G
IÓ RÍT TỪNG CƠN dọc những lạch nước đã đóng băng của sông Shasta, giữa những bức tường đen kịt được tạo nên bởi rừng thông. Những rặng trăn trần trụi khẳng khiu nơi đầm lầy và những cây bạch dương mới nhú rủ xuống trước gió. Những bông tuyết nhọn hoắt như mũi kim cưỡi gió, tựa như hạt sạn trên tờ giấy nhám, tạc nên những đường xoắn ốc kiểu Ả Rập trên lớp tuyết đang lất phất bay.
Người Băng men theo con sông dẫn tới hồ. Hắn ta định hướng chủ yếu dựa vào cảm tính và thời gian cũng tốt như bằng thị giác vậy. Khi sáu phút đã trôi qua trên cái mặt phát sáng của chiếc đồng hồ lặn, hắn bắt đầu đi tìm cây thông chết. Hai mươi giây sau, cái thân bị thời tiết mài cho trắng phớ của cây thông hiện ra dưới ánh đèn pha của chiếc xe máy tuyết, treo mình ở đó một lúc, rồi biến mất như một con ma vẫy xe xin quá giang.
Chín ki lô mét, góc phương vị2 hai trăm bảy mươi độ…
2 Góc phương vị (compass bearing) là góc tạo bởi hướng Bắc và hướng muốn đi trên la bàn.
Tích tắc tích tắc… Vấn đề duy nhất bây giờ là thời gian…..
Hắn suýt chút nữa đâm sầm vào bờ hồ phía tây nơi chân con dốc đổ xuống từ phía ngôi nhà. Ngôi nhà bị tuyết phủ tọa lạc trên tầng tầng tuyết trắng, hiện ra lù lù trước mắt. Hắn quẹo xe, giảm tốc rồi men theo bờ hồ. Thứ ánh sáng màu xanh nhân tạo phát ra từ đèn hiên xuyên rọi qua màn tuyết. Hắn chầm chậm nhích xe lên trên bờ hồ rồi tắt máy.
Gạt cái kính mũ bảo hiểm lên, Người Băng ngồi xuống và lắng nghe. Hắn chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng tuyết khẽ táp vào bộ quần áo đang mặc và chiếc mũ bảo hiểm, những âm thanh thật khẽ của động cơ xe đang nguội dần, hơi thở của chính hắn và tiếng gió. Hắn đeo một chiếc mặt nạ trượt tuyết bằng len che kín cả mặt, chỉ còn chừa lại đôi mắt và miệng. Những bông tuyết len lỏi vào từng thớ len, rồi dần dần tan ra, nhỏ thành từng giọt từ khoảng hở chỗ đôi mắt xuống mặt dọc theo sống mũi hắn. Hắn ăn vận thật kĩ lưỡng cho chuyến đi trong cái thời tiết này, mặc trên người bộ đồ đi tuyết chống gió và cách nhiệt, chân mang đôi giày đi tuyết nặng trịch và tay thì xỏ găng trượt tuyết. Cái áo cao cổ làm bằng sợi PP dày cộp chờm lên cái mặt nạ và cổ áo của bộ đồ hắn mặc trên người thì được cài liền với chiếc mũ bảo hiểm màu đen. Hắn gần như được bao bọc bởi len và nylon, vậy mà hơi lạnh vẫn luồn vào từng kẽ hở, rút lấy từng hơi thở của hắn…
Trên giá để đồ, đôi giày đi tuyết được cột sau ghế ngồi, bên cạnh con dao chặt ngô bọc trong một tờ báo. Xoay người ngồi nghiêng một bên, hắn tựa hẳn mình vào chiếc xe, tay lục tung túi áo parka để tìm chiếc đèn pin nhỏ bằng nhôm và soi về hướng giá để đồ. Đôi găng tay dày cộp lúc này trở nên thật vướng víu. Hắn tháo găng ra, mặc nó lủng lẳng trên nẹp cổ tay áo.
Ngọn gió như một lưỡi rìu phá băng cứa sâu vào những ngón tay không đeo găng của hắn khi hắn rút đôi giày đi tuyết ra. Hắn ta bỏ đôi giày xuống nền tuyết trắng, xỏ chân vào cái nẹp nối thao tác nhanh, cài dây buộc rồi ngay lập tức lại luồn tay vào đôi găng. Mới có một phút mà tay hắn đã lạnh cóng, đông cứng lại.
