Nếu một doanh nghiệp độc quyền kiểm soát việc cấp phép cho tất cả hệ điều hành của các sản phẩm máy tính cá nhân tương thích với dòng chip x86 của Intel trên toàn cầu, họ có thể đặt giá thành cấp phép cao hơn đáng kể so với mức giá họ có thể đặt ra khi bị đặt trong một thị trường cạnh tranh, cũng như giữ mức giá đó trong một thời gian tương đối dài mà không lo bị mất quá nhiều khách hàng đến mức trở thành không có lợi nhuận. Do vậy, khi đánh giá mức độ kiểm soát thị trường của Microsoft, chúng ta sẽ đánh giá qua thị trường cấp phép cho hệ điều hành của các sản phẩm máy tính cá nhân tương thích với dòng chip x86 của Intel trên toàn thế giới.
Bản báo cáo về vụ tố tụng dân sự số 98-1232 giữa nhà nước Hợp chúng quốc Hoa Kỳ với tập đoàn Microsoft (Được đưa ra vào tháng 11/1999)
(Tài liệu này có sẵn dưới định dạng Adobe PDF, WordPerfect 5.1 và HTML, và không có mặt trong các phần mềm độc quyền của Microsoft)
Steve Ballmer
Năm 2000, mọi thứ ở Microsoft đã hoàn toàn thay đổi. Vào ngày 13 tháng 1, Steve Ballmer - người đã trở thành nhân viên thứ 30 của Microsoft từ tháng 6 năm 1980, đã được thăng chức từ trưởng bộ phận bán hàng và hỗ trợ lên làm tổng giám đốc điều hành. Bill Gates vẫn giữ chức vụ chủ tịch hội đồng quản trị, đồng thời là “kỹ sư phần mềm trưởng”, với trách nhiệm giám sát và kiểm soát việc sản xuất công cụ cũng như sản phẩm của cả công ty. Ông vẫn có quyền can thiệp vào các quyết định chính của công ty, nhưng Ballmer sẽ thay ông quyết định các sự vụ thường ngày. Kể từ đó, ông ta (Ballmer ) sẽ là phải thể hiện những phẩm chất mà doanh nghiệp đã cam kết trước chính phủ, các doanh nghiệp cũng như các cá nhân khác.
Thay đổi này có thể được ví như một vụ động đất ở thềm lục địa dưới đáy biển. Trên bề mặt, thời gian đầu, có vẻ như không có gì thay đổi cả. Gates và Ballmer đã là đồng nghiệp thân thiết của nhau nhiều năm rồi. Họ là một cặp đối lập một cách thú vị từ ngoại hình cho đến tính cách. Bill Gates là một kỹ sư cũng như nhà thiết kế phần mềm thiên tài với tính cách hướng nội và cũng không phải là người thu hút nhiều sự chú ý. Trong khi đó, Ballmer là một người to lớn, khá ồn ào và nổi bật, và là một nhân viên bán hàng tuyệt vời có thể phát hiện ra ngay tâm tư, tính cách của khách hàng và tìm ra một bản hợp đồng phù hợp với nhu cầu của họ. Phải nói rằng họ tạo thành một cặp đôi hoàn hảo - Bill Gates điều hành bộ phận lập trình viên và quản lý phụ trách sản xuất sản phẩm, trong khi Steve Ballmer dẫn đầu bộ phận bán hàng.
Tuy nhiên, khi lên nắm quyền, Ballmer lại không chia sẻ cùng nguyên tắc về phần mềm giống như Gates. Tuy rằng ông đã có bằng cử nhân về toán học và kinh tế, nhưng ông lại không có chút căn bản nào trong lĩnh vực lập trình phần mềm; và những nhân viên phát triển phần mềm ở Microsoft cũng biết điều đó. Phản ứng bản năng của một vài người trong số họ là cảm giác dường như công ty đã mất đi một phần bản chất của nó. Mặc dù công việc của Bill Gates có nghĩa là ông vẫn phụ trách việc khiển trách, phê bình và sa thải những giám đốc bị tụt lại phía sau, nhưng ông đã không còn phải là trung tâm của vũ trụ Microsoft nữa. Giờ đây, đối với Microsoft, ông giống như một ngôi sao chổi cứ lướt qua rồi lại vụt biến mất khi ông ngày càng dành nhiều thời gian hơn vào những dự án từ thiện nhằm chữa trị những căn bệnh có khả năng phòng ngừa ở các nước đang phát triển của mình.
