• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Cúp C1 Châu Âu - 66 năm lịch sử
  3. Trang 19

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 18
  • 19
  • 20
  • More pages
  • 37
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 18
  • 19
  • 20
  • More pages
  • 37
  • Sau

Làn sóng đỏ

Ngầu

Năm 1968, trên sân vận động Wembley huyền thoại, nơi mà 2 năm trước đó, đội tuyển Anh trong trang phục áo đỏ đã đánh bại đội tuyển Tây Đức để lên ngôi vô địch thế giới, đến lượt Manchester United ghi tên mình vào bảng vàng của Cup châu Âu. Chiến công ấy đã mở đường cho sự thống trị của người Anh kéo dài từ mùa giải 1976-77 đến hết mùa 1984-85. Trong vòng 9 mùa giải đó, người Anh đã 7 lần đoạt Cup châu Âu và 1 lần Á quân, trong đó có 6 lần liên tục vô địch - kỷ lục mà hiếm có quốc gia nào có thể tái lập. Như một định mệnh, tất cả các CLB Anh lên ngôi trong thế kỷ XX đều có chung một màu áo. Và người ta gọi đó là Làn sóng Đỏ.

PHƯỢNG HOÀNG LỬA

Truyền thuyết kể rằng chim phượng hoàng trước khi chết đã tự thiêu mình để rồi sau đó, từ đống tro tàn, nó lại phục sinh và tiếp tục một cuộc đời mới… Mùa hè năm 1968, một đội bóng với màu áo đỏ rực như lửa đã trỗi dậy sau thảm họa kinh hoàng 10 năm trước.

    Trời lạnh căm trong giá buốt thê lương

    Tám con người thôi vĩnh viễn bất hồi hương

    Ra đi mãi, ôi tám vì tinh tú

    Những cầu thủ với tài năng thiên phú

    Những bông hoa kiêu hãnh Manchester

Matt Busby khập khiễng bước vào phòng thay đồ của Old Trafford, đưa đôi mắt vô hồn nhìn xung quanh. Ông đang cố nhớ lại những khuôn mặt của các cậu học trò. Và sau đó, một giọt nước mắt lăn dài trên má. Đó là lần đầu tiên Busby quay lại sân sau thảm họa Munich, khi vết thương của ông vẫn còn chưa lành hẳn. “Tôi muốn chết. Tôi có cảm giác mình phải chịu trách nhiệm này”, Busby nói sau khi ông lần lượt kể tên 8 cầu thủ đã mất trong chuyến bay định mệnh. Jean, vợ ông đáp lờiL “Những cậu bé ấy chắc chắn muốn anh phải tiếp tục, Matt à”. Busby yêu vợ và luôn tôn trọng những gì bà nói. Và ông đã quyết định xây dựng lại tất cả từ đầu. Con phượng hoàng sẽ một lần nữa tái sinh.

Nếu có thể tìm ra người phải chịu trách nhiệm trong thảm họa hàng không ở Munich 1958, FA chắc chắn có liên quan. Liên đoàn bóng đá Anh ngay từ đầu đã chỉ trích sự thành lập của Cup châu Âu và cấm Chelsea tham dự mùa đầu tiên của giải đấu. Chelsea sau đó đã chấp hành mệnh lệnh. FA cho rằng Cup châu Âu chẳng khác nào một gánh xiếc rong và việc phải tham gia thi đấu sẽ ảnh hưởng tới chất lượng của giải quốc nội. Mùa hè năm 1956, MU đăng quang ngôi vô địch nước Anh và một lần nữa, FA lại cấm đội bóng số 1 của mình tham dự Cup châu Âu. Song Matt Busby và ban lãnh đạo MU đã không tuân lệnh. Cũng chính vì thế, trong suốt mùa giải 1956-57, họ đã phải cắn răng thi đấu với một lịch trình dày đặc trong điều kiện di chuyển cực kỳ khó khăn. MU vẫn bảo vệ được chức vô địch hạng Nhất và tiến vào tận vòng bán kết Cup châu Âu, nơi họ chỉ chịu thua Real của Di Stefano.

Để bảo vệ sức khỏe của các cầu thủ, Ban lãnh đạo MU quyết định việc thi đấu ở sân đối phương tại châu Âu sẽ được di chuyển bằng máy bay. Lúc này, hàng không đã phát triển ở mức độ tương đối mạnh nhưng các vấn đề về thời tiết vẫn ảnh hưởng rất lớn tới lịch trình bay. Tháng 12-1957, trên đường trở về từ Prague, máy bay chở toàn đội MU đã phải hạ cánh khẩn cấp xuống Amsterdam. Lúc này, MU sẽ phải làm khách trước Birmingham City trong 3 ngày nữa và việc không về kịp để thi đấu có thể sẽ khiến đội bị FA trừ điểm. Chẳng có chút thông cảm nào từ Liên đoàn bóng đá Anh một khi đội bóng đã dám bất tuân mệnh lệnh để đi đá giải “tạp kỹ” này cả. Thật may, thư ký đội bóng Walter Crickmer đã tìm được một chuyến tàu đi tới Harwich vào buổi sáng thứ Bảy. Sau khi cập bến nước Anh, toàn đội đã tiếp tục di chuyển 140 dặm nữa lên phía Bắc để kịp tới Birmingham vào buổi chiều. Mệt mỏi vì chuyến hành trình, MU chỉ có được kết quả hòa 3-3 trước đội bóng bị đánh giá thấp hơn trong khi Wolverhampton giành chiến thắng và tạo ra cách biệt 9 điểm với nhà đương kim vô địch.

