• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Cuộc chiến không hồi kết: The Clintons vs the Obamas
  3. Trang 28

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 27
  • 28
  • 29
  • More pages
  • 44
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 27
  • 28
  • 29
  • More pages
  • 44
  • Sau

Chương 20Cú lừa Benghazi

Obama đã dồn Hillary vào đường cùng, cả bà ấy lẫn Bill đều chưa thấy được lối thoát nào. Và do đó, lúc 10 giờ 30 phút đêm 11 tháng 9, Ngoại trưởng Hillary Clinton đã phát đi “Thông cáo về vụ tấn công tại Benghazi”. (...) Vụ lừa dối Benghazi giờ đây đã trở thành chính sách chính thức của Mỹ.

Chiều muộn ngày 11 tháng 9 năm 2012 - sáu ngày sau bài phát biểu của Bill Clinton tại đại hội Đảng Dân chủ - Hillary trở lại văn phòng của mình trên tầng bảy ở Bộ Ngoại giao.

Bà vừa trở về sau chuyến đi mệt nhoài kéo dài một tuần rưỡi tới Cook Islands, một chuỗi đảo xa xôi ở Nam Thái Bình Dương, để tham dự Diễn đàn các quần đảo Thái Bình Dương, một hội nghị thu hút đại diện từ gần sáu mươi quốc gia. Mục đích chuyến đi của bà là thúc đẩy sự xoay trục của Mỹ - hay “tái cân bằng chiến lược” - từ Trung Đông sang khu vực châu Á - Thái Bình Dương, một chính sách cho đến nay vẫn tỏ ra là lời nói khoa trương hơn là thực tiễn.

Với chuyến đi này, Hillary đã đi hết gần một triệu dặm đường với tư cách ngoại trưởng, đứng thứ hai chỉ sau kỷ lục của cựu Ngoại trưởng Condoleezza Rice, người trẻ hơn Hillary bảy tuổi và, không như Hillary, là người rất mê tập thể thao, thể hình. Tuần làm việc tám mươi tiếng, những chuyến bay thường xuyên ngang qua rất nhiều múi giờ, và các cuộc gặp gỡ kéo dài đến quá nửa đêm đã khiến Hillary trông xanh xao, hốc hác. Bà cũng cứ để mặc mái tóc rũ rượi và xơ xác, còn cơ thể thì phát phì. Trông bà khủng khiếp đến mức hai trợ lý hàng đầu của bà - Cheryl Mills, chánh văn phòng, và Philippe Reines, phát ngôn riêng - đều rất lo lắng rằng Hillary đang làm việc quá sức.

Và vì cái gì chứ?

Giới chuyên gia về chính sách đối ngoại đều nhất trí rằng Hillary chẳng có gì nhiều để thể hiện những nỗ lực kiểu huyền thoại Hercule. Theo tờ New York Times, Hillary muốn xác định bảng thành tích của mình không chỉ là một “người mặc quần âu công du khắp thế giới”. Aaron David Miller, một chuyên gia đàm phán Trung Đông lão luyện, tổng kết quãng thời gian làm ngoại trưởng của Hillary là “không tự phụ”. Và Danielle Pletka, Phó Chủ tịch phụ trách nghiên cứu chính sách đối ngoại và quốc phòng tại Viện Doanh nghiệp Mỹ, thì cho là thế này:

“Sự đồng thuận đơn giản về nhiệm kỳ của Hillary Clinton tại Bộ Ngoại giao là: Chẳng có gì đặc biệt. Theo tiêu chí của chính mình, bà hoàn thành chẳng được bao nhiêu và trong những lĩnh vực bà nhấn mạnh là quan trọng nhất với bà - quyền cho phụ nữ và các nhóm tôn giáo thiểu số, nền hòa bình Israel - Palestine cũng như chấm dứt chương trình vũ khí hạt nhân của Iran - bà chỉ ghi được không điểm. Phụ nữ và các nhóm tôn giáo thiểu số giờ ít có quyền tự do hơn ở khắp Trung Đông và Bắc Phi. Tại Afghanistan, nơi họ có thể có hy vọng, chính quyền Obama lại cam kết về một sự rút lui “có kế hoạch”. Còn Israel - Palestine? Quý vị có cần hỏi vậy không? Iran giờ tiến gần tới vũ khí hạt nhân hơn cả lúc trước, bất kể những nỗ lực vẫn đang tiếp tục nhằm khuyên họ từ bỏ chương trình ấy.”

