Mùa hè, ông Trương hay ngủ trưa. Cha mẹ ơi! Thời tiết gì khắc nghiệt. Trung du miền núi mà có ngày lên tới 40 độ C. Con người ngập ngụa, mộng mị trong nắng nóng, vết thương cũ ở thắt lưng cứ muốn bung nứt ra. Giấc ngủ trưa trĩu nặng mệt mỏi, lan man những cơn mơ thời chiến tranh.
Cơn mơ trưa nay cũng trở về một buổi trưa xa lắc, im ắng lạ thường. Có thể nghe thấy nước sông Ba Lòng chảy ào ào phía dưới động Toàn. Trạm quân y tiền phương khuất dưới những tán cây cao và kín. Gió phe phảy đám vải băng mới giặt, còn lờ mờ vệt máu chưa sạch. Y sĩ Trương xếp những cuộn bông băng vào túi cứu thương, thêm mấy gói lương khô vào ba lô cóc. Nước sông vẫn vọng tới đều đều, thúc giục, sốt ruột. “Ừ thì đi! Tao đi ngay đây! Bên Công trường Bảy, trận đánh sáng nay, anh em bị thương khá nhiều. Thằng Thương đâu! Đi thôi!”.
Cậu lính trẻ có cái tên con gái, cùng vần với tên với Trương, đã buộc bịn bao xe đạn phía trước bụng.
- Đi hả anh?
- Đi!
Họ cắm cúi bước. Khu rừng thấp vo ve tiếng muỗi, văng vẳng sóng nước sông Ba Lòng. Dốc núi cao dần, chót vót như đường lên trời. Dép cao su vấp phải những cành cây cháy sém, đổ gục. Trương nghe trong đầu ùng oàng tiếng súng trận. Thấp thoáng giữa sắc lá héo vàng, khuôn mặt tròn, rậm rịt râu quai nón của xê trưởng Thạo. Hàm răng anh đều và vàng khè, cười hết cỡ.
- Mẹ thằng Mỹ chơi bẩn! Có giỏi thì tay bo với tao, đừng dùng bom na-pan. Tiên sư nó, thế là bỏng gần khắp người!
- Còn cái mặt anh nó vẫn chừa ra, sau này tán gái tốt!
- Ừ! May cái “đại diện” không bị sẹo!
Cậu Thương lạch bạch đằng trước, xốc khẩu AK trên vai, chỉ vào vạt rừng bên trái.
- Hố bom kia anh Trương nhớ không? Nơi thằng Hồi bị…
Ừ! Nhớ! Thằng bé mới mười tám tuổi, mặt đầy lông tơ, hai tay ôm bụng, miệng mếu máo:
- Anh Trương ơi! Cứu em với!
Trương đã cố hết sức, nhưng đêm ấy thằng bé nhắm mắt.
Loạt bom B-52 phía trái cánh rừng rùng rùng nổ, một cục đá cuối đà, làm lật văng chiếc mũ cối.
Ông Trương choàng dậy, mồ hôi ướt đẫm mặt phản gỗ. Tiếng chuông điện thoại chíu chíu giống tiếng đại liên của trực thăng địch. Ông chùi mồ hôi trên mặt, bóp trán cho đỡ nhức đầu. “Bố khỉ! Đứa nào gọi điện vào giờ này?”. Đồng hồ màn hình điện thoại hiện lên con số 12.45.
- A lô! Ai gọi đấy? - Ông Trương cất giọng bực bội.
Giọng phụ nữ nghẹn ngào, rưng rức:
- Là vợ nhà Quân đây anh Trương...! Chồng em yếu lắm rồi! Bị đột quỵ anh ạ! Anh ấy muốn gặp anh lần cuối.
Ông Trương quýnh lên:
- Trời ơi! Sao lại thế? Thím nói với chú Quân chờ tôi vô nhá!
- Dạ!
Chiếc xe giường nằm chạy suốt đêm mà ông Trương cảm thấy nó chậm như rùa bò.