Phiên tòa chống độc quyền
Khi Ballmer lên nắm quyền thì phiên tòa đã ngã ngũ, và phán quyết cuối cùng của thẩm phán đã được đưa ra. Họ chỉ trích Microsoft đã lạm dụng vị thế độc quyền trên hệ điều hành Windows nhằm mở rộng lãnh thổ thống trị của mình sang các thị trường khác, và điều đó là trái với pháp luật. Tuy nhiên, vẫn chưa có hình phạt nào được tuyên. Vụ kiện này, và hơn cả thế là những lời khai được công bố cũng như mức độ đưa tin của truyền thông, đã có ảnh hưởng rất lớn lên văn hóa doanh nghiệp nội bộ Microsoft. Tuy rằng nhân viên của họ vẫn luôn cho rằng mình thuộc nhóm những lập trình viên giỏi nhất thế giới; nhưng, đột nhiên, họ lại không còn sức thu hút với phần còn lại của nhóm “những lập trình viên giỏi nhất” này như trước nữa. Một phần nguyên nhân của việc này là do vụ kiện chống độc quyền kể trên diễn ra trong suốt 2 năm 1998 và 1999, chính là lúc mà quả bom “chấm com” bùng nổ, mang đến cơ hội làm giàu dễ dàng cho những lập trình viên có năng lực và chọn đúng công ty để cống hiến. “Hãy đầu tư vào cổ phiếu với giá thấp, và một khi cổ phiếu của công ty được phát hành trên thị trường, bạn sẽ trở nên giàu có, cũng giống như những anh chàng may mắn đã đầu tư vào Netscape hay Yahoo vậy”. Thêm vào đó, việc đầu quân cho Microsoft giờ đây còn phần nào mang ý nghĩa là bạn đang làm trái với các giá trị đạo đức của bản thân.
Nội bộ Microsoft lúc này cũng đang có một công cuộc tự tìm kiếm lại bản tâm của mình. Một trong những ví dụ sớm của công cuộc này là vào chuyến đi nghỉ dưỡng thường niên của ban lãnh đạo năm 1999, khi Gates và Ballmer muốn bàn luận về vấn đề tài chính của công ty, kiểm tra hiệu quả làm việc và lên biểu đồ cho những dòng sản phẩm sắp tới. Lúc đó, bản báo cáo của phiên tòa chống độc quyền - những đánh giá chân thật nhất về Microsoft của thẩm phán vẫn chưa được công bố trước công chúng. Tuy vậy nhưng Microsoft cũng đã bị chỉ trích kịch liệt ở tòa; và đặc biệt là hình ảnh của Bill Gates trong video ghi hình cuộc nói chuyện của ông và công tố viên David Boies, đã bị can thiệp làm cho ông có vẻ thật lảng tránh và ngạo mạn.
Trong cuộc họp, Orlando Ayala, trưởng bộ phận bán hàng ở khu vực Mỹ La tinh và Nam Thái Bình Dương, đã bày tỏ quan điểm của mình với các nhà lãnh đạo cao cấp của tập đoàn rằng ông không muốn nói về bất kỳ bản hoạch định tương lai nào cả. Một người cùng tham dự cuộc họp đó đã kể lại rằng Ayala đã nói: “Chúng ta phải nói chuyện nghiêm túc về giá trị của chúng ta tại công ty này. Tôi sẽ không thể tiếp tục làm việc ở đây được nữa nếu anh trai tôi [một người không làm việc tại Microsoft] cứ không ngừng thách thức công việc của tôi. Những người cùng có mặt tại buổi họp đó đã miêu tả hành động này như một cú đột phá, một ví dụ tiêu biểu cho việc “khép lại chủ đề thường nhật về doanh số và tiến độ công việc, để mở ra chủ đề tìm cách thay đổi phương thức làm việc của công ty”.
Những thành viên cùng tham gia buổi họp cũng kể lại rằng:
“Chúng tôi đã lên tiếng: ‘Không, chúng tôi không muốn thảo luận về phương hướng phát triển nữa, vì lúc này, chúng ta đang trong một cuộc khủng hoảng tồi tệ, và việc chúng ta phải làm bây giờ là cần phải nói ra doanh nghiệp chúng ta đại diện cho cái gì”… Chúng tôi bị mang tiếng là những kẻ xấu xa; hầu hết chúng tôi đều bị bạn bè và gia đình - những người không làm việc cho Microsoft - nghi ngờ và tra hỏi, rằng tại sao chúng tôi vẫn còn làm việc cho Microsoft nếu đã biết đó là một công ty tồi tệ đến vậy”.