Mặc dù chuyến đi mới nhất của Hillary chẳng làm được gì nhiều để thúc đẩy trục của Mỹ về phía châu Á, nhưng tinh thần của bà khá phơi phới, nhờ có chuyện giới truyền thông nhất loạt đưa tin về bài phát biểu ấn tượng của Bill tại đại hội. Cùng với những bài đánh giá tán dương Bill, truyền thông chính thống còn kết luận rằng sự ủng hộ tuyệt đối của Bill dành cho tổng thống cho thấy một sự thay đổi lớn trong quan hệ Clinton - Obama. Các cây viết theo chủ nghĩa tự do đều viết rằng gia đình Clinton và gia đình Obama đã chấm dứt mối thâm thù kéo dài của họ và tìm thấy nền tảng chung. Theo thỏa thuận đình chiến này, Bill Clinton sẽ có những bài diễn văn và xuất hiện trong các chương trình truyền hình thương mại vì Obama, giữ vai trò như một tên lửa đẩy cho danh sách ứng cử của Đảng Dân chủ trong tám tuần còn lại của chiến dịch tranh cử tổng thống. Đảng Dân chủ đã đoàn kết trở lại, và tất cả đều tốt đẹp trong thế giới tiến bộ.

Đó là một bức tranh mỹ miều, nhưng chẳng mấy mà mất đi sức hấp dẫn. Vào ngày kỷ niệm sự kiện 11/9 lần thứ mười một, khi Hillary đã hồi sức sau chuyến công du châu Á và giải quyết công việc bình thường ở Foggy Bottom, một sự kiện đã xảy ra cách Washington D.C. 5.205 dặm, khiến chính sách đối ngoại của nước Mỹ bị xáo trộn, đe dọa cơ hội tái đắc cử của Barack Obama, làm hoen ố thanh danh của Hillary, mở banh những vết thương cũ giữa nhà Clinton và nhà Obama.

* * *

Không lâu sau, 4 giờ chiều hôm đó, Trung tâm Tác nghiệp tại Bộ Ngoại giao cảnh báo với chánh văn phòng của Hillary, Cheryl Mills, rằng phái bộ Hoa Kỳ ở Benghazi bị tấn công bởi một nhóm người có vũ trang.

Tại Washington, người ta biết đến Cheryl Mills như là “thiên thần hộ vệ của Hillary”. Là một người Mỹ gốc Phi tốt nghiệp trường Luật Stanford, bà ấy là cựu binh trong các cuộc chiến thời Clinton, người được biết đến rõ nhất nhờ việc hết lòng bảo vệ Bill Clinton trong phiên tòa xử ông ấy. “Tôi đứng đây trước quý vị ngày hôm nay”, bà ấy nói từ trung tâm phòng họp Thượng viện, gây sự chú ý đến chủng tộc và giới tính của mình, “bởi vì Tổng thống Bill Clinton tin tôi có thể làm được”. Mối quan hệ của Clinton với Monica Lewinsky “không có gì hấp dẫn”, bà ấy lập luận, nhưng “thành tích của ông ấy về dân quyền, các quyền của phụ nữ, về tất cả các quyền của chúng ta, là không thể nghi ngờ”.

Lòng trung thành đã mang lại cho Cheryl Mills địa vị cao quý trong lãnh địa của Hillary. “Mills rất được gia đình Clinton yêu quý vì bà ấy không bao giờ thoái lui, không tiết lộ điều gì, không nhượng bộ một phân - đó chính là phong thái mà họ ưa thích”, tờ Washington Post viết.

Hai giờ sau lần báo động thứ nhất, Trung tâm Tác nghiệp phát đi thông báo thứ hai, được Mills đọc, sau đó lập tức mang tới văn phòng của Hillary. Thông báo này ghi rằng “Biệt thự C”, nơi Đại sứ J. Christopher Stevens đang ẩn náu trong một phòng an toàn, đã bị Ansar al-Sharia, một nhóm khủng bố có liên hệ với al-Qaeda nhận trách nhiệm về vụ tấn công, châm lửa đốt.