Chính vì lý do đó mà trước trận tứ kết lượt về Cup châu Âu ở Belgrad, ban lãnh đạo MU quyết định chơi ngông khi thuê hẳn một chiếc máy bay riêng để chở toàn đội trở về Anh sau khi kết thúc trận đấu. Chiều tối ngày 01-02-1958, Arsenal chạm trán MU tại giải hạng Nhất trong trận đấu cực kỳ sôi động có tới 9 bàn thắng và khiến các khán giả chứng kiến phấn khích đến cực độ. Không một ai trên sân lúc ấy có thể tưởng tượng nổi đó là lần cuối cùng họ chứng kiến Busby Babes thi đấu tại nước Anh. Năm ngày sau, MU cầm hòa Red Star 3-3 tại Belgrad để lần thứ hai liên tiếp lọt vào bán kết Cup châu Âu. Cả đội hào hứng chuẩn bị trở về nước để tiếp tục chặng đường bảo vệ ngôi vương. Theo lịch trình, máy bay sẽ phải hạ cánh ở Munich để tiếp nhiên liệu, tuy nhiên, chuyến bay đã phải hoãn lại 1 giờ đồng hồ khi lão tướng Johnny Berry, một trong những người hiếm hoi trên 30 tuổi của đội hình MU, không tìm thấy hộ chiếu. Khi đáp xuống Munich, điều kiện thời tiết hết sức tồi tệ, gió thổi rất mạnh báo hiệu tuyết sắp rơi dày đặc trong vài giờ nữa. Phải mất vài lần cất cánh, hủy rồi lại cất cánh, chiếc máy bay mới bắt đầu bay được. Trước đó, các cầu thủ Eddie Colman, Duncan Edwards, Mark Jones, Tommy Taylor và nhà báo Frank Swift đã quyết định ra phía sau máy bay để có thể ngồi thoải mái hơn. Và khi máy bay gặp sự cố rồi va đập vào ngôi nhà gần đó, phần đuôi bị xé toạc. Colman, Jones, Taylor và Swift chết ngay tại chỗ. Edwards bị thương nặng và được đưa vào bệnh viện cấp cứu nhưng không qua khỏi. Ngoài ra, đội trưởng Byrne, Whelan, Pegg và Bent cũng ra đi. Berry và Blanchflower thoát chết nhưng vĩnh viễn không thể chơi bóng được nữa. Trong số những người mất mạng không phải là cầu thủ có cả thư ký đội bóng Walter Crickmer.

Cả nước Anh và châu Âu bàng hoàng. Thành Manchester thì đẫm lệ. Còn MU hoàn toàn suy sụp. Trong bệnh viện, giữa lằn ranh của sự sống và cái chết, Busby đã thì thầm nói với trợ lý Murphy của ông: “Jim! Hãy giữ lá cờ tiếp tục bay.” Chỉ còn 2 cầu thủ của đội chính đủ sức chơi bóng là Foulkes và Gregg, quyền huấn luyện viên Jimmy Murphy đã phải chắp vá đội hình bằng những cầu thủ từ đội trẻ và dự bị. Kết quả, trong 14 trận còn lại của giải hạng Nhất, MU thua tới 8, hòa 5 và chỉ thắng duy nhất 1. Từ đội bóng đua vô địch, họ kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 9.

Mười năm sau…

Busby bước vào phòng thay đồ một lần nữa. Lúc này, MU đang bị Real dẫn 3-1 trên sân Bernabeu. Nếu kết quả đó được giữ nguyên, Real sẽ là đội đi tiếp với tổng tỷ số 3-2. Điều đó có nghĩa, MU cần ít nhất 1 bàn thắng để được chơi trận chung kết với Benfica. “Hãy bước ra sân và thể hiện bản thân mình đi”, Busby nói. Các cầu thủ lắng nghe những điều ông truyền đạt rồi bước ra sân và đá một hiệp 2 để đời. Lần lượt Sadler và Foulkes ghi liền 2 bàn trong 5 phút giúp MU cân bằng tỷ số 3-3. Real sụp đổ và MU lần đầu tiên trong lịch sử lọt vào trận đấu cuối cùng tại Cup châu Âu.

Ngày 29-05-1968, các cầu thủ Manchester tiến vào sân Wembley. Đối thủ của họ là Benfica, đội bóng do Eusebio thần thánh dẫn đầu. Đó là lần thứ 5 trong vòng 8 mùa giải, Benfica có mặt ở trận đấu cuối cùng của giải đấu. MU không có lực lượng mạnh nhất khi siêu sao Denis Law bị chấn thương và không thể tham dự. Do màu áo truyền thống của hai đội giống nhau, UEFA đã quyết định cả hai đều mặc áo dự bị. Thế là MU khoác cây xanh còn Benfica thì đóng cây trắng. Hơn 90.000 khán giả đã kéo tới sân để ủng hộ cho đội bóng của Matt Busby. Chẳng có gì đẹp hơn nếu MU hôm ấy giành danh hiệu vô địch. Định mệnh phải như vậy.

a22

Jimmy Ryan và Bobby Charlton (fan MU)

(Nguồn: Reddit)