Sau khi xỏ lại đôi găng, hắn đứng dậy, kiểm tra bề mặt tuyết bên dưới. Lớp tuyết bên trên khá xốp nhưng cái lạnh cắt da cắt thịt đã làm lớp tuyết bên dưới cứng lại. Chân hắn chỉ bị lún xuống sáu đến tám xen ti mét. Tình hình khá khả quan.
Tiếng chuông báo hiệu thời gian lại vang lên trong tâm trí hắn.
Hắn dừng lại, tự trấn an mình. Cái bộ máy phức tạp vận hành sự tồn tại của hắn giờ đây đang trong hiểm nguy. Hắn đã từng ra tay hạ sát trước đây, nhưng đó gần như chỉ là một tai nạn. Hắn đã phải tạo hiện trường giả một vụ tự sát quanh tử thi của nạn nhân.
Và nó gần như quá hoàn hảo.
Ít nhất cũng đủ để cảnh sát không có lấy một cơ hội để bắt hắn. Ngày hôm đó đã thay đổi hắn hoàn toàn. Hắn đã được nếm mùi máu và hương vị thứ thiệt của quyền lực.
Hắn ngửa đầu ra sau như một con chó đang lần theo mùi. Ngôi nhà cách bờ sông hơn ba trăm mét. Hắn bị bóng tối bao trùm, không thể nhìn thấy ngôi nhà ngoại trừ ánh sáng le lói rọi từ đèn sân. Hắn lôi con dao ra khỏi giá đựng đồ và bắt đầu leo lên dốc. Con dao chặt ngô là một vũ khí đơn giản nhưng hoàn hảo để phục kích trong một đêm đầy tuyết, nếu cơ may xuất hiện.
Trong cơn bão, và đặc biệt về đêm, căn nhà của Claudia LaCourt dường như trôi ra nơi rìa thế giới. Tuyết rơi càng dày thì những ngọn đèn rọi từ hiên nhà qua dòng sông đóng băng càng mờ dần rồi từng ngọn, từng ngọn lụi tắt hẳn.
Cùng lúc đó, khu rừng như tiến sát lại. Những cây thông và cây tùng khẽ nhón chân lại gần, đè hẳn mình lên ngôi nhà. Những cây trắc bách diệp như đang cạo vào cửa sổ, và những cành bạch dương trơ trụi thì như muốn cào nát diềm mái nhà. Tất thảy nghe như thể một sinh vật ác độc đang tiến lại gần, một con quái vật với vuốt nhọn và răng nanh, đập vào tấm ván che kêu rầm rầm hòng tìm kiếm một chỗ để bám vào. Nó dường như có thể thổi bay cả ngôi nhà.
Khi ở nhà một mình hoặc ở cùng cô con gái Lisa, Claudia thường nghe những album cũ của Tammy Wynette hay xem các chương trình truyền hình giải trí. Nhưng cơn bão vẫn chứng minh sự hiện diện của mình bằng những cú sập cửa hoặc những tiếng gào rú trong đêm. Hoặc một đường dây dẫn điện có thể hỏng ở đâu đó. Lúc đó, những ngọn đèn chập chờn rồi vụt mất, nhạc tắt lịm, ai nấy đều nín thở lắng nghe cơn bão gầm gừ như muốn xé nát tất cả. Ánh nến càng làm cho mọi thứ trở nên tệ hại hơn và đèn bão thì cũng chẳng hữu ích là bao. Thứ duy nhất có thể chiến đấu với những điều xấu xa được tạo ra bởi trí tưởng tượng của con người trong một cơn bão đêm là sự hiện diện của khoa học hiện đại - truyền hình vệ tinh, radio, đĩa CD, điện thoại và trò chơi điện tử. Hoặc máy khoan. Những thứ tạo ra âm thanh của máy móc và xua đi những móng vuốt của thời kỳ tăm tối đang chực chờ lật tung ngôi nhà.
Claudia đứng cạnh bồn, rửa cốc cà phê và treo chúng lên giá. Cửa sổ cạnh bồn rửa phản chiếu hình ảnh của cô như một tấm gương, nhưng đôi mắt và những đường nét trên gương mặt có vẻ tối hơn giống như trong những bức hình được chụp theo phương pháp Daguerre3 vậy.