Ban lãnh đạo tập đoàn cũng phải thừa nhận rằng đó là một trải nghiệm chẳng dễ chịu chút nào: “Chúng ta đều hiểu được rằng Microsoft hoàn toàn có năng lực để xây dựng nên những phần mềm sẽ thay đổi cả thế giới này”. Vấn đề là nếu không phải là thành viên trong nội bộ công ty thì sẽ chỉ thấy đó là một tổ chức hành xử như lũ xã hội đen, và luôn sẵn sàng đe dọa bất cứ ai có vẻ như sẽ làm ảnh hưởng đến lợi ích của họ. Thẩm phán Thomas Panfield Jackson của phiên tòa xét xử Microsoft, khi trò chuyện với phóng viên tại phiên tòa, đã đưa ra nhận xét rằng cách hành xử của Microsoft giống như bọn buôn ma túy hoặc dân đâm thuê chém mướn vậy.
Bản báo cáo phiên tòa đã đề cập rằng Microsoft giữ vị thế độc quyền trong ngành sản xuất hệ điều hành máy tính nên họ có thể toàn quyền tự định giá cấp phép cho bản quyền biết chắc rằng sẽ không ai có thể từ chối. Thẩm phán Jackson đã đưa ra bằng chứng là trong một nghiên cứu nội bộ của Microsoft, chỉ ra rằng mức giá $49 cho bản nâng cấp hệ điều hành Windows 98 là phù hợp và sẽ đem lại lợi nhuận, nhưng mức giá $89 sẽ tối đa hóa lợi nhuận của công ty, đánh đúng vào hạn mức tối đa mà khách hàng sẽ bỏ ra, vì nếu vượt qua con số đó rất nhiều khách hàng tiềm năng sẽ bỏ qua lựa chọn nâng cấp và tiếp tục sử dụng phần mềm cũ. Chỉ khi nắm vị thế độc quyền một công ty mới có khả năng kiểm soát giá sản phẩm như vậy.
Trở thành một nhà độc quyền phân phối sản phẩm (theo định nghĩa thông thường là chiếm từ 80% thị phần trở lên) không phải là phạm pháp ở Mỹ; cũng như sẽ không nhất thiết sẽ dẫn đến một hình phạt nào. Tuy nhiên, lợi dụng thế độc quyền này để mở rộng ảnh hưởng của mình ở một lĩnh vực khác, nhất là khi việc này gây ảnh hưởng xấu đến khách hàng ở một hoặc cả hai thị trường đó, thì lại là vi phạm luật pháp. Và Microsoft đã vượt quá giới hạn này khi theo dõi và công kích trình duyệt Netscape - một trình duyệt có dấu hiệu sẽ được phát triển thành một ứng dụng nền tảng cho nhiều ứng dụng khác vốn chạy trên hệ điều hành Windows, và lợi dụng quyền ưu tiên của Windows để ngăn Netscape truy cập vào một số giao diện lập trình ứng dụng (APIs) cần thiết cho trình duyệt này chạy được trên Windows 95, thay vào đó đẩy mạnh trình duyệt Internet Explorer bằng cách đặt trình duyệt này làm mặc định - cùng với đó là việc đe dọa các công ty sản xuất máy tính và phụ tùng gốc (OEM) bằng cách từ chối cấp phép phần mềm Windows cho họ (việc này hoàn toàn có thể hủy hoại công việc kinh doanh của những công ty này).