Những tuyên bố sau đó của Hillary rằng các quan chức “từ cấp trợ lý Bộ trưởng trở xuống” đã không thông báo cho bà về những đề nghị tăng cường an ninh tại cơ sở ngoại giao Benghazi rõ ràng là không đúng. Chỉ xin lấy một ví dụ: Hillary đã ký một điện tín thừa nhận rằng đại sứ tiền nhiệm của Christopher Stevens là Gene Cretz đã chính thức đề nghị có thêm trang thiết bị an ninh bổ sung.

Nếu xét đến phong cách quản lý cá nhân của Hillary, cái lý do “tôi không được thông báo” của bà không vững vàng. Bà không phải là người được ủy nhiệm; bà là một nhà quản lý thực hành không thích bị bưng mắt. Với sự hỗ trợ của Cheryl Mills, Hillary can thiệp vào những vấn đề thông thường trước kia do Văn phòng An ninh của Bộ Ngoại giao hoặc Văn phòng Lãnh sự giải quyết. Theo một cựu ngoại trưởng, người trò chuyện với tôi với điều kiện được giấu tên, Hillary đã can dự rất sâu ở tất cả các cấp trong Bộ Ngoại giao.

“Mặc dù bà ấy không mạnh trong việc quản lý chiến lược chính sách đối ngoại”, vị cựu bộ trưởng này nói, “nhưng bà ấy điều hành bộ tốt hơn hẳn tôi từng thấy trước kia”.

Trong những tháng trước vụ tấn công, Cheryl Mills và cấp phó của bà ấy, Jake Sullivan, đã thông báo để Hillary biết rằng phái bộ của Mỹ rất dễ bị tổn thương trước sự tấn công của các nhóm dân quân Hồi giáo được vũ trang kỹ càng nghênh ngang trên các đường phố tồi tàn ở Benghazi. Mills và Sullivan đã nói với Hillary rằng Benghazi, nơi nổ ra cuộc cách mạng Libya lật đổ chế độ của nhân vật quyền thế Muammar al- Gaddafi, đã rơi vào hỗn loạn.

Thêm vào đó, Hillary đã nhận được các bản báo cáo vắn tắt từ CIA lẫn Cơ quan Tình báo và Nghiên cứu của Bộ Ngoại giao chỉ rõ al-Qaeda “vô chính phủ” từ trong nòng cốt tại Khu vực các bộ tộc do liên bang quản lý giữa Pakistan và Afghanistan cho tới bán đảo Arabia và ngày càng lan rộng đến Bắc Phi. Benghazi, một cảng chuyên chở dầu lớn trên bờ Địa Trung Hải, đặc biệt nhạy cảm nếu xét đến tình trạng hỗn loạn của nó.

“Chúng tôi tin al-Qaeda đã chuyển năng lực hành binh tới các chi nhánh này, biết rõ thông tin liên lạc bị theo dõi đến chừng nào”, một nhân viên tình báo cao cấp nói với tờ Washington Times. “Nhưng chúng vẫn quyết tâm tấn công ta, chủ quyết thông qua các chi nhánh này.”

Vì sự tham gia tích cực của Hillary vào việc điều hành Bộ Ngoại giao hằng ngày thông qua Cheryl Mills, không thể tưởng tượng được rằng bà ấy chẳng biết gì về một loạt biến cố dữ dội làm chấn động cả Benghazi trong những tháng gần đây:

• Tháng 4, bọn khủng bố ném một thiết bị nổ vào một đoàn xe chở phái viên Hoa Kỳ là Ian Martin.

• Tháng 5, một quả đạn rơi trúng văn phòng của Hội Chữ thập đỏ quốc tế.

• Tháng 6, một thiết bị nổ tự chế (IED) nổ bên ngoài khuôn viên lãnh sự Hoa Kỳ, đục thủng một lỗ trên bức tường bao. Những chiến binh chịu trách nhiệm về vụ IED này để lại các tờ rơi tại hiện trường nói rằng cuộc tấn công là nhằm trả đũa cho cái chết của Abu Yahya al-Libi, thủ lĩnh số hai của al- Qaeda tại Libya.

• Tháng 6, những kẻ vũ trang liên kết với Ansar al-Sharia, một nhóm có liên hệ mật thiết với al-Qaeda, đột chiếm lãnh sự quán Tunisia tại Benghazi.