Hai đội nhập cuộc rất thận trọng và hiệp 1 diễn ra không có nhiều tình huống đáng chú ý. Sang hiệp 2, Sadler tung đường chuyền vào khu cấm địa. Bobby Charlton chọn vị trí chính xác, đánh đầu mở tỷ số trận đấu. Cả sân vận động như vỡ òa. Nhưng mười phút trước khi hết giờ, các cầu thủ Bồ Đào Nha đã dàn xếp và cân bằng 1-1. Những phút đá chính thức cuối cùng diễn ra cực kỳ căng thẳng. Eusebio tự mình dẫn bóng và dứt điểm, buộc thủ thành Stepney phải trổ hết tài nghệ để cản phá. Trận chung kết buộc phải đá thêm hiệp phụ. Phút 92, Stepney bắt được bóng. Thủ môn của MU đẩy bóng cho Tony Dunne. Hậu vệ trái người Ireland đã quá mệt mỏi nên chuyền ngược lại. Stepney lại đẩy bóng cho Shay Brennan. Bóng trở lại một lần nữa với anh. Bí quá, anh quyết định chuyền thật xa lên phía trên. Brian Kidd nhận được bóng, lập tức chuyền cho George Best. Cầu thủ Bắc Ireland vượt qua các hậu vệ áo trắng rồi vượt nốt cả thủ thành Henrique để đưa bóng vào lưới trống. MU vượt lên dẫn 2-1. Sau này, Best tâm sự: “Lúc ấy, tôi đã tính đến việc dẫn bóng tới vạch vôi, dừng ở đó, tiếp đến dẫn ngược lại rồi mới ghi bàn nhưng các hậu vệ ập vào nhanh quá, thành ra tôi chỉ kịp đưa bóng vào lưới.” Kể từ lúc đó, trận đấu hoàn toàn thuộc về các cầu thủ của Busby. Họ liên tiếp ghi thêm 2 bàn nữa để kết thúc trận chung kết với tỷ số 4-1. MU trở thành CLB đầu tiên của nước Anh giành ngôi vô địch châu Âu. Đó là lời đáp trả xứng đáng những gì họ phải chịu đựng và đấu tranh cho quyền tham dự giải đấu từ 10 năm trước.

Sau khi tiếng còi của trọng tài Lo Bello vang lên, Bobby Charlton ôm chầm các đồng đội và huấn luyện viên Busby của anh. Jack, anh trai của Bobby, từng nói rằng cái ngày định mệnh 06-02-1958 là ngày mà em trai ông ngừng cười. Nhưng giờ đây, sau đúng 10 năm, tiền đạo của MU đã có thể tạm quên nỗi đau để nở nụ cười chiến thắng.

“Họ đã khiến chúng tôi tự hào. Họ đã trở lại bằng cả trái tim để cho mọi người thấy Manchester United đã sinh ra như thế nào. Đây là điều tuyệt vời nhất trong cuộc đời tôi và đêm nay, tôi là người hạnh phúc nhất của nước Anh”, Matt Busby đã nói trong xúc động sau khi trận đấu kết thúc. Chặng đường 10 năm dài đằng đẵng để đi từ đống tro tàn tới sự tái sinh của ông và MU đã hoàn tất. MU sau đó sẽ trở thành tình yêu của cả một thế hệ, chinh phục những con tim của các cổ động viên bằng lối chơi luôn cống hiến hết mình. Nhưng đêm hôm ấy, có cả một thành phố, hoặc có thể cả một quốc gia, không ngủ…

    Thế là hết, một đội quân ưu tú

    Mạnh nhất nước Anh, sử sách từng ghi

    Sống thật hùng, và cái chết thật bi

    Ôi bất hạnh, ôi nghiệt thay định mệnh

    Những cầu thủ với tài năng thiên phú

    Những bông hoa kiêu hãnh Manchester.

Này đội trưởng Byrne, này Edwards thiên tài, này Colman, này Pegg, này Bent, này Whelan và cả Taylor, trên thiên đường, các anh đã có thể mỉm cười rồi đấy…

* *

*

YOU’LL NEVER WALK ALONE

Mùa hè năm 1974, Bob Paisley đứng trước mặt các cầu thủ và nói: “Shanks (tức Bill Shankly, huấn luyện viên huyền thoại của Liverpool) đã ra đi và ban lãnh đạo giao lại nhiệm vụ này cho tôi dù tôi không muốn. Nhưng z, Lữ đoàn Đỏ đã thăng tiến không ngừng. Từ hạng Hai, họ leo lên hạng Nhất và giành lại ngôi vô địch Anh chỉ sau 2 mùa giải. Shankly đã biến Liverpool thành một thế lực lớn và lúc này, họ cần sự khẳng định tại Cup châu Âu. Nhưng ông đã không chờ được đến ngày đó. Sau trận chung kết Cup FA 1974, nơi mà Liverpool giành được danh hiệu vô địch lần thứ 2, ông đã nói lời từ giã. Thực tế, sức khỏe của Shanks đã xuống rất nhiều trong những năm trước đó và vợ ông từng vài lần khuyên ông nên giải nghệ. Để thế chỗ cho Shankly, ban lãnh đạo Liverpool không tìm một huấn luyện viên mới khác mà quyết định trao cơ hội cho trợ lý Bob Paisley.

Nhưng Paisley cảm thấy không tự tin. Ông chưa từng dẫn dắt một đội bóng thực sự nào; ngoài kinh nghiệm cầm đội trẻ và ngồi ở khu Boot Room huyền thoại để lắng nghe Shankly trao đổi chiến thuật thì mọi thứ đối với ông quá mới mẻ. Thư ký đội bóng Peter Robinson sau này nhớ lại, ông đã phải cùng với Chủ tịch và Ban giám đốc thuyết phục đến khô bọt mép mới có thể khiến Paisley nhận lời. Paisley là một người hướng nội, ít thích sự nổi bật hay khoa trương. Xuất thân là một lính pháo binh Hoàng gia trong Thế chiến thứ Hai, ông đã từng tham chiến ở chiến trường Bắc Phi và Italia trước khi may mắn trở về lành lặn để tiếp tục theo đuổi sự nghiệp bóng đá. Lúc ấy, Paisley chưa có bất cứ biểu hiện gì tài năng cả nhưng Liverpool đã lựa chọn ông và sau này là cả Joe Fagan nữa, vì một lý do: lòng trung thành và tình yêu vô hạn với CLB.