3 Phương pháp Daguerre (Daguerreotype) là phương pháp chụp ảnh được phát minh bởi Louise Daguerre (1787-1851), qua đó hình ảnh sẽ được ghi lại trên một tấm bảng kim loại.
Nhìn từ bên ngoài, Claudia trông như nàng thánh mẫu trong một bức vẽ, là dấu hiệu duy nhất của ánh sáng và sự sống trong cơn bão, nhưng cô chưa từng nghĩ mình như vậy. Claudia là một bà mẹ với vòng ba săn chắc, mái tóc mang sắc đỏ, có khiếu hài hước và rất có gu uống bia. Cô có thể lái tàu đánh cá và chơi bóng mềm. Vào mùa đông, thỉnh thoảng, khi Lisa ngủ ở nhà bạn, cô và Frank lái xe tới Grant và thuê một phòng ở nhà nghỉ Holiday Inn, nơi có những tấm gương lớn, cao từ sàn tới tận trần nhà, được đặt trên cánh cửa tủ quần áo cạnh giường. Cô thích cái cảm giác ngồi trên hông của anh ngắm thân hình mình trong cơn khoái lạc, đầu ngả ra sau và ngực thì ửng hồng.
Claudia cậy mảng vỏ bánh cháy cuối cùng ra khỏi khay nướng bánh, rửa sạch rồi cho nó vào giá đĩa để ráo nước.
Cô nhìn ra ngoài, nơi một cành cây cào vào cửa sổ, nhưng không hề sợ hãi. Cô ngân nga một bài hát cũ rích nào đó, một bài hát từ thời trung học. Đêm nay ít ra thì không chỉ có mình cô và Lisa. Frank đang ở đây. Anh bước lên trên cầu thang và cũng đang ngân nga một bài hát nào đó. Họ thường hay cùng lúc làm một việc như vậy.
"Ừm,” cô quay lại khi nghe thấy tiếng anh. Mái tóc đen mỏng của anh loà xoà trên đôi mắt đen. Anh trông như một chàng cao bồi với gò má cao và đôi bốt cao cổ cũ kĩ ló ra ngoài chiếc quần bò côn, Claudia nghĩ. Anh đang mặc một cái tạp dề làm bằng vải bò rách tả tơi bên ngoài chiếc áo phông, và tay thì cầm chiếc chổi sơn lấm lem nước sơn đỏ như máu.
"Sao vậy, anh yêu?,” cô lên tiếng. Đây là cuộc hôn nhân thứ hai của cả hai người. Họ đều đã trải qua nhiều chuyện và thực sự dành tình cảm cho nhau.
Anh rầu rĩ, "Anh vừa mới bắt đầu sơn cái giá sách nhưng anh đã để cái lò sưởi cháy hết mất rồi.” Anh vung vẩy cái chổi sơn trước mặt cô. "Chắc anh sẽ mất cả tiếng đồng hồ để sơn xong cái giá sách mất. Anh thực sự rất thích việc này."
"Lạy Chúa, Frank...,” cô đảo mắt.
"Anh xin lỗi,” anh ăn năn theo đúng kiểu một chàng cao bồi bảnh bao.
"Thế về chuyện với cảnh sát trưởng thì sao?" Cô chuyển chủ đề. "Anh vẫn sẽ tiếp tục chuyện này sao?"
"Anh sẽ gặp ông ấy vào ngày mai,” anh quay mặt đi, tránh ánh mắt của cô
"Chỉ thêm rắc rối thôi.” Cuộc tranh luận vẫn đang âm ỉ giữa hai người họ. Cô bước ra xa khỏi bồn rửa và nghiêng người ra sau, đưa mắt về phía hành lang hướng phòng Lisa. Căn phòng vẫn đóng kín và tiếng nhạc của Guns ‘N Roses khe khẽ vọng ra. Giọng của Claudia trở nên gay gắt, đầy lo lắng. "Anh có thể im đi được không? Đó không phải việc của anh. Anh đã nói cho Harper nghe rồi. Jim là con trai của anh ta. Nếu đó là Jim."
"Chắc chắn là Jim, được chứ. Anh đã kể cho em cái cách mà Harper cư xử rồi mà.” Frank bặm chặt môi lại. Claudia nhận ra cái biểu cảm này và biết rằng anh sẽ không thay đổi quyết định của mình, cũng giống như cái gã trong bộ phim "High Noon.” Hắn tên gì nhỉ? Phải rồi, Gary Cooper.