• Tháng 6, một âm mưu ám sát bất thành bằng lựu đạn nhằm vào đại sứ Anh quốc Sir Dominic Asquith khiến Anh phải rút nhân viên của mình khỏi Benghazi.

• Cả MI6 ở Anh và Mossad ở Israel đều cảnh báo Washington rằng Ansar al-Sharia và các nhóm khủng bố thánh chiến khác có liên hệ với al-Qaeda tại Maghreb Hồi giáo (AQIM) đang hoạt động tại Benghazi.

• Al-rāya, tức lá cờ thánh chiến màu đen, khét tiếng của al-Qaeda được phát hiện đang tung bay tại một thị trấn gần đó.

• Tháng 8, chưa đầy một tháng trước vụ tấn công, phái bộ Mỹ ở Benghazi gửi một điện tín cho Bộ Ngoại giao chuyển tiếp các kết quả của một “cuộc họp khẩn” được tổ chức bởi các nhân viên. Điện tín ghi: “Cán bộ An ninh Khu vực [RSO] bày tỏ lo ngại về năng lực bảo vệ cơ sở trong trường hợp có một vụ tấn công phối hợp, nguyên nhân do nhân lực yếu, các giải pháp an ninh, năng lực vũ khí, sự hỗ trợ của nước sở tại và quy mô tổng thể của quần thể”.

• Đại sứ Stevens đích thân gửi liên tiếp các điện ngoại giao về Bộ Ngoại giao thông báo rằng an ninh ở Benghazi không thể tồn tại được. Một trong những bức điện của ông ấy có đầu đề: “An ninh mong manh của Libya giảm sút do tình trạng thù địch giữa các bộ lạc, các cuộc chơi quyền lực và chủ nghĩa quá khích gia tăng”.

• Ngày 10 tháng 9 - một ngày trước vụ tấn công vào lãnh sự quán Mỹ - Ayman al-Zawahiri của al-Qaeda, người đã thế chỗ của Osama bin Laden làm quân sư cho al-Qaeda, tung ra một video kêu gọi “những người con của Libya” hãy trả thù các vụ giết người bằng máy bay không người lái của CIA.

Bất chấp những sự kiện đáng báo động này, Hillary đã không theo sát những đề nghị được nhắc đi nhắc lại muốn tăng cường an ninh tại phái bộ Mỹ ở Benghazi. Lý do: Bà ấy tin (mà hóa ra là rất sai lầm) rằng CIA - cơ quan chính của Hoa Kỳ thực hiện chiến dịch Benghazi - sẽ cung cấp năng lực an ninh dự phòng phù hợp nếu như cơ sở ngoại giao bị tấn công.

* * *

Chỉ mấy tiếng sau cảnh báo ban đầu từ Trung tâm Tác nghiệp của Bộ Ngoại giao, Cheryl Mills vẫn ngồi ở bàn làm việc, theo dõi sát trận chiến đang diễn ra tại Benghazi và cập nhật cho Hillary. Bà ấy làm việc bằng điện thoại, gọi cho cấp dưới tại Bộ Ngoại giao, Lầu Năm Góc và CIA để biết chuyện gì đang diễn ra.

Thêm vào đó, Mills đề nghị Tom Donilon, cố vấn an ninh quốc gia của tổng thống, cung cấp tình hình cập nhật định kỳ cho Hillary. Donilon bảo với Hillary rằng Cơ quan An ninh Quốc gia đã chặn mọi liên lạc điện tử giữa Ansar al-Sharia, lực lượng dân quân Libya chính đứng sau vụ tấn công lãnh sự, và AQIM. Ansar al-Sharia tuyên bố trên Twitter rằng họ chịu trách nhiệm về vụ tấn công.

Lúc 5 giờ 41 phút chiều, Hillary gọi cho David Petraeus, Giám đốc Cơ quan Tình báo Trung ương. Bà ấy và Petraeus đã thiết lập mối quan hệ làm việc gần gũi. Mùa hè năm ngoái, họ đã nghĩ ra một kế hoạch chung nhằm trang bị vũ khí cho lực lượng kháng chiến Syria - một đề xuất bị bác bỏ bởi các nhóm chính trị rủi ro - bất lợi trong Nhà Trắng, những người đang thúc đẩy chiến dịch tái cử và không muốn Obama vướng vào một cuộc chiến tranh nữa ở nước ngoài. Hillary hỏi Petraeus về những gì các điệp viên mặt đất của ông ấy báo cáo từ Benghazi. Quan trọng hơn, bà muốn biết tại sao CIA lại không phái quân tiếp viện từ “chi nhánh” của mình ở Benghazi tới chỗ phái bộ.

