó vẫn còn rất xa).
KHÔNG CHỈ NỬA TIẾNG MỖI NGÀY
Bạn có thể lo lắng về cách nói chuyện với con bên ngoài thời gian chơi đặc biệt mỗi ngày vì đến thời điểm này nó đã có nhiều thay đổi. Bạn hoàn toàn có thể tiếp tục tường thuật và chỉ ra những sự vật sự việc thú vị với trẻ khi bạn đang bận rộn và vẫn muốn duy trì giao tiếp với con. Nhớ sử dụng các câu ngắn khi nói chuyện với bé. Lời nói của bạn được điều chỉnh càng phù hợp thì việc học ngôn ngữ của trẻ sẽ càng tốt hơn. Ở giai đoạn này, việc có được sự giúp đỡ của toàn thể đại gia đình cũng rất hữu ích cho trẻ.