Năm giờ sáng ông có mặt ở thị trấn, mặc cả lấy lệ với tên chạy xe ôm mặt mũi bặm trợn rồi ngồi lên phía sau, nhắm mắt nghe gió réo ù ù, để sáu giờ tới nhà Quân. Mọi người đang chuẩn bị việc hậu sự, có nghĩa là Quân sắp đi. Hình như chỉ chờ có mặt ông Trương. Cặp mắt đục lờ nhìn vô hồn lên trần nhà, chợt sáng lên khi nghe tiếng ông:
- Chú thấy trong người thế nào? Có nhận ra anh Trương không?
Giọt lệ trong vắt ứa ra, nằm im trong khóe mắt. Tay ông Trương vuốt nhẹ dọc thân thể người hấp hối. Da thịt vẫn đẫy đà, bắp đùi vẫn tròn căng. Kéo ống quần pijama của ông Quân lên, cẳng chân phải cụt ngang gần đầu gối. Bàn tay ông Trương xoa lên cái đầu mỏm chân nhăn nhúm giống con nhện lớn, cảm giác nó lạnh ngắt, không nóng hầm hập như lần đầu tiên ông đụng vào. Thằng Bắc con trai cả của ông Quân xếp ra tấm chiếu những quần áo, đồ đạc sẽ “mang theo” cho cha. Ông Trương thấy có chiếc hộp thuốc cá nhân của lính màu xanh lá thì cầm lên xem. Thằng Bắc chắp tay nói:
- Ba con nói chiếc hộp thuốc này là của bác Trương. Ba quý lắm. Bác cho phép con mang theo cho ba?
Ông Trương đã nhận ra chiếc hộp thuốc cá nhân của mình hồi chiến tranh. Màu xanh lá loang lổ nhiều vệt xam xám, do bùn đất hoặc máu thương binh. Rất nhiều vệt máu dính trên ấy, của nhiều người lính trận, trong đó có máu của người lính đối phương như ba thằng Bắc. Bất chợt, ông muốn kể cho tất cả mọi người nghe câu chuyện cũ.
Trưa đó, hai người đi vào sâu trong rừng, tránh những hố bom B-52 lổn nhổn, những vệt bom còn vẳng tiếng kêu, thấm đẫm vệt máu của đồng đội. Cành lá quệt qua chân loạt soạt. Dốc núi chỗ này gần như dựng đứng, có chỗ phải nắm vào dây rừng mà trèo lên. Thương bỗng dừng lại, lắng tai:
- Anh ơi! Có tiếng người!
Trương cũng đã nghe thấy tiếng rên rỉ vọng ra từ nơi nào đó. Tiếng rên đau đớn, tuyệt vọng đặc trưng của thương binh. Người lính nằm gục bên một vũng nước mưa cạn. Có lẽ anh ta cố bò lết tới để tìm nước uống. Trương nhẹ nhàng kéo tấm thân trát kín bùn đất lên chỗ khô ráo. Người lính hé đôi mắt lờ đờ:
- Cứu... tui với!
Giọng Quảng Trị. “Cậu ở đơn vị nào?” - Chỉ thấy đầu khẽ lắc, ngón tay chỉ vào bên chân phải sưng bầm. Khi chiếc kéo rạch một đường trên ống quần. Trương phát hiện thương binh này mặc quân phục phía bên kia. Một lính địa phương quân. Bọn lính này nhát chết số một, không bù cho đám thủy quân lục chiến lì lợm, liều mạng và cũng thiện chiến hơn.
- Ồ! Lính ngụy à? Mặc xác nó anh Trương! Đi thôi!
- Chờ tí! Cái chân hắn bị thương nặng đấy! Để tao băng bó lại đã.
- Anh chỉ ôm rơm nhặm bụng! Nó mà lành lặn thì đã tặng anh em mình nguyên quả lựu đạn rồi. Thắt lưng nó còn hai quả kia kìa.
Trương không nói gì, chỉ chăm chú nhìn vào vết thương của tên lính. Mảnh cối hoặc pháo phá nát bàn chân phải, củ khoai chân nát bấy, da thịt tím bầm và có mùi khăn khẳn. Một đám kiến đen đã bu kín phần miệng vết thương. Bị hoại tử rồi!