"Em ước là mình chưa bao giờ thấy bức hình đó,” cô cúi đầu, tay phải day thái dương. Lisa đã đưa lại bức hình cho mẹ mình trong phòng ngủ. Cô bé không muốn Frank thấy nó.
"Chúng ta không thể để mọi chuyện cứ như thế được." Frank năn nỉ. "Anh đã bảo với Harper rồi."
"Sẽ có rắc rối đó, Frank," Claudia nói
"Pháp luật có thể giải quyết được mà. Chúng ta sẽ không bị liên lụy gì cả,” anh đoan chắc. Sau một hồi, Frank lên tiếng "Em bật cái lò sưởi lên nhé?"
"Thôi được rồi. Em sẽ lo chuyện cái lò sưởi"
Claudia hướng mắt ra ngoài cửa sổ nơi ánh đèn thuỷ ngân ngoài hiên rọi xuống garage. Những bông tuyết dường như bắt đầu rơi từ một điểm ngay bên dưới ánh đèn, như thể được đổ xuống từ một cái phễu phía trên phía cửa sổ, chiếu thẳng vào đôi mắt cô như một viên đạn nhỏ. "Trông có vẻ như tuyết sẽ ngớt."
"Đáng nhẽ không có tuyết mới đúng." Frank chửi tên dự báo thời tiết, "Mẹ kiếp."
Dự báo thời tiết nói rằng trời sẽ lạnh và quang quẻ ở hạt Ojibway, nhưng bây giờ thì tuyết đang rơi như trút.
"Anh thử suy nghĩ về việc buông xuôi nó đi" cô nài xin "Hãy suy nghĩ lại một chút thôi."
"Anh sẽ suy nghĩ lại,” anh nói rồi quay lưng đi xuống hầm. Frank có thể nghĩ về nó, nhưng anh sẽ không bao giờ thay đổi quyết định của mình. Claudia ngẫm lại mọi chuyện, tròng mình vào chiếc áo len rồi bước ra gian ngoài. Đôi găng lái xe ướt nhẹp của Frank phơi trên lỗ thông hơi của lò sưởi khiến cả căn phòng có mùi như len sấy khô.
Cô khoác lên người chiếc áo parka và chiếc mũ len với quả bông treo lủng lẳng phía sau. Claudia đeo găng rồi với tay tìm công tắc trong gian ngoài, bật đèn hiên và bước ra ngoài, hòa mình vào cơn bão.
Bức ảnh đó. Bọn họ đáng lẽ có thể là bất cứ ai, từ Los Angeles đến Miami, nơi mà họ làm những việc như vậy. Nhưng không.
Họ đến từ hạt Lincoln. Chất lượng in ấn thì tệ hại, giấy thì tồi đến mức có thể bở nát ra ngay khi cầm trong tay. Nhưng đó đúng là con trai của Harper. Nhìn kĩ bức ảnh, cô có thể thấy đốt tay cụt bên bàn tay trái bị gây ra bởi rìu chặt củi và đôi khuyên tai vòng của cậu bé. Trong bức ảnh, cậu ta đang khỏa thân trên giường, hông hướng về phía máy ảnh và ánh mắt thì đờ đẫn pha lẫn chút hoang mang. Cậu ta có gương mặt đang dần trưởng thành của một thanh niên trẻ tuổi, nhưng đâu đó vẫn ẩn chứa hình bóng của một cậu bé làm việc ở trạm xăng của cha. Cậu bé mà cô đã biết từ lâu.
Phía trước bức ảnh là thân hình của một gã đàn ông ục ịch, ngực đầy lông. Hình ảnh đó nhanh chóng lướt qua tâm trí Claudia. Cô đủ quen thuộc với đàn ông và cơ thể của họ, nhưng có một điều gì đó trong bức ảnh, một điều vô cùng tồi tệ... Mắt của cậu bé tối sầm lại trước đèn flash. Khi nhìn gần hơn nữa, đồng tử của cậu bé trông như thể ai đó ở tòa soạn của tờ tạp chí đã vẽ nó vào mắt cậu bằng một cây bút dạ.