Bên cạnh những nạn nhân trực tiếp bị Microsoft nhắm vào trong chiến dịch lợi dụng lợi thế của hệ điều hành Windows nhằm công kích các sản phẩm thuộc thị trường khác, một số cái tên khác cũng được nhắc đến trong phiên tòa này, đó là Intel, Sun Microsystem, Real Networls, và IBM - những công ty đã bị Microsoft từ chối không cấp bản quyền hệ điều hành Windows 95 cho phụ tùng gốc (OEM) cho Windows 95 đến tận 15 phút trước khi ra mắt sản phẩm, khiến cho những công ty này lỡ mất một cơ hội bán hàng khổng lồ - và cả Apple nữa. Về phía Apple, họ cũng đã nhận được một đề nghị từ Microsoft: Dừng phát triển hệ thống phần mềm nghe nhạc và xem phim trên hệ điều hành Windows và để cho Microsoft xử lí vấn đề đó sử dụng hệ thống mã nguồn DirectX của họ. Đổi lại, Microsoft sẽ ngừng gây khó dễ với việc phát triển phần mềm QuickTime trên hệ điều hành Windows của họ. Steve Jobs - cũng có mặt trong cuộc họp vào tháng 6 năm 1998, đã phản đối đề nghị này vì nó sẽ giới hạn khả năng của bên thứ ba muốn phát triển phần mềm trên cả máy tính chạy hệ điều hành Windows và các sản phẩm của Apple. Nhìn lại thì đó có thể được coi như một trong những quyết định quan trọng nhất của Jobs đối với thành công sau này của Apple, vì lựa chọn như vậy có nghĩa là Microsoft không thể kiểm soát được cách mà Apple mã hóa các file âm nhạc để nghe được trên Windows.
Tuy nhiên, trình duyệt Internet Explorer mới là tâm điểm của phiên tòa vì một số lý do: số lượng nhân viên của Microsoft làm việc cho dự án này đã tăng vọt, từ số người có thể đếm được trên đầu ngón tay đến hơn 1000 người trong vòng 4 năm từ 1995 đến 1999. Và Microsoft quyết định tặng kèm miễn phí trình duyệt này vì mục tiêu của họ là để thúc đẩy tỉ lệ chiếm lĩnh thị phần trên thị trường trình duyệt internet tới mức độc quyền (50% đã là tốt rồi, và từ 80% trở lên là mục tiêu lí tưởng). Và bằng chứng cuối cùng trong bộ 3 luận điểm mà thẩm phán Jackson sử dụng để kết tội Microsoft là hành động của công ty này đã gây ảnh hưởng xấu lên không chỉ các công ty khác mà cả khách hàng nữa: Cài đặt Internet Explorer gắn liền với hệ điều hành Windows khiến cho các phần mềm khác trong máy tính dễ bị virus xâm nhập và tấn công hơn.
Tuy vậy, thị trường chứng khoán lại không bị ảnh hưởng mấy bởi những thông tin này. Thậm chí 1 tháng sau khi bản báo cáo của phiên tòa này được công bố, giá cổ phiếu của Microsoft đã tăng mạnh, và đạt được mức giá trị vốn hóa cao nhất trong lịch sử công ty là 612.5 tỷ đô la Mỹ vào ngày làm việc cuối cùng của tháng 12 năm 1999. Giá cổ phiếu của các công ty công nghệ khác trong thị trường cũng tăng mạnh - một nghiên cứu đã chỉ ra lý do cho việc này là vì Jackson (một doanh nhân thuộc đảng Cộng hòa) đã mở đường để các công ty đó được có một môi trường cạnh tranh lành mạnh và hiệu quả.
Kết quả của phiên tòa
Và rồi, vào tháng 8 năm 2000, sau khi Ballmer lên nắm quyền được 4 tháng, Jackson đã đưa ra phán quyết về hình phạt cho Microsoft: Tập đoàn Microsoft sẽ bị tách ra làm 2 công ty riêng lẻ - một công ty chuyên sản xuất hệ điều hành, và một chuyên sản xuất phần mềm ứng dụng.
Microsoft cực lực đấu tranh để phản đối quyết định này. Theo lời của họ, vị thẩm phán Jackson đã làm tổn hại vị thế vô tư của mình khi đã nói chuyện với phóng viên Ken Auletta của báo The New Yorkers trong thời gian diễn ra phiên tòa về một cuốn sách mà ông sẽ xuất bản ngay sau đó. Vào tháng 2 năm 2001, một nhóm thẩm phán đã tiếp nhận kháng cáo này và tuyên bố Jackson, vì cuộc trò chuyện đó, đã vi phạm đạo đức của một thẩm phán. Vấn đề thực sự ở đây là những nhận xét của ông lại được công bố trong quá trình xét kháng cáo, thay vì ngay sau khi bản án của ông được đưa ra. Thế là, vụ tách đôi của Microsoft đã bị hoãn lại vì hành động “thiên vị” của Jackson. Jackson phản bác lại rằng mọi thiên vị đều là do lỗi của Microsoft, vì các hoạt động của tập đoàn này hết lần này tới lần khác đều đã được chứng minh là thiếu chính xác, có định hướng sai lệch, lảng tránh vấn đề và có nhiều sai phạm rõ ràng… Nói chung, Microsoft đã coi thường và vi phạm rất nhiều vấn đề về đạo đức cũng như luật pháp mà đáng ra họ phải tuân thủ. Đây cũng là một trong số những công ty có quản lý cấp cao lại đồng ý tổ chức một phiên đối chứng để lật tẩy các chứng cứ giả mạo che giấu cho sai phạm của chính công ty mình.