- Cậu vợ con chưa? - Trương nhìn vào bộ mặt nhăn nhó đau đớn, lấm đầy bùn, hỏi. Hắn lắc đầu:
- Dạ chưa! Em chỉ có mạ... Mạ em tra rồi!
- Phải cắt bỏ phần chân bị thương! Cứ để thế này, vết thương hoại tử nhanh lắm, không sống được đâu! Tôi cắt nhé?
Phương án bất ngờ đưa ra, làm cả cậu Thương và tên lính ngạc nhiên. Đôi mắt khép hờ lóe lên nỗi hy vọng lẫn hoài nghi. Hắn khẽ cựa mình, cố nhấc cái chân lên mà không được, cất tiếng rên đau đớn. Bắt gặp ánh mắt đầy lo lắng và thương cảm của Trương, hắn có phần yên tâm, gật đầu.
- Nhưng sẽ không có thuốc mê đâu! Cố chịu đau!
Thời gian không còn nhiều. Thương sốt ruột ra mặt, căm ghét nhìn cái chân hôi thối mà Trương đang nâng niu trên tay.
- Cậu đừng nhăn như khỉ ăn gừng nữa! Lấy băng ra, ga-rô phía trên gối cẩn thận!
Ống quần bị cắt tới bẹn, hở ra phần đùi trắng trẻo. Trương nắn ống chân kiểm tra xem xương bị gãy tới đâu. Cái chân sưng tấy, nóng hầm hập, chỉ bị dập nát phần dưới cổ và bàn chân. Anh bôi cồn sát trùng ba lượt, lấy ra chiếc cưa nhỏ, sáng loáng. Thương đã bẻ một khúc cây khô bằng ngón chân cái, ngáng ngang miệng tên lính, dùng băng buộc ra sau gáy. Tiếng lưỡi cưa bắt đầu chạm vào xương ống chân, kêu ken két. Tên lính trợn ngược mắt, cắn chặt hàm răng vào khúc cây, người cong lên chịu đựng cơn đau. Trương thận trọng từng đường cưa, miệng mỉm cười, động viên:
- Cố lên! Một tí là xong thôi!
Nhưng cái “một tí” ấy dài như thế kỉ, cơn đau xoáy vào óc, dai dẳng. Khi khúc chân đứt lìa, cũng là lúc tên tính hộc lên, ngất xỉu.
Trương băng bó lại khúc chân cụt, tiêm thuốc kháng sinh.
- Khéo hắn chết rồi anh ạ!
Thương nói nhỏ. Trương bắt mạch, thấy nhịp tim vẫn còn.
- Không chết được đâu! Trừ khi bị nhiễm trùng hoặc đói khát! Đào cái hố chôn khúc chân này đi!
Thương phồng mồm bực tức, nhưng vẫn rút chiếc xẻng ra, lúi húi đào. Trương kiểm tra vết thương một lần nữa. Anh để lại hộp thuốc cá nhân, một bi đông nước và hai bánh lương khô bên cạnh tên lính, bẻ một cành lá che lên mắt hắn cho khỏi bị chói. “Vĩnh biệt nhé! Chúc may mắn, anh bạn bất đắc dĩ. Chiến tranh là vậy đó. Cố sống sót mà trở về”.
- Đi thôi!
Anh giục Thương, mà mắt còn nhìn lại tấm thân nằm bất động trên cỏ.
- Mong sao anh em mình, nếu bị thương mà gặp địch cũng được đối xử như vậy.
- Hừm! Cứ chờ đấy!
Thương nhổ một bãi nước bọt.
Sau này, khi có dịp ngồi với nhau, Thương hay hỏi:
- Tên lính hồi ấy anh cưa chân, liệu còn sống không nhỉ?
Trương lắc đầu:
- Không biết! May rủi thôi! Nếu hắn cao số thì sống, vì tao xử lý vết thương rất cẩn thận.