Đối với Paisley, Liverpool có một ý nghĩa rất lớn lao. Mặc dù phần lớn thời gian khoác áo CLB của ông trùng với cuộc chiến tranh thế giới nhưng thái độ thi đấu tích cực của ông, dù khi thắng hay khi thua, luôn khiến các cổ động viên tôn trọng. Trong quãng thời gian đó, Liverpool và Anfield đã trải qua những nốt trầm thực sự. Sân bóng xuống cầp trầm trọng và có lúc còn thiếu cả nước sinh hoạt. Khi phong độ bắt đầu đi xuống, Paisley đã tính đến việc giải nghệ và đi làm thợ nề để nuôi sống gia đình nhỏ của ông. Suýt nữa Liverpool đã mất đi vị huấn luyện viên vĩ đại nhất của mình trong tương lai nếu ban giám đốc hồi đó không quyết định giữ Paisley lại. Để tiếp tục cống hiến cho Liverpool, ông đi học một khóa ngắn hạn vật lý trị liệu rồi quay lại Anfield làm việc với tư cách là nhân viên chăm sóc và massage. Chính Giám đốc điều hành Thomas Williams đã bổ nhiệm Paisley làm huấn luyện viên cho đội dự bị của Liverpool, vị trí sẽ giúp cho ông rất nhiều kinh nghiệm trong tương lai, bất chấp những nghi ngờ từ các thành viên khác trong ban lãnh đạo.

Khi Paisley nắm quyền điều hành đội bóng, Liverpool có trong tay một dàn cầu thủ thuộc loại xuất sắc. Trấn giữ khung thành là Ray Clemence, một chốt chặn hết sức vững vàng và dày dạn kinh nghiệm. Phía trên thủ môn này có Smith, Hughes, Thompson, Toshack, Cormack và đặc biệt là ngôi sao Kevin Keegan, có lẽ lúc ấy là cầu thủ triển vọng và tài năng nhất của bóng đá Anh. Liverpool còn thực hiện hai bản hợp đồng đáng chú ý trong mùa hè, đó là Ray Kennedy đến từ Arsenal, người gia nhập với khoản phí kỷ lục 200.000 bảng và Phil Neal, đến từ Northampton. Cả hai sau này sẽ đóng vai trò rất quan trọng trong đội hình của Paisley.

Mặc dù gây ấn tượng với mọi người là một nhân vật khiêm tốn nhưng khi bắt tay vào công việc, Paisley ngay lập tức tạo nên dấu ấn. Ông hướng các học trò tập trung vào các phẩm chất kỹ thuật thay vì yếu tố thể lực, làm việc thực sự chăm chỉ để tập trung cho mục tiêu của CLB. Quyền lực của ông dần dần lan tỏa và khiến các cầu thủ, từ những người mới hay dự bị đến các ngôi sao, đều phải nhất nhất tuân lệnh. Liverpool từ từ đi tới đỉnh cao. Năm 1976, họ đoạt chức vô địch Anh lần đầu dưới triều đại Paisley, tiếp tục nối dài thành tích siêu tưởng tại giải hạng Nhất. Từ năm 1972 đến 1991, trong 19 mùa giải, chỉ duy nhất mùa 1980-81, Liverpool vắng mặt trong top 2. Họ thống trị hoàn toàn nước Anh trong suốt quãng thời gian đó, biến CLB trở thành đội bóng vĩ đại nhất thế kỷ của xứ sở sương mù. Nhưng tham vọng của Liverpool và Bob Paisley không dừng ở giải quốc nội. Họ bắt đầu hướng tới Cup châu Âu.

Mùa hè năm 1976, Liverpool bắt đầu chiến dịch chinh phục của mình với tư cách là đương kim vô địch Cup UEFA. Trước đó vài tháng, Lữ đoàn Đỏ đã đánh bại Brugge với tổng tỷ số 4-3 để lần thứ 2 đăng quang tại giải đấu. Những khó khăn sau trận lượt đi khi đối mặt với Trabzonspor hay Saint-Étienne không hề làm Liverpool e ngại. Thầy trò Paisley luôn tìm ra cách để lội ngược dòng ở trận lượt về trên sân nhà, nơi những lời ca “You’ll never walk alone” luôn tiếp thêm sức mạnh cho đội bóng. Tổng cộng, Liverpool đã ghi tới 11 bàn sau 4 trận tại Anfield. Ngày 25-05-1977, Liverpool lọt vào trận chung kết Cup châu Âu đầu tiên trong lịch sử của mình. Một ngày đặc biệt với bản thân huấn luyện viên Bob Paisley. 33 năm trước, ông đã theo chân những người đồng đội của mình tiến vào Rome để giải phóng nước Ý khỏi sự cai trị của lực lượng phát xít. Giờ đây, một lần nữa, ông lại tới Rome để chinh phục chiếc Cup vô địch châu Âu.