Lúc này, Hillary đang hành động trên giả thuyết rằng Petraeus, không phải bà, mới là quan chức ngồi ghế nóng. Bà có lý do chính đáng để tin như vậy, vì hoạt động của Mỹ tại Benghazi từ đầu tới cuối đều là chiến dịch của CIA. Trong số bốn mươi nhân viên người Mỹ có mặt ở Benghazi, chỉ có bảy người làm việc cho Bộ Ngoại giao. Mục đích chính của lãnh sự quán là cung cấp nơi trú ngụ cho hơn ba mươi người Mỹ làm việc cho CIA.

Đích thân Hillary đã ra lệnh cho lãnh sự quán phải mở cửa để giúp phái bộ của CIA. Bà biết rất rõ rằng CIA có can dự vào việc bí mật - và có lẽ phi pháp - chuyển vũ khí ra khỏi miền Đông Libya, qua Thổ Nhĩ Kỳ, tới tay các nhóm phiến quân đang chiến đấu chống lại Bashar al-Assad ở Syria. Số vũ khí đó, kể cả súng phóng tên lửa, được mua lại từ các dân quân có liên hệ với al-Qaeda ở Libya. Và nhiều loại vũ khí trong số này đã tìm được cách lọt vào tay các chiến binh al-Qaeda ở Syria lẫn những kẻ khủng bố ở nhiều khu vực khác tại Trung Đông.

Tất cả những việc này đều được thực hiện mà Quốc hội Hoa Kỳ, cơ quan có các ủy ban tình báo chịu trách nhiệm thực hiện việc giám sát CIA, hoàn toàn không biết hay đồng ý. Thêm nữa, những vụ chuyển vũ khí bí mật cũng đang diễn ra đồng thời với việc Tổng thống Obama tuyên bố rất sai lầm rằng ông phân vân trong việc trang bị vũ khí cho phe đối lập Syria vì sợ rằng vũ khí sẽ đến nhầm địa chỉ.

“Chính quyền Obama chưa bao giờ công khai thừa nhận vai trò của mình trong việc tạo ra những gì CIA gọi là ‘lối chuột chạy’, một xa lộ phía sau thâm nhập vào Syria”, phóng viên điều tra Seymour M. Hersh viết trên tờ London Review of Books. “Lối chuột chạy... được sử dụng để tiếp tế vũ khí và đạn dược từ Libya qua miền Nam Thổ Nhĩ Kỳ và ngang qua biên giới Syria cho phe đối lập. Rất nhiều đối tượng ở Syria nhận được vũ khí lại chính là các chiến binh jihad, một số còn có liên hệ với al-Qaeda.”

Tóm lại, chính quyền Obama đã bí mật trang bị vũ khí cho kẻ thù trên toàn cầu của họ, al-Qaeda, trong một chiến dịch có rất nhiều chỉ dấu của vụ tai tiếng Iran - Contra từng làm lung lay chính quyền Reagan hai mươi sáu năm trước.

* * *

Một vài chuyên gia về chính sách đối ngoại mà tôi nói chuyện cùng thắc mắc tại sao Đại sứ Stevens lại ở Benghazi vào đúng cái ngày định mệnh xảy ra vụ tấn công phái bộ Mỹ.

“Nếu Stevens cảm thấy tình hình căng thẳng, tại sao ông ấy lại đến Benghazi?”, Leslie Gelb, một cựu quan chức cấp cao của Bộ Ngoại giao và là chủ tịch danh dự Hội đồng Quan hệ Đối ngoại, nói. “Ở đó không hề có hoạt động của Bộ Ngoại giao. Phải chăng ông ấy định nói chuyện với một vài thủ lĩnh Hồi giáo nào đó ở đấy? Ông ấy biết họ, bởi vì họ tham gia vào cuộc chiến chống lại Gaddafi. Chúng ta không hề nói về một kẻ ngốc nghếch ở đây: Stevens là người rất có kinh nghiệm và năng lực, người trực tiếp biết mấy gã jihad chết tiệt ở Benghazi này.”