Claudia khẽ rùng mình nhưng hoàn toàn không phải vì lạnh. Cô nhanh chóng bước xuống đường hào bị phủ đầy tuyết dẫn tới garage và kho để gỗ. Mới đó mà tuyết rơi trong hầm đã dày tới mười centimet. Rồi sáng mai cô sẽ lại phải thổi tuyết ra.
Cửa garage ở phía cuối đường hào. Cô đẩy mạnh cánh cửa rồi bước vào, bật đèn sáng choang và giậm mạnh chân theo quán tính. Garage được cách nhiệt và sưởi ấm bằng lò sưởi. Bốn khúc gỗ sồi cháy âm ỉ và tản ra đủ nhiệt để giữ nhiệt độ trong garage luôn trên mức đóng băng kể cả vào những đêm lạnh giá nhất, và cũng đủ để khởi động xe. Ở cái xứ Chequamegon này thì khởi động xe đúng là vấn đề sống còn.
Lò sưởi vẫn còn ấm. Than đã cháy hết, nhưng Frank đã dọn lò tối hôm trước. Dù sao thì đó cũng không phải là việc của cô. Cô quay lại nhìn về phía đống gỗ gần cánh cửa. Chỉ còn đủ cho đêm nay. Cô ném vài thanh gỗ thông còn đầy nhựa to bằng cổ tay vào lò cùng với bốn khúc gỗ sồi để giữ lửa cháy.
Cô thở dài nhìn về nơi mà đống gỗ đáng lẽ phải ở và quyết định mang thêm mấy thanh gỗ để tuyết bám trên chúng có thể tan ra trước sáng hôm sau. Rồi cô bước ra ngoài, đóng cửa lại nhưng không khóa, lần dọc về phía chái nhà để củi ở bên hông garage. Cô nhặt thêm bốn khúc gỗ sồi rồi loạng choạng quay về cửa garage, đẩy cửa bằng chân và thảy mấy khúc gỗ sồi xuống cạnh lò sưởi. Cô sẽ chỉ đi một lượt nữa thôi và phần còn lại sáng hôm sau là của Frank.
Cô quay về phía hông garage, đi vào nhà kho đựng gỗ tối om lấy thêm hai khúc gỗ sồi.
Đột nhiên tóc gáy cô dựng đứng… Không chỉ có cô, ai đó cũng đang ở đây.
Claudia run rẩy đánh rơi những khúc gỗ, tay đưa lên cổ tự trấn an mình. Khu đất phía sau của garage tối đen như mực. Cô không thể nhìn thấy ai cả nhưng trực giác của cô thì mách bảo điều ngược lại. Tim cô đập dội vang trong lồng ngực và những bông tuyết rơi trên mũ trùm tạo thành từng tiếng đồm độp thật nhỏ. Không còn gì khác nữa, nhưng cô có linh cảm không lành.
Cô lùi lại, nhưng chẳng có gì khác ngoài tuyết và ánh sáng xanh của đèn hiên. Bước đi trong đường hào đầy tuyết, cô bỗng khựng lại, chú mục vào bóng tối… rồi bỏ chạy thật nhanh về phía căn nhà.
Ngay cả khi tới nơi, cô vẫn có cảm giác ai đó đang ở phía sau lưng mình. Hắn dường như sắp chạm tới cô. Cô túm lấy nắm tay cửa, giật thật mạnh, đẩy cửa bằng mu bàn tay rồi bước vào gian ngoài sáng choang và ấm áp.
“Claudia?” Frank lên tiếng
Cô hét lên.
Frank đứng thần ra ở đó với chiếc giẻ lau sơn, và đôi mắt mở to đầy ngạc nhiên “Xảy ra chuyện gì vậy?”
“Chúa ơi!” Claudia kéo khóa áo bộ đồ đi tuyết xuống, vật lộn với cái khóa mũ trùm đầu. Mồm cô mấp máy nhưng không thể phát ra một lời nào. “Lạy Chúa, Frank, có ai đó ngoài garage.”
“Gì cơ?” Frank khẽ nhíu mày và tiến về phía cửa sổ trong bếp. “Em có thấy hắn ta không?”
“Không, nhưng em thề có Chúa là có ai đó ngoài kia. Em có thể cảm thấy hắn.” Cô bám lấy tay anh, đôi mắt hướng ra ngoài cửa sổ. “Gọi 9114 đi!”