Trong lúc ấy, tất cả nội bộ công ty đều đang thở phào nhẹ nhõm và nhận ra mình vừa thoát hiểm trong gang tấc. Tuy nhiên, dù hình phạt đã bị tạm hoãn, nhưng lời tuyên án, cũng như bản báo cáo phiên tòa thì không thể thay đổi được nữa. Tại cuộc hội thảo thương mại thường niên ngay sau đó, được tổ chức tại sân vận động Seattle Mariners, Ballmer đã chỉ ra rằng phương thức hoạt động của Microsoft cần phải được thay đổi: Họ không thể cứ tiếp tục lợi dụng ưu thế tại một thị trường để thống trị các thị trường khác như thế này được nữa. Ủy ban Châu Âu cũng đang chuẩn bị có các cuộc điều tra tương tự, theo sau bởi rất nhiều tranh cãi, và cũng đã đi đến quyết định vào năm 2003, yêu cầu Microsoft phải mở cửa giao diện phần mềm của mình. Tuy nhiên, trường hợp xảy ra ở Mỹ mới là sự kiện góp phần nhiều nhất đến sự thay đổi linh hồn của Microsoft.
Joe Wilcox, vào thời đó là một nhà phân tích chuyên theo dõi các trường hợp của Microsoft, đã kết luận rằng những vụ điều tra chống độc quyền ở Mỹ và Châu Âu đã có những ảnh hưởng “khổng lồ” lên phương thức làm việc của họ: “Sau thỏa thuận hồi tháng 11 năm 2001, Microsoft tỏ ra ‘hiền dịu’ hẳn, dù cho hình phạt của họ sẽ không tới trong vòng ít nhất là một năm nữa. Chúng ta có thể nhận thấy có một sự thiếu chắc chắn cũng như tính quyết đoán một cách rõ rệt trong phương thức đáp trả của họ đến Apple cũng như các công ty khác”.
Một số người trong công ty cảm thấy họ đã và đang dần từ bỏ cách hành động bị lên án trước đây của mình. Một vài cựu nhân viên của Microsoft đã thừa nhận rằng: “Rất nhiều trong số những điều khoản trong những bản hợp đồng chúng tôi đã soạn ra là khá tiệm cận với lằn ranh hợp pháp. Nhưng, thẳng thắn mà nói thì nếu bạn nhìn vào những bản hợp đồng thời nay, dù cho đó có là các hợp đồng của Apple về sản phẩm iPhone, hay là của Google, hoặc thậm chí là của Intel, bạn chắc chắn sẽ nhận ra rằng chúng còn nghiêm trọng hơn những điều khoản mà Microsoft đã ký với Intel rất nhiều”. Việc này hoàn toàn đi lạc khỏi chủ đề mà chúng ta đang nhắc đến: Những bản hợp đồng không có lỗi, nhưng các chiến lược phát triển lợi dụng vị thế độc quyền của Microsoft thì có. Apple thì không có tí gì gọi là độc quyền trên thị trường điện thoại di động cả. Intel và Google thì đều đang hoạt động trong lĩnh vực của riêng mình - và đều đã thu hút sự chú ý của các thanh tra chống độc quyền (trong trường hợp của Intel thì họ đã phải bỏ ra một cái giá không hề nhỏ).