Không ai trong đơn vị biết chuyện này. Trương im lặng vì thấy đây là việc làm bình thường, nhân đạo của người thầy thuốc. Thương thì khác, cậu ta là một cây bép xép, nhưng không hé răng, vì sợ Trương bị người khác chụp mũ, kỷ luật thì om xương.
Chiến trường Quảng Trị mùa xuân năm 1973 có vẻ dễ chịu hơn nhờ Hiệp định Pa-ri về chiến tranh Việt Nam bắt đầu có hiệu lực. Những lá cờ nửa đỏ nửa xanh bay phấp phới cạnh những lá cờ vàng ba sọc đỏ. Đã có những “ngôi nhà hòa hợp” mọc lên sát vùng giáp ranh giữa ta và địch, lính hai bên có những lúc dẹp súng đạn sang một bên, cùng chơi bóng chuyền, đấu cờ tướng. Đơn vị của Trương rút về đóng ở một xã thuộc Hải Lăng. Sáng hôm đó, tiểu đội quân y lỉnh kỉnh ba lô tới trước một căn nhà nhỏ, mái tôn gỉ sét còn in mờ mờ dấu vết một hình cờ vàng sơn trên mái. Cây bông bụt bên trang thờ ngoài sân nở một bông duy nhất, đỏ thắm. Anh cán bộ xã đội chỉ vào trong nhà:
- Mấy anh nghỉ ở đây! Bà chủ nhà rất có cảm tình với Quân giải phóng! Mệ Lành ơi mệ Lành! Cho gởi mấy anh Giải phóng hỉ!
Bà già bước ra hiên, dáng vẻ hiền lành, tấm lưng hơi còng trong chiếc áo bà ba đen sờn bạc:
- Mấy chú vô đi! Nhà cửa chật chội! Mong mấy chú cảm phiền!
Vừa đặt ba lô xuống, cậu Thương đã nhanh nhẹn đi tìm chiếc chổi dừa, lúi húi quét dọn sân ngõ. Trương bảo một cậu trẻ tuổi, tóc húi cua:
- Đi kiểm tra lu nước xem còn không! Nếu hết thì đi gánh về dùng. Mình còn ở đây lâu.
- Má ơi! Giếng nước ở đâu ạ?
- Mẹ ơi! Con cột võng vào chiếc cột này được không?
- Cậu vào trong kia mà nằm cho khuất gió! Chỗ gần cửa này để tớ!
- Không! Tớ nhận chỗ này trước rồi! Cậu vào trong ấy mà nằm!
Tiếng cười nói, tranh cãi của cánh lính trẻ làm căn nhà nhỏ trở nên ấm cúng. Tết sắp tới gần, cây mai còi cọc cạnh lu nước đã lốm đốm nụ. Bà già chống tay lên cột nhà, miệng cười đỏ nước quết trầu.
Trương rủ Thương ra thăm cái nhà “hòa hợp” xem nó thế nào. Anh cẩn thận bỏ vào túi áo hai bao thuốc Điện Biên bao bạc, nếu có gặp anh em lính quân đội Sài Gòn thì sẽ mời họ hút cho vui, nhân tiện địch vận luôn. Nhà “hòa hợp” cách ranh giới hai bên khoảng sáu, bảy mét. Đó là chiếc lán dựng bằng những cây tre còn tươi và lợp bằng phên tranh. Nếu ngồi chật, chỉ đủ chỗ cho mười người lính. Hương Tết nồng nàn vương lẫn trong mùi khét của khói súng. Những lá cờ xanh đỏ và cờ vàng ba sọc vẫy phần phật trong gió sớm, như tranh giành nhau những khoảng không gian he hé màu xanh dịu dàng. Một cặp vợ chồng trẻ bồng con nhỏ đi phía sau. Họ nói cũng muốn ra coi nhà “hòa hợp”, muốn nói chuyện với binh lính phía bên kia, mời họ về ăn Tết cùng gia đình. Bộ bà ba đen của người vợ được gió thổi sát tấm thân gày guộc, hai bàn chân đất xới tung bụi cát trên đường. Người chồng bị cụt chân, vai phải nghiêng hẳn về một bên đè nặng lên chiếc nạng gỗ. Đầu nạng có lúc không nhấc lên khỏi mặt đất, kéo lết về phía trước, vạch lên cát một đường thẳng ngắn. Anh ta vừa lọc cọc chống nạng, vừa lúc lắc cái đầu, cười với đứa con chừng mười tháng tuổi, đang đánh đu bên nách vợ:
- Ô! Chu choa! Cu đi nhanh vậy! Chờ ba với hí! Chu choa... chu choa...!