Đại sứ Stevens nói tiếng Arab trôi chảy và đã tạo dựng được mối quan hệ thân thiết với những thủ lĩnh của các nhóm chiến binh Libya, trong đó có các chi nhánh của al-Qaeda. Theo nguồn tin của tôi, Stevens đến Benghazi để giám sát hoạt động chuyển giao vũ khí của CIA và bảo đảm rằng vũ khí không lọt vào tay đám khủng bố. Đó là một nhiệm vụ nguy hiểm, giống như tay không tiến vào miền Tây hoang dã, và một người lão luyện như Stevens sẽ không mạo hiểm như vậy trừ phi những nhân vật cấp cao hơn ở Washington nghĩ rằng việc đó là cực kỳ cần thiết.

Và việc đó cần thiết bởi vì, như nhiều hoạt động của CIA, nó đã thất bại. Vũ khí của Libya vốn được đánh dấu riêng cho các nhóm đối lập thân phương Tây ở Syria cuối cùng lại lọt vào tay những đối tượng chống phương Tây.

Cả Nhà Trắng và Bộ Ngoại giao đều càng lúc càng thấy lo ngại rằng AQIM đã vươn vòi bạch tuộc của chúng tới Bắc Phi và biến một phần bang thuộc châu Phi của Mali thành thánh địa giống như Afghan. Thủ tướng Israel Bibi Netanyahu đã than phiền với Tổng thống Obama rằng vũ khí do CIA chuyển giao rồi sẽ lọt vào tay đám khủng bố Hezbollah có Iran hậu thuẫn ở Lebanon và khủng bố Hamas ở Dải Gaza.

“Năm ngoái”, Dore Gold, một nhà ngoại giao Israel từng phục vụ nhiều chính phủ Israel, nói, “AQIM đã bắt đầu mở rộng ảnh hưởng của mình ở khu vực Sahara. Vũ khí của AQIM lấy từ Libya thời hậu Gaddafi, và đang đẩy mạnh buôn bán vũ khí từ Morocco sang Sinai. Các nguồn tin của Israel nhận thấy rằng vũ khí của Libya, kể cả tên lửa đối không SA-7 vác vai, cũng đã tới Dải Gaza, nơi một quả đã bắn... trúng một trực thăng Israel ngay lần đầu tiên.”

* * *

Lúc 8 giờ tối hôm đó, Hillary đề nghị Cheryl Mills sắp xếp một cuộc họp qua điện thoại với Gregory Hicks, phó trưởng phái bộ của Bộ Ngoại giao và cũng là đại biện lâm thời tại thủ đô Tripoli của Libya. Hillary cùng toàn bộ đội ngũ cấp cao của mình, kể cả A. Elizabeth “Beth” Jones, quyền trợ lý Ngoại trưởng về Cận Đông, đều nghe rõ khi Hicks nói rằng Đại sứ Stevens đang ở một bệnh viện của Benghazi và được cho là đã chết. Không thể thu hồi xác ông ấy, bởi vì bệnh viện bị các chiến binh Ansar al-Sharia có liên hệ với al-Qaeda, những kẻ thực hiện vụ tấn công lãnh sự quán, bao vây.

Hicks không nói gì về một đoạn video chống Hồi giáo hay một cuộc biểu tình phản đối tự phát. “Chúng tôi không thấy biểu tình liên quan đến đoạn video ở đâu tại Libya cả”, sau này Hicks nói. Ngày hôm sau, Trợ lý Bộ trưởng Beth Jones gửi đi một thư điện tử nói rằng Ansar al-Shariah, nhóm khủng bố khét tiếng có liên hệ với al-Qaeda, đứng sau vụ tấn công nhằm vào phái bộ Mỹ.

Không lâu trước 10 giờ, Cheryl Mills nhắc Hillary chờ một cuộc gọi của Tổng thống Obama. Lúc đó, Hillary là một trong những quan chức ở Washington được thông báo kỹ nhất về thảm họa đang diễn ra ở Benghazi. Bà biết rằng Đại sứ Stevens và nhân viên phụ trách liên lạc đã chết, và rằng những kẻ tấn công đã tiến hành một cuộc tấn công bằng súng cối có xác định tọa độ nhằm vào tòa nhà phụ của CIA, điều đó có thể cướp đi sinh mạng của hai người Mỹ nữa. Bà tin chắc al-Qaeda đã mở cuộc tấn công khủng bố nhằm vào người Mỹ nhân kỷ niệm ngày 11/9.

Tuy nhiên, khi Hillary nhấc máy và nghe thấy giọng tổng thống, bà biết rằng Barack Obama lại có những ý nghĩ khác trong đầu.

* * *

Trước khi có vụ Benghazi, uy tín Obama đang lên rất cao như là người hạ được Osama bin Laden. Không thể cải thiện thành tích đối nội của mình (kinh tế sa sút, Luật Chăm sóc Sức khỏe, còn gọi là Obamacare, không được ủng hộ), Obama không bỏ lỡ cơ hội nhắc cho cử tri nhớ rằng ông đã “tiêu diệt” thủ lĩnh của al-Qaeda và rằng “nòng cốt al-Qaeda đang bị bám sát”.

Nhóm vận động tranh cử của ông ở Chicago rất phấn khởi khi Joe Biden, ứng viên liên danh nhiều lời của Obama, biến vụ tiêu diệt Osama bin Laden thành một khẩu hiệu vận động tranh cử. “Các vị muốn biết liệu chúng ta có khởi sắc hơn phải không?”, Biden khoác lác với đám đông những người ủng hộ. “Tôi có một miếng dán trên ba-đờ-xốc cho quý vị đây: ‘Osama bin Laden đã chết và General Motors vẫn khỏe’.”

“Ý chính trong thông điệp tái tranh cử của Obama là chính al-Qaeda mới sắp bị ném vào sọt rác của lịch sử”, Keith Koffler của tờ White House Dossier viết. “Đích thân Obama gợi ý rằng al-Qaeda đang trên đường đến chỗ diệt vong”.

Tuy nhiên, Obama biết chắc rằng niềm kiêu hãnh của ông hoàn toàn là trò bịp. Thậm chí ngay cả khi đang reo mừng về chiến thắng của mình trước al-Qaeda, ông cũng đã nhận được những báo cáo tình báo giống như Hillary - tức là al-Qaeda đã di căn và là một mối đe dọa ngày càng lớn với các quyền lợi của Mỹ tại Trung Đông. Mặc dù muốn cử tri tin rằng cuộc chiến chống khủng bố là chuyện của quá khứ, nhưng ông biết rất rõ, bởi vì ông liên tục được giới tình báo cho biết sự thật hoàn toàn trái ngược.

“Các quan chức hàng đầu Hoa Kỳ, kể cả tổng thống, đều được cho biết vào dịp hè thu 2012 rằng những nhánh tại châu Phi của al-Qaeda đang dồn tiền, hiểu biết và quyết tâm để tấn công các lợi ích của Hoa Kỳ và phương Tây”, tờ Washington Times đưa tin. “Khoảng cách giữa các báo cáo mật với những tuyên bố màu hồng của ông Obama trên tuyến đường vận động tranh cử làm bùng nổ một cuộc tranh cãi kín trong nội bộ giới tình báo về việc liệu sự cáo chung của nhóm khủng bố có bị cường điệu quá vì những lý do chính trị không.”

Chỉ còn chưa đầy hai tháng trước ngày bầu cử, tổng thống đã đến giai đoạn vận động nước rút, và David Plouffe, vị quản gia của chiến dịch, hiện kiểm soát rất hiệu quả cả chính sách đối nội lẫn đối ngoại ở Nhà Trắng.

Đời sống chính trị át hết mọi nhân tố khác đang đè nặng lên tổng thống. Theo Plouffe, hai điểm mạnh mẽ nhất của Obama cho đợt tái tranh cử là: (1) Bằng việc tiêu diệt Osama bin Laden, ông ấy đã giành chiến thắng trong cuộc chiến chống khủng bố, và (2) bằng việc không can dự vào Syria, ông ấy đã tránh cho Hoa Kỳ khỏi một cuộc chiến nữa tại Trung Đông.

Nếu sự thật về Benghazi bị tiết lộ, nó sẽ xóa mờ cả hai điểm mạnh kia.