Microsoft đã tránh được vụ chia tách công ty trong thỏa thuận vào năm 2001. Tuy nhiên, Microsoft vẫn phải đồng ý với điều kiện rằng sẽ có một bên thứ ba hoàn toàn khách quan có quyền truy cập và kiểm tra toàn bộ mã nguồn, hồ sơ hoạt động cũng như hệ thống của họ. Thỏa thuận này cũng có nhắc đến việc các bộ phận được tách ra của Microsoft phải thành lập những rào cản thông tin kiểu “Bức tường Trung Hoa” trên API của họ (API - một loại “móc xích” trong thế giới lập trình giúp các sản phẩm có thể hoạt động được; một API thông thường sẽ cho bạn quyền truy vấn hệ điều hành về các chi tiết như thời gian trên đồng hồ của hệ thống, hay vị trí của một tệp thông tin nhất định và gửi thời gian hiện tại về tệp đó trên một ổ cứng bất kỳ dưới một tệp đã được định dạng trước hoặc một đường dẫn). Phán quyết đã ghi rõ: nếu một bộ phận của Microsoft muốn mở cổng API về thông tin của một sản phẩm cho bất kỳ bộ phận nào khác của tập đoàn này thì đồng thời họ cũng phải công khai những thông tin này trước công chúng. Điều này sẽ hạn chế được việc họ sử dụng các API “bí mật” hoặc tư nhân trong nội bộ công ty để hợp lực gia tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm của mình và vượt qua công ty cạnh tranh. Thỏa thuận này có hiệu lực trong vòng 10 năm, cho đến tháng 11 năm 2011. Cuối cùng, Microsoft, vì biểu hiện tốt, đã được mãn hạn sớm vào tháng 6 năm 2011.
Pieter Knook, một nhân viên đã làm việc cho Microsoft ở chi nhánh Châu Á trong khoảng thời gian đó, đã nhận xét rằng quy trình làm việc trong thời kỳ “hậu phán quyết” thật quá sức mệt mỏi. “Mỗi năm, tất cả các nhân viên điều hành đều phải tham gia một khóa đào tạo chống độc quyền, để xác nhận rằng họ đã và sẽ thực hiện đúng với các điều khoản trong bản ‘thỏa thuận chống độc quyền’ - vì vậy, tất cả mọi người hầu như đều hiểu rõ bổn phận phải làm điều đúng đắn”.
Mọi người trong công ty đều sớm nhận ra rằng việc họ đã may mắn một lần - khi thẩm phán xử vụ của họ đã lỡ mồm lỡ miệng không phải lúc - không có nghĩa là họ sẽ luôn tốt số như vậy. Vụ án với thẩm phán Jackson đã là lần chạm mặt thứ hai của Microsoft với Sở Tư Pháp (sau một lần đầu tiên đỡ nghiêm trọng hơn vào năm 1991). Nếu như có thêm lần thứ ba, mọi thứ có lẽ sẽ không dễ dàng như vậy được nữa.
“Việc này đã có ảnh hưởng rất lớn lên Microsoft, thậm chí cho đến cả thập kỷ sau đó thì ảnh hưởng đó vẫn còn tồn tại”, Mary Jo Foley - một ký giả chuyên viết về Microsoft trong nhiều năm - đã nói. Khi họ suy nghĩ về việc thêm một tính năng mới vào một sản phẩm nào đó, hoặc việc làm sao để các sản phẩm của họ hoạt động ăn khớp và bổ trợ được lẫn nhau, tôi nghĩ, lúc nào trong đầu họ lúc nào cũng lởn vởn một ý niệm kiểu như: “Làm như vậy liệu có thể khiến chúng ta bị ai đó kiện vì vi phạm luật độc quyền hay không?” “Có khi nào chúng ta sẽ bị kiện, vì một lí do bất kỳ nào đó không?” Cứ khi nào ý tưởng mới được đưa ra là câu hỏi này lại kéo đến ngay sau đó: Liệu những gì sắp được thực hiện có vi phạm luật chống độc quyền hay không? “Tôi nghĩ điều này phần nào đã làm đình trệ tiến trình phát triển sản phẩm của họ”, Foley nói.
Với việc bị cảnh cáo một cách thích đáng và hiện đang hoạt động dưới một chế độ giám sát nghiêm ngặt, giờ đây, viễn cảnh về những thách thức được đặt ra trước mắt của Microsoft trong tương lai là: Công cụ tìm kiếm, âm nhạc kỹ thuật số và điện thoại di động. Đối thủ đầu tiên hiện ra trong mắt họ là một công ty khởi nghiệp nho nhỏ đang trở thành một hiện tượng và là chủ đề bàn tán của cộng đồng mạng, một công ty được xây dựng dựa trên một phương châm thể hiện rõ ràng mong muốn để không trở thành một Microsoft thứ hai: “Đừng trở nên độc địa”.