Trương dừng chân, vui vẻ nhìn người chồng:
- Cậu bị thương trận nào vậy?
Chiếc gậy bỗng dừng lại, loạng choạng. Nụ cười đang rạng rỡ trên môi người đàn ông cụt chân tắt ngấm, chuyển sang chữ O tròn vạnh. Ống quần phải buộc túm lại, đu đưa khúc chân cụt. Hàng ria mép cắt ngắn nhúc nhích:
- Dạ! Thưa bác sĩ...
- Tôi là quân y sĩ, không phải bác sĩ!
- Anh không nhận ra em sao?
Những gương mặt thương, bệnh binh ở các đơn vị thoáng qua rất nhanh trong trí nhớ, nhưng anh không nhận ra người này.
- Cậu ở đơn vị nào?
Người vợ bồng con tất tả quay lại:
- Dạ! Chồng em tên Quân, là thương phế binh quân đội Sài Gòn, thưa mấy anh!
- À... à... à!
Trương chưa thốt xong lời ngạc nhiên, người chồng đã tiếp lời vợ:
- Anh bác sĩ Giải phóng ni là người đã cưa chân cứu anh đó!
Ba bốn cái miệng cùng ồ à, ngạc nhiên, sửng sốt. Trương đã nhớ ra. Hồi đó, cậu ta nằm giữa vũng bùn, mặt mũi lấm lem, chỉ nhìn thấy ánh mắt. Giờ khỏe mạnh, sáng sủa thế kia, ai mà nhận ra. Cậu Thương cũng quay lại, reo lên:
- Cái gì? Tìm thấy người quen năm trước ở Động Toàn rồi hả anh? Em đã bảo thế nào cậu ta cũng còn sống mà.
Quân xúc động ngồi giữa hai nhóm người trong căn nhà “hòa hợp”. Một bên là nhóm bộ đội Giải phóng và mấy chị, mấy o trong thôn. Một bên là nhóm binh sĩ quốc gia. Quê hương đã im tiếng súng, điều mà anh van vái, mong ước từ khi chống nạng về quê với mạ. Quân nói nhanh, có lúc bị lắp bắp, kể lại câu chuyện mùa thu năm ngoái:
- Lúc bị cưa chân đau quá, tui ngất đi, hình ảnh cuối cùng ghi nhận được là khuôn mặt người lính Giải phóng đầm đìa mồ hôi, đầy lo lắng. Tui tỉnh dậy vào một buổi sáng, mà không xác định được thời gian đã qua. Sương đêm thấm lạnh làm tui mở mắt ra, cảm nhận nỗi đau nhức nhấm nháy dưới đầu gối chân phải. Cơn khát cháy họng, ram ráp môi miệng. Tui lật người sang một bên, thè lưỡi liếm mấy hạt sương đọng trên cỏ, mắt bỗng sáng lên khi nhìn thấy bi đông nước để ngay tầm với. Không kịp nghĩ ngợi, tui mở bi đông dốc ngược vào họng, nước tràn cả ra cổ, chảy xuống ngực. Uống một hơi dài mà chưa đã, thấy bi đông còn nhiều nước nhưng tui dừng lại. Cần phải dành dụm nước trong những ngày tới. Cơn đói trỗi dậy, tui bật khóc hu hu khi tiếp tục phát hiện ra hộp thuốc cá nhân và mấy phong lương khô mà hai người lính Giải phóng để lại. Ước vọng sống và lòng thương nhớ mẹ già đã giúp tui vượt qua ba ngày đêm cực kỳ gian khổ. Bò, lết, trườn, bằng mọi động tác của cơ thể, rướn người vượt qua dốc Động Toàn, nơi người ta còn gọi là Cổng Trời. Lúc đó tui ước có một cây dao găm, để chặt cành cây làm chiếc