4 Đường dây điện thoại khẩn cấp tại Mỹ
“Anh không thấy gì cả,” Anh đi qua bếp, nghiêng người trên bồn rửa, nhìn chằm chằm về phía đèn hiên.
“Anh không thể thấy được gì đâu,” Cô khóa chặt cửa lại rồi bước vào căn bếp “Frank, em thề có Chúa đấy, chắc chắn là có ai đó ngoài kia…”
“Thôi được rồi,” Anh trả lời một cách nghiêm túc “Anh sẽ đi kiểm tra xem sao.”
“Tại sao chúng ta không gọi…”
“Anh sẽ xem thử xem thế nào.” Anh nhắc lại. Rồi tiếp lời, “Cảnh sát sẽ không tới đây lúc trời bão thế này đâu. Khi mà thậm chí em còn không nhìn thấy ai cả.”
Anh nói đúng. Claudia theo anh ra gian ngoài, mồm lắp bắp, “Em đã cho gỗ vào bếp sưởi, sau đó em vòng sang hông garage để lấy thêm vài khúc gỗ cho sáng mai…” Vào lúc đó, cô tự nhủ rằng, đây không phải là cô của thường ngày.
Frank ngồi trên chiếc ghế dài ở gian ngoài, kéo đôi bốt Tony Lamas ra khỏi chân. Mặc xong bộ đồ đi tuyết, Frank ngồi xuống, xỏ chân vào đôi ủng rồi buộc dây giày. Xong xuôi, anh kéo khóa áo khoác lên và với lấy đôi găng tay. “Anh sẽ quay lại ngay.” Anh tỏ vẻ tức giận nhưng anh biết rõ cô không phải là người dễ dàng hoảng sợ.
Cô bật thốt lên, “Em sẽ đi cùng anh”
“Không, em sẽ ở lại đây.” anh nói chắc nịch.
Cô vội vã vòng ra sau bàn bếp và kéo mạnh cái ngăn kéo
“Frank, mang súng theo đi.” Một khẩu Smith Wesson 357 cỡ lớn đã được nạp sẵn đạn nằm sâu trong hộc tủ, phía sau bức vách ngăn. “Đó có thể là Harper….Có thể…..”
“Lạy Chúa tôi,” anh lắc đầu nguây nguẩy. Anh gượng cười với cô một cách buồn bã rồi bước ra ngoài cửa, xỏ tay vào đôi găng.
Những bông tuyết quất vào mặt anh như những viên đạn nhỏ khi anh ra đến bậu cửa. Anh quay nghiêng mặt về phía màn tuyết. Miễn là không nhìn thẳng về phía gió quật, bộ đồ đi tuyết sẽ giữ cho anh được thoải mái. Nhưng điều đó cũng đồng nghĩa với việc anh không thể nhìn cũng như không thể nghe thấy bất cứ thứ gì trừ âm thanh của gió thổi vào cái mũ trùm đầu bằng nilon. Giữ tư thế nghiêng đầu, anh bước xuống những bậc cầu thang dẫn đến con đường tuyết phủ tới garage.
Gã Người Băng ở đó, ngay cạnh đống gỗ, vai của hắn ta lấp ló nơi góc nhà kho, lưng quay về phía gió. Hắn đã ở khoảng đất rừng khi Claudia ra ngoài. Hắn cố chạm tới cô, nhưng lại không dám dùng đèn pin, và trong bóng tối hắn bị vướng vào những bụi rậm nên phải ngưng ý định đó lại. Khi cô chạy vào trong nhà, hắn đã định quay trở lại chỗ chiếc xe máy tuyết. Hắn tự nhủ rằng cơ hội đã qua. Bằng cách nào đó, cô ta đã được cảnh báo. Và hắn cũng không còn nhiều thời gian nữa. Hắn liếc cái đồng hồ và nhận ra mình chỉ còn vỏn vẹn nửa giờ.
Tuy nhiên, sau một hồi suy nghĩ, hắn cẩn thận gỡ những cành nhánh bám vào đôi giày đi tuyết ra và lẩn vào mé tối cạnh sườn garage. Hắn phải bắt cho bằng được cả gia đình nhà LaCourt ở trong bếp, nơi mà hắn có thể giải quyết tất cả một cách nhanh gọn. Họ có súng nên hắn ta phải thật nhanh chóng.