Bất chấp việc nước Anh xa Rome hơn hẳn nước Đức, các cổ động viên Liverpool đã kéo tới Olympico chứng kiến đội bóng của mình thi đấu đông vượt trội so với phía Mönchengladbach. Chính điều ấy khiến các học trò của Paisley đã đá một trận gần như hoàn hảo. Họ vượt lên dẫn trước nhờ bàn thắng của McDermott. Đội bóng Đức đã san bằng tỷ số khi ngôi sao Allan Simonsen chọc thủng lưới Liverpool vào đầu hiệp 2. Nhưng đó là tất cả những gì mà Berti Vogts và đồng đội làm được. Liverpool đã chuyển sang một lối đá đầy cảm xúc. Tommy Smith nâng tỷ số lên 2-1 chỉ sau có 12 phút. Trong cabin bình luận, Barry Davies đã có một câu nói để đời: “Đó là Tommy Smith! Một kết thúc sự nghiệp thật tuyệt vời!” Phút 82, Phil Neal thực hiện thành công quả penalty ấn định chiến thắng 3-1 cho Liverpool. Người Anh một lần nữa lại sôi lên sùng sục. Sau 9 năm kể từ chiến thắng của Manchester United, một đội bóng Anh khác lại trở thành nhà vô địch châu Âu.

Người ta luôn tự hỏi rằng liệu Liverpool của thập niên 1970 ấy có phải là đội bóng vĩ đại nhất trong lịch sử của Lữ đoàn Đỏ hay không. Bất chấp sự ra đi của siêu sao Kevin Keegan vào mùa hè 1977, Bob Paisley tiếp tục đưa CLB bảo vệ thành công danh hiệu vô địch của mình ở mùa bóng tiếp theo. Sự thành công của Liverpool đến phần lớn nhờ công tác chuyển nhượng đầy tinh tế. Để thay thế Keegan, Paisley đã quyết đoán dùng số tiền thu được từ cầu thủ này để đem về một chàng trai có tên Kenny Dalglish. Chàng trai ấy ngay lập tức trở thành “người Scotland thần diệu” và là biểu tượng bất tử của Liverpool. Chính Dalglish là cầu thủ ghi bàn thắng duy nhất trong trận chung kết năm 1978 trước Brugge để mang lại chiến thắng cho Liverpool trên sân Wembley huyền thoại.

a23

Liverpool ăn mừng danh hiệu vô địch 1978

Một trong những điều khiến Paisley vượt lên trên tầm các huấn luyện viên thời kỳ ấy chính là việc ông biết đứng dậy sau những thất bại cay đắng. Mùa thu năm 1978, sau những thành công tại mọi đấu trường, Liverpool đã trở thành CLB mạnh nhất thế giới. Song một chu kỳ đã bắt đầu đi đến hồi kết. Họ bị loại ngay ở vòng 1 trước Nottingham Forest tại Cup châu Âu, chấm dứt quá sớm tham vọng bảo vệ danh hiệu để có thể đoạt vĩnh viễn chiếc Cup. Trước đó vài tháng, cũng chính gã tân binh Forest đã đánh bại Liverpool tại giải vô địch Anh. Món nợ chồng chất buộc Paisley phải thay đổi. Những sự bổ sung chất lượng sau đó khiến Liverpool tiếp tục trở lại đỉnh cao. Lần này, ông giới thiệu một gương mặt khác: Ian Rush, trung phong số 1 trong lịch sử CLB. Rush đã thi đấu cho Liverpool trong 2 thời kỳ, lần cuối kéo dài đến tận năm 1996 khi giải vô địch Anh đã trở thành Premier League. Nhưng năm 1981, Liverpool đánh bại Real Madrid trong trận chung kết thứ 3 của mình, chính thức bắt kịp thành tích của Ajax và Bayern mà không có anh. Người định đoạt trận đấu ấy là Alan Kennedy, hậu vệ cánh trái người Anh. Nhưng lúc này, sau bao thăng trầm, Paisley đã bắt đầu mệt mỏi. Cuối cùng, năm 1983, vị huấn luyện viên huyền thoại chính thức đệ đơn xin từ chức, kết thúc 44 năm gắn bó liên tục với CLB.

Một lần nữa, một huấn luyện viên bất đắc dĩ khác lại xuất hiện. Ông là Joe Fagan.

Fagan không phải là cái tên xa lạ với các cầu thủ Liverpool. Ông chính là người thành lập Boot Room huyền thoại của CLB và luôn thể hiện sự trung thành tuyệt đối với màu áo Đỏ. Khi còn trẻ, tương lai của Fagan ở Liverpool vẫn khá bấp bênh và ông nhận được lời đề nghị gia nhập Everton, kỳ phùng địch thủ của The Reds. Đó là một lời đề nghị thực sự hấp dẫn bởi lúc ấy, Everton mới là đội bóng hàng đầu nước Anh trong khi Liverpool chỉ ở top trung bình. Song Fagan đã từ chối vì không thấy có lý do gì phải ra đi. Cũng giống như Paisley, Fagan có những đức tính riêng của mình mà nổi bật nhất là sự cẩn trọng đến mức tỉ mỉ. Dáng vẻ của ông khiến người ta lầm tưởng rằng ông là một huấn luyện viên kiệm lời và không giỏi diễn đạt. Nhưng khi Fagan lên tiếng, tất cả đều hiểu họ đã sai lầm như thế nào. Không chỉ có tài ăn nói, ông còn rất hài hước và cực kỳ thông minh. Mỗi sáng thức dậy, Fagan đi bộ tới Anfield làm việc. Ông sống trên con phố gần với sân của đội bóng và chẳng thèm đi xe tới chỗ làm trong suốt 43 năm. Mỗi khi các cổ động viên Liverpool bắt gặp ông trên đường, họ lại chào to một tiếng. Chưa bao giờ Fagan không đáp lại bằng một cái gật đầu. Và mỗi ngày, ông phải gật đầu hàng chục lần như thế.

Năm 1979, Bob Paisley đã đưa Fagan làm phó của ông. Kể từ đó, hai nhân vật vĩ đại này đã sát cánh bên nhau và đưa Liverpool đoạt thêm chiếc Cup châu Âu 1981. Chính Paisley khi nghỉ việc đã tiến cử Fagan thay thế dù ông thừa biết người trợ lý của mình chưa từng có tham vọng lớn. Và giống hệt như sếp cũ của mình, Fagan cũng rất miễn cưỡng khi phải đảm nhiệm vai trò huấn luyện viên của Liverpool. Chỉ có các cầu thủ là vui mừng vì họ hiểu rõ ông giỏi như thế nào.

Trong suy nghĩ của Joe, ông không có khái niệm “trận đấu không quan trọng”. Tất cả các trận đấu của Liverpool dưới thời Fagan đều là những cuộc chiến. Người ta đồn rằng có lần, ông còn xúi các cầu thủ xông vào “tẩn” đối phương một trận ra trò. Đối với Fagan, các cầu thủ một khi khoác lên màu áo Đỏ đều phải cống hiến hết mình với một ý chí chiến đấu cao độ. Nhưng khi ngoài sân, ông lại vô cùng thoải mái với các học trò. Sau trận bán kết với Dinamo București, các cầu thủ Liverpool kéo nhau vào phòng thay đồ và bắt đầu phê pha. Đúng lúc ấy, Fagan bước vào, mặt hầm hầm. Đám học trò sợ vãi cả ra quần, không hiểu ông thầy định làm gì thì ông gằn giọng: “Tất cả chúng mày, ngậm mồm lại và ngồi xuống cho tao!” Đám học trò líu ríu làm theo. Khi chỗ ngồi đã ổn định, Fagan nhảy lên cái bàn giữa phòng rồi hét “Các người đẹp đâu!” và bắt đầu nhảy nhót om sòm. Thế là bữa tiệc được tiếp tục và còn bốc lửa hơn cả lúc ban đầu. Tháng 5-1984, khi Roma chuẩn bị đối đầu với Liverpool trong trận chung kết, nhiều nhà báo Italia đã bí mật tới quan sát động tĩnh của The Reds. Trong khi các cầu thủ của Liedholm náu mình trên núi cao để rèn luyện khắc nghiệt thì Fagan triệu tập các học trò lại và nói “Xõa đi, các cu!” Và đám phóng viên người Ý thấy các cầu thủ Liverpool nằm dài sưởi nắng trên bãi biển để chuẩn bị cho trận chung kết.

Chính trận chung kết tại Olimpico đã khiến cho Roma bị “dư chấn”. Chứng kiến các cầu thủ áo Đỏ lên ngôi ngay tại thành phố vĩnh cửu, người Roma đã tổn thương sâu sắc đến mức phải mất hàng chục năm để hồi phục. Trong khi cổ động viên của The Reds ăn mừng điên cuồng trên khắp các đường phố, các cầu thủ thì tiệc tùng thâu đêm, Fagan lại lặng lẽ ngồi trong phòng thay đồ. Ông không bao giờ ưa thích những gì thuộc về ồn ã dù đôi lúc cũng bốc đồng cùng cầu thủ như ở Rumani. Khi đêm đã về khuya, Fagan đứng dậy, một mình rảo bước về ngôi nhà yên tĩnh trên phố Lynholme. Bỗng một người khác đi ngược chiều nhận ra ông và reo lên: “Chào Joe! Buổi tối tốt lành nhé!” Một lần nữa, ông lại mỉm cười gật đầu đáp lại.

Phải rồi, ở Liverpool, you’ll never walk alone…

* *

*

BẢN TÌNH CA NOTTINGHAM

“Brian Clough là một nhân vật được sùng bái tại Anh, một siêu sao của các phương tiện thông tin, một lãnh đạo có thể tạo nên động lực thúc đẩy, biến kẻ thua thành người thắng trận. Danh tiếng của ông chưa bao giờ lan đến lục địa nhưng với 2 chiến thắng liên tiếp của Nottingham Forest là đủ để ghi tên tuổi của Clough vào biên niên sử Cup C1.” Đó là những dòng tôi đọc được trên tờ “Bóng đá quốc tế” xuất bản cách nay đã 26 năm nhưng vẫn đủ ấn tượng để lưu vào trong trí nhớ. Brian Clough, đó là một con người thật kỳ lạ, một người đã dẫn Forest tiến tới châu Âu và đi qua như một vệt sao băng. Sáng lấp lánh.

Trước khi Clough đặt chân tới City Ground, Forest là một cái tên thực sự mờ nhạt của bóng đá Anh. CLB có tuổi đời thuộc loại sớm nhất của bóng đá thế giới này là một cái gì đó giống như màu nền cho các đội khác đua tài hơn là biến mình thành nhân vật chính. Trong gần 100 năm, Forest làng nhàng ở top dưới, có những khoảng thời gian bị đá xuống tận hạng 3. Thành công lớn nhất của Forest sau 110 năm thành lập là 2 lần đoạt Cup FA và 1 lần Á quân quốc gia. Chấm hết. Chẳng ai nghĩ rằng người đàn ông mới 40 tuổi này sẽ tạo nên những điều kỳ diệu đáng kinh ngạc chỉ vài năm sau đó.

Tháng 1-1975, Clough ký hợp đồng để trở thành huấn luyện viên của Forest. Nhiệm vụ lúc này của ông là vực lại tinh thần cho các cầu thủ sau chuỗi trận bết bát từ đầu mùa. Sau 25 trận, Forest thắng 9, hòa 6 và thua 10, hoàn toàn hết hi vọng thăng hạng. Nhưng Clough đã có một kế hoạch tỉ mỉ cho sự hồi sinh của Forest. “Hồi sinh” ở đây là được quay trở lại hạng Nhất (tương đương giải Ngoại hạng Premier League bây giờ) chứ cũng chẳng phải là đoạt danh hiệu này nọ gì cho to tát.

Tất nhiên, ban lãnh đạo Forest hết sức hoan hỉ. Tài năng của Clough cho đến lúc ấy chẳng có gì phải bàn cãi cả. Khi còn là cầu thủ, Clough là một siêu sao thực thụ, ghi tới 267 bàn thắng trong sự nghiệp chỉ kéo dài có 9 năm của mình. Chuyển sang làm huấn luyện viên, ông lập tức nổi như cồn. Khi tới Derby County, ông đưa đội bóng này từ việc đang vật lộn ở giải hạng Hai (tương đương Championship hiện nay) lên ngôi vô địch nước Anh chỉ sau 5 mùa bóng. Derby sau đó đã có cuộc phiêu lưu hết sức thú vị ở Cup châu Âu khi tiến sát tới trận chung kết và chỉ chịu thua trước gã khổng lồ Juventus của Italia. Lúc ấy, Clough mới 38 tuổi. Một huấn luyện viên có CV khủng như vậy thì rõ ràng là rất đáng chờ đợi. À, tất nhiên là trừ mùa giải 1974-75 ra. Bởi Clough không có cái đũa phép, chạm một cái là thành công ngay. Ông cần có thời gian. Và ông cần có John McGovern.

Thật khó có thể lý giải mối quan hệ kỳ lạ giữa Clough với McGovern. Nhưng có thể nói một cách ngắn gọn thế này, đó là “Clough ở đâu thì McGovern ở đó”. Như hình với bóng. Năm 1965, khi dẫn dắt Hartlepools, Clough và người trợ lý, cũng là bạn thân của ông, Peter Taylor, đã chấm McGovern, lúc đó mới 16 tuổi. Cả hai nhận thấy McGovern có một tiềm năng rất to lớn và bất chấp mong muốn làm tiền đạo của cậu bé, đã kéo anh chàng xuống hàng tiền vệ. Kể từ đấy cho đến khi xuống sức vì tuổi tác, McGovern luôn là hạt nhân trong lối chơi của Clough, từ Derby tới Forest, và cùng Clough giành tất cả mọi vinh quang. Nhưng điều lạ lùng nhất là McGovern chẳng bao giờ được đội tuyển quốc gia Scotland đoái hoài đến cả, bất chấp ông sẽ là hạt nhân của những đội bóng hay nhất nước, thậm chí hay nhất châu Âu.

Tháng 2-1975, tức là chỉ hơn 1 tháng sau khi nhậm chức ở City Ground, Clough đã kéo McGovern về đội. Lúc ấy, tiền vệ này đang chơi ở giải hạng Nhất và rõ ràng, việc chấp nhận xuống đá ở một đội bóng trung bình của hạng Hai chỉ có thể lý giải bằng lý do duy nhất: tình cảm. Nhưng sự kiện quan trọng không kém chính là việc Clough đã thuyết phục thành công hai cầu thủ John Robertson và Martin O’Neill (nghe tên ông này chắc fan Ngoại hạng thấy rất quen) ở lại. Trước đó, hai cầu thủ đã nằng nặc đòi ra đi khi Forest chơi quá bết bát và chẳng có chút tương lai tươi sáng nào. Nhưng khi Clough đến, bằng uy tín và tài hùng biện của mình, ông đã lôi kéo thành công họ tiếp tục gắn bó với đội bóng và không ngoài dự đoán, cả hai sau đó sẽ thành những nhân tố cực kỳ quan trọng cho cuộc chinh phục Cup châu Âu của Forest.

a24

Taylor và Clough (fan Forest)

(Nguồn: PlanetFootball)

Mùa giải thứ 2 của Clough (thực tế mới là mùa trọn vẹn đầu tiên của ông) với Forest đã kết thúc tốt hơn mong đợi. Forest leo lên thứ 8 của giải hạng Hai, một tiến bộ đáng kinh ngạc so với vị trí thứ 16 của mùa trước. Đội hình lúc này đã vận hành trơn tru hơn nhưng tất nhiên, chẳng có một ai dám đặt cược rằng 3 năm sau, với chính những cầu thủ ấy, Forest sẽ trở thành nhà vô địch Cup châu Âu. Để tăng cường sức mạnh, Clough một lần nữa đã kéo Peter Taylor về làm trợ lý cho ông. Peter Taylor từng là đồng đội thân thiết của Clough lúc cả hai còn chơi bóng. Clough khi ấy nổi tiếng vì hay… chửi đồng đội phòng ngự quá ngu, dẫn đến việc ông ghi cả núi bàn thắng mà thành tích vẫn lẹt đẹt. Chỉ có đúng Taylor là ông không chửi. Và thế là hai người thành bạn thân. Taylor có sự am hiểu rất sâu sắc về tiềm năng của từng cầu thủ. Lúc đến nhậm chức, ông quan sát rất nhanh rồi nói với Clough: “Này Brian, cậu đưa cái đám vô dụng này xếp thứ 8 hạng Nhì là giỏi lắm rồi đấy. Tôi thấy có những thằng chỉ đáng đá ở hạng Ba.” Dưới sự hỗ trợ của Taylor, các cầu thủ Forest bắt đầu bước vào chế độ rèn luyện cực kỳ khắc nghiệt. Ăn kiêng. Tập thể lực. Tập kỹ thuật. Tất cả mọi thứ để biến họ trở thành những cầu thủ mạnh mẽ hơn. Chính Taylor đã rỉ tai cho Clough mua Peter Withe (lại là một cái tên quen thuộc, ai còn nhớ ông này từng dẫn Thái Lan và Indonesia đá với Việt Nam tưng bừng ở AFF Cup không) về để làm tiền đạo chủ lực. Không phụ lòng mong mỏi của hai ông thầy, Withe đã chơi cực hay và trở thành Vua phá lưới của CLB trong 2 mùa giải trước khi bị bán đi để CLB kiếm thêm ít tiền. Nhưng không có điều gì hài hước hơn việc Taylor đã “gà” cho Clough đẩy tiền đạo Kenny Burns xuống đá trung vệ. Chắc trên đời không có mấy ai dám làm điều đó. Ấy thế mà sau này, Burns còn giành được cả danh hiệu “Cầu thủ hay nhất nước Anh”. Tất nhiên với tư cách một trung vệ.

Mùa giải thứ 3 của Clough, Forest đã làm cuộc thăng tiến đầy ngoạn mục khi cán đích ở vị trí thứ 3 giải hạng Nhì, qua đó giành quyền thăng lên hạng Nhất sau 5 năm ngụp lặn. Mặc dù thực hiện một vài vụ chuyển nhượng khá chất lượng vào mùa hè nhưng không ai tin Clough sẽ đưa Forest giành được thứ hạng cao. Trụ hạng đã là may. Song tất cả đã nhầm. Các cầu thủ áo đỏ chơi thứ bóng đá không tưởng. Trong 7 trận khởi đầu mùa bóng, Forest thắng 6, chỉ thua đúng 1 trận trước Arsenal. Cuộc đua vô địch lúc này đã có thêm cái tên gã tân binh của giải đấu. Tháng 11-1977, Forest thua 2 trận trước Chelsea và Leeds. Nhưng đó sẽ là những trận thua cuối cùng của các học trò Clough trong mùa giải trước khi họ lập kỳ tích 42 trận bất bại, kỷ lục chỉ bị Arsenal phá 36 năm sau đó. Forest xuất sắc cầm hòa nhà vô địch châu Âu Liverpool trong cả hai lượt đi và về, để rồi bất ngờ giành danh hiệu vô địch quốc gia Anh lần đầu trong lịch sử. Một chiến thắng thực sự huy hoàng khi Forest hơn Liverpool tới 7 điểm vào cuối mùa giải. Đó cũng là lần đầu tiên trong lịch sử của mình, Forest được tham dự Cup châu Âu. Và tất nhiên, chẳng ai ngoài bộ đôi Clough-Taylor tin rằng Forest sẽ có dấu ấn nào đấy với chiếc Cup danh giá nhất cấp CLB này.

Trận đấu đầu tiên của Forest tại Cup châu Âu không ngờ gặp chính đương kim vô địch Liverpool. Một cặp đấu nội bộ tràn đầy… hận thù. Ở mùa trước, Liverpool đã 3 lần gặp gã tân binh Forest nhưng không thắng nổi trận nào. Bob Paisley thúc các học trò dồn lên ngay từ đầu trận song Lữ đoàn Đỏ đã vấp phải một hàng thủ rắn như kim cương và… đỏ không thua gì mình. Forest đánh bại Liverpool 2-0 ở lượt đi và cầm hòa 0-0 ở lượt về để biến đội bóng của Paisley thành cựu vô địch. Con đường đi tới trận chung kết của Forest sau đó trở nên thênh thang hơn bao giờ hết. Khó khăn chỉ đến ở vòng bán kết khi Forest phải đối mặt với Cologne. Hai đội đã có màn trình diễn đẹp mê ly ở City Ground khi trận đấu kết thúc với tỷ số 3-3 sau cuộc rượt đuổi đầy ngoạn mục. Người Đức nghĩ rằng đã hoàn thành sứ mạng và chỉ cần hòa 0-0, 1-1 hay thậm chí 2-2 ở lượt về là đủ để điền tên mình vào chung kết. Nhưng họ đã nhầm to. Dưới sự thống lĩnh của nhạc trưởng McGovern, đứa con cưng của Clough, Forest đã làm chủ hoàn toàn thế trận. Đội bóng Anh chỉ cần bàn thắng duy nhất của Ian Bowyer sau màn độc diễn đỉnh cao để bước tới trận đấu cuối cùng. Gunter Netzer, tiền vệ huyền thoại của Đức thập niên 1970, đã thốt lên: “McGovern là gã quái nào nhỉ? Tôi còn chưa từng nghe tên hắn ta, vậy mà hắn khống chế cả trận đấu.”

Chiếc Cup châu Âu đã ở rất gần Forest. Đối thủ của Clough và các học trò lúc này chỉ là Malmo, một cái tên… nhạt toẹt tại đấu trường châu lục. Malmo là một sự bất ngờ rất lớn, thậm chí lớn gấp nhiều lần Forest cho trận chung kết. Dẫn dắt họ là Bob Houghton (người sau này từng cầm đội tuyển quốc gia Trung Quốc và Ấn Độ), đồng hương của chính Clough. Đó là lần đầu tiên trong lịch sử hai huấn luyện viên người Anh đối đầu với nhau trong trận chung kết Cup châu Âu.