nạng chống. Sức lực giảm sút thê thảm sau khi bị cưa chân, làm tui không bẻ nổi một nhánh cây nhỏ. Ngày thứ ba thực là ngày thử thách gian khổ giữa sống và chết, khi nước và lương thực đã hết, chỉ còn cuộn băng cá nhân và vài viên thuốc kháng sinh. Có lúc đã cảm thấy thất vọng vì không thể gượng bò đi được nữa, tui nằm gục xuống, nhắm mắt chờ đợi cái chết đến giải thoát. Nhưng thiếp đi một lúc, tiếng xe vận tải phía Đường Chín ì ì vọng tới, lại thôi thúc bản năng sống trong trái tim trẻ. Cuối cùng thì đã lết được tới ven Đường Chín, kiệt sức nằm chờ may rủi. Một chiếc xe GMC chở đạn dược đã phát hiện ra tui. Họ đưa tui lên xe, sau đó trực thăng đưa tiếp vào Đà Nẵng. Tui được giải ngũ sau nửa năm nằm điều trị ở Quân y viện.
- Sau chiến hữu có gặp được ân nhân của mình không? - Viên trung sĩ thủy quân lục chiến hỏi Quân, hai mắt y trợn tròn.
- Dạ! Chính là anh Giải phóng ni đây!
Quân chỉ tay sang Trương. Trương cười hiền lành:
- Chuyện bình thường, có gì đâu các bạn!
Anh lấy bao thuốc Điện Biên, bóc ra mời mấy người lính bên kia. Họ rụt rè nhận thuốc, ánh mắt tò mò, khâm phục.
- Sao hai người không kết nghĩa huynh đệ đi!
Viên trung sĩ lại cất lời. Quân cười, hàng ria con kiến cựa quậy, tinh nghịch:
- Có được không anh Trương? Mà thôi! Để bữa mô tụi em qua thăm mạ, anh em gặp nhau rồi tính. Mấy anh đang ở trong nhà mạ em đó!
Vụ Trương nhận Quân làm anh em kết nghĩa, chỉ có hai người biết. Ấy là thời gian anh được phục viên cuối năm một chín bảy sáu. Về nhận vai Trưởng trạm y tế xã, anh không có nhiều thời gian, nhưng tình cảm đối với người em kết nghĩa không vì vậy mà nhạt phai. Tình cảm của hai người lính như duyên nợ tiền kiếp, cứ dính chặt lấy nhau. Sau khi về Bắc, Trương có dẫn Quân ra chơi một lần. Quê anh thuộc miền trung du, những đồi cọ ngả bóng soi mình xuống dòng Lô giang, thơm ngát hương chè. Trương cưới vợ, Quân dẫn cả bà má ra chơi, đem theo lỉnh kỉnh gạo nếp với mấy con gà, hạt tiêu, đường phổi. Mấy năm sau, má Quân mất, Trương thu công việc ở Trạm y tế xã, vào Hải Lăng.
Ông Trương im lặng vuốt mái tóc bạc của người em kết nghĩa bết trên trán:
- Thôi anh em mình chia tay lần cuối cùng nhé chú Quân. Vết thương chiến tranh, anh có thể cứu được chú, nhưng ông trời gọi thì anh chịu thua. An tâm mà nhắm mắt đi em. Cuộc đời ai cũng đến lúc này. Mình sống sót qua cuộc chiến là may mắn lắm rồi - Ông đưa chiếc túi cứu thương cho thằng Bắc: - Này! Mang đi cho ba con! Để kiếp sau nếu có gặp lại nhau, chúng tao còn nhận anh em.
Ông Trương cười, giơ tay chùi nước mắt.
Ngày 28-8-2018