Người Băng kẹp dưới nách một khẩu Colt Anaconda ăn trộm được mà thậm chí chủ nhân của nó còn không biết nó đã bị ăn trộm. Hắn đã từng trộm cắp rất nhiều trong quá khứ và đã thu được khá nhiều chiến lợi phẩm đáng giá. Khẩu Anaconda này đúng là một báu vật. Nó là một tuyệt phẩm, mọi đường cong, mọi khấc nối đều có công dụng.
Mặt khác, con dao chặt ngô lại thật trang nhã mặc dù vẻ ngoài thô kệch. Hắn đã tự tay làm nó. Với cán bằng gỗ thô, nhìn nó trông như một con dao rựa, nhưng lưỡi mỏng hơn và phần cuối lưỡi dao có hình vuông. Ngày xưa, nó được dùng để chặt ngô nên bề mặt lưỡi dao bị bao phủ bởi một lớp gỉ sét, nhưng hắn đã mang lưỡi dao tới xưởng mài dao. Lưỡi dao mới lóng lánh như bạc và sắc bén đủ để có thể cạo râu.
Con dao đó có thể làm hung khí, nhưng hắn không mang nó đi vì mục đích này. Đơn giản chỉ là nó trông rất ghê rợn. Nếu hắn cần đe doạ cô bé để lấy bức ảnh, nếu hắn cần làm cô bé bị trọng thương nhưng không muốn giết hại cô thì con dao này là hoàn hảo.
Tên Người Băng cảm thấy mình giống như một gã khổng lồ khi đứng trên tuyết. Đầu hắn gần chạm tới mái hiên khi hắn bước đi dọc chiều dài garage. Nhác trông thấy Frank ngó đầu ra ngoài cửa sổ, hắn liền đứng sững lại. Vậy là Claudia đã thấy hắn rồi ư? Không thể nào. Cô quay lại rồi bỏ chạy, nhưng đến chính hắn ta còn không thể nhìn rõ cô kể cả khi có ánh đèn garage và đèn hiên. Hắn đã quay lại vào góc tối và hắn lại còn mặc đồ đen.
Cô không thể nhìn thấy hắn được.
Gã Người Băng đang toát mồ hôi vì phải trèo lên con dốc và vật lộn với mấy bụi cây. Hắn bật mở khóa nẹp, nới lỏng nẹp nối, nhưng vẫn đứng trên đôi giày đi tuyết. Hắn ta phải thật cẩn thận trèo vào đường hào. Hắn liếc nhìn đồng hồ. Tích tắc, tích tắc … Thời gian không còn nhiều.
Hắn kéo mở khóa chiếc áo parka, cởi găng ra và để sẵn tay trên báng súng bằng gỗ của khẩu Anaconda trong túi áo. Hắn đã sẵn sàng. Hắn quay đầu lại bước vào đường hào khi cửa sau bật mở và một quầng sáng chiếu rọi hiên nhà. Hắn giật ngửa ra sau, kéo đôi giày đi tuyết bằng đôi bốt của mình vào góc tối phía bên ngoài nhà kho chứa gỗ, lưng tựa vào bức tường garage làm bằng kim loại lượn sóng.
Dưới ánh sáng rọi ra từ cánh cửa để mở, Frank trông như một cái bóng. Dần dần, hình ảnh của anh trở nên rõ ràng hơn khi anh lê chân vào đường hào phủ tuyết dẫn tới garage. Một tay anh cầm đèn pin và rọi về phía sườn garage. Người Băng lùi về đằng sau khi ánh đèn rọi tới bức tường bên sườn garage, cố dụ Frank tiến gần hơn nữa, rồi liếc nhìn về phía góc garage. Frank mở cửa garage. Hắn ngay lập tức trượt mình về phía góc garage với súng bên tay trái, dao bên tay phải, và cái lạnh thì đang bám riết lấy đôi bàn tay trần của hắn ta.
Frank bật đèn garage rồi bước vào. Một lúc sau, đèn vụt tắt, Frank bước ra ngoài, đóng chặt cửa sau lưng làm cái tay nắm cửa kêu lạch cạch. Anh bước về phía trước, rọi đèn pin vào khoảng sân nơi có thùng đựng ga.