“Hillary sững sờ khi nghe tổng thống nói về vụ tấn công ở Benghazi”, theo lời một thành viên trong nhóm cố vấn pháp lý của bà, người được phỏng vấn cho cuốn sách này. “Obama muốn bà ấy nói rằng vụ tấn công là một cuộc biểu tình tự phát nổ ra do một video mơ hồ trên Internet báng bổ Mohammed, nhà tiên tri và cũng là người sáng lập Hồi giáo. Hillary nói với Obama, ‘Thưa tổng thống, câu chuyện đó không đáng tin; cùng với rất nhiều điều khác, câu chuyện đó phớt lờ sự thật rằng vụ tấn công xảy ra vào đúng ngày 11 tháng 9’. Nhưng tổng thống rất kiên quyết. Ông ấy nói, ‘Hillary, tôi cần bà phát đi một thông cáo của Bộ Ngoại giao càng sớm càng tốt’.”

Sau cuộc trò chuyện với tổng thống, Hillary gọi cho Bill Clinton, lúc này đang có mặt trong căn phòng áp mái của ông ấy tại Thư viện Tổng thống William J. Clinton ở Little Rock, và kể cho ông ấy những gì Obama muốn bà làm.

“Em phát ốm với chuyện này”, bà nói, theo lời một trong những cố vấn pháp lý của bà có mặt lúc diễn ra cuộc trao đổi.

“Câu chuyện đó không ổn đâu”, Bill nói.

“Em biết”, Hillary nói. “Em đã bảo tổng thống như vậy.”

“Đó là một câu chuyện khó tin”, Bill nói. “Anh không tin tổng thống lại tuyên bố đó không phải là khủng bố. Nhưng mà có lẽ anh tin được. Có vẻ Obama sẽ không để ai nói rằng khủng bố xảy ra trong nhiệm kỳ của ông ta. Còn nhớ lúc ông ấy phủ nhận rằng vụ thảm sát Fort Hood do một thiếu tá quân đội Hồi giáo quá khích gây ra là hành động khủng bố không? Ông ấy gọi là gì nhỉ? Ồ, anh nhớ rồi. Ông ấy gọi đó là hành động bạo lực tại nơi làm việc.”

Cố vấn pháp lý của Hillary cung cấp thêm các chi tiết: “Trong cuộc trò chuyện điện thoại của họ, Bill nêu ra các kịch bản thảm họa khác nhau, kể cả chuyện Hillary tính toán từ chức vì vụ việc này. Nhưng cả ông ấy và Hillary đều nhanh chóng thống nhất rằng từ chối không phải là một lựa chọn thực tiễn. Thứ nhất, Hillary đang rối ruột vì hoạt động chuyển giao vũ khí bất hợp pháp của CIA ở Benghazi; bà ấy phải tạo vỏ che chắn cho CIA. Bà ấy là đồng lõa. Thứ hai, Christopher Stevens là đại sứ Hoa Kỳ đầu tiên bị hạ sát khi đang tại nhiệm kể từ thời chính quyền Carter năm 1979, và Hillary có thể phải chịu trách nhiệm vì đã không bảo vệ được ông ấy. Có lẽ quan trọng nhất, nếu việc từ chức của bà ấy làm hỏng cơ hội tái cử của Obama, phe Dân chủ sẽ không bao giờ tha thứ cho bà ấy. Tương lai chính trị của bà ấy, cũng như Obama, sẽ bị đe dọa”.

Obama đã dồn Hillary vào đường cùng, cả bà ấy lẫn Bill đều chưa thấy được lối thoát nào. Và do đó, lúc 10 giờ 30 phút đêm 11 tháng 9, Ngoại trưởng Hillary Clinton đã phát đi “Thông cáo về vụ tấn công tại Benghazi”. Trong đó, bà nói:

Một số người tìm cách bào chữa cho hành vi này như là một phản ứng trước mồi lửa nhen lên trên Internet. Hoa Kỳ lấy làm tiếc trước bất kỳ nỗ lực quốc tế nào nhằm phỉ báng niềm tin tôn giáo của người khác. Chúng tôi cam kết khoan dung tôn giáo từ thời mới lập quốc. Nhưng cho phép tôi nói rõ: Không có lời bào chữa nào cho những hành động bạo lực kiểu này.

Vụ lừa dối Benghazi giờ đây đã trở thành chính sách chính thức của Mỹ.