Anh bước thêm một bước nữa, đến đúng nơi Người Băng đang ẩn mình. Con dao vung xuống. “Vút.” Frank nhìn thấy nó nhưng thời gian chỉ đủ để anh khẽ rùng mình chứ không thể né tránh. Con dao xuyên qua chiếc áo parka của Frank, cắm vào sọ. Lực phản lại làm tay Người Băng giật lên, nhưng đối với hắn điều đó cũng không có gì lạ lẫm, chỉ như chặt con dao vào cái hàng rào.
Lưỡi dao rơi ra cùng lúc Frank gục ngã. Anh đã chết, nhưng cơ thể vẫn tạo nên những tiếng động gừ gừ như hơi thở rít lại của một con rắn bị giẫm phải. Máu của anh chảy xuống nền tuyết trắng xóa.
Vào giây phút đó, gió bỗng nhiên ngừng thổi, như thể mẹ thiên nhiên đã nín lại hơi thở của mình. Tuyết dường như cũng ngừng theo gió, và có cái gì đó nhấp nháy ở phía bìa rừng nơi góc mắt tên sát nhân. Có gì đó ngoài kia chăng? Hay chỉ là do hắn quá lo lắng? Hắn chú mục vào màn đêm nhưng không có bất cứ động tĩnh nào. Gió và tuyết lại bắt đầu thổi, vội vã như lúc chúng biến mất.
Người Băng bước xuống đường hào, hướng về phía căn nhà. Gương mặt của Claudia xuất hiện bên cửa sổ, lơ lửng trong cơn bão. Hắn khựng lại, ngỡ rằng mình đã bị phát hiện. Nhưng không, Claudia dí sát mặt về phía cửa sổ hơn nữa để ngó ra phía ngoài. Hắn nhận ra rằng mình vẫn vô hình. Sau một hồi, gương mặt cô lùi xa dần khỏi ô cửa sổ. Người Băng lại tiến gần hơn về phía ngôi nhà, trèo lên hiên nhà hết sức khẽ khàng, xoay nắm tay và đẩy cửa bước vào.
“Frank đó à?” Claudia đang ở đó ngay chỗ cửa bếp. Nơi bàn tay cô phát ra một thứ ánh sáng phản chiếu của cờ rôm. Hắn biết thứ ánh sáng này. Hắn nhanh chóng phản ứng và lôi khẩu .44 Mag cỡ lớn ra.
“Frank!” Claudia bắt đầu hét lên. Khẩu .357 treo trên tay cô ở bên hông, chưa hề sẵn sàng, chẳng hề được đoái hoài, một biểu tượng vô dụng của sự tự vệ. Khẩu .44 nhắm thẳng vào mặt cô rồi giật mạnh trên tay tên sát nhân. Hắn ta đã tốn hàng tiếng đồng hồ ở hầm đá để tập thứ này với những đích treo. Hắn biết mình đã bắn trúng. Hắn có thể cảm nhận được độ chính xác từ trong xương của mình. Một phát đạn chính xác đã hạ gục mục tiêu.
Viên đạn nhắm trúng trán Claudia, và thời gian lúc đó như ngừng lại. Không còn Lisa, không còn Frank, không còn những đêm ở Holiday Inn cùng những cái gương, không còn những kí ức, không còn chút nuối tiếc…. Chẳng còn gì cả. Cô không bắn ra đằng sau như trong phim cũng không ngã sầm xuống đất mà chỉ khuỵu xuống, mồm vẫn mở to. Tên sát nhân cầm khẩu Colt lên nhắm bắn lại, trong lòng có chút thất vọng. Khẩu súng lớn này đáng nhẽ có thể quật ngã và thổi tung bọn chúng. Khẩu súng lớn này là một thế lực toàn năng.
Từ gian phòng bên trong, giọng nói của một cô bé vang lên, phá tan sự tĩnh lặng sau phát súng. “Cái gì vậy mẹ?” Cô bé vẫn chưa hay biết gì.
Tên Người Băng vớ lấy cái mũ trùm đầu parka của Claudia, kéo cái xác vào trong bếp và vứt cô nằm trên sàn như một con rối bị cắt hết dây. Đôi mắt cô mở to, vô hồn. Hắn bỏ mặc cô ở đó, chú mục vào căn phòng phía trong. Hắn ta cần bức ảnh đó. Hắn nhấc con dao lên và quay trở lại.
Cô bé lại lên tiếng, nhưng lần này đã bắt đầu run rẩy và lo sợ “Mẹ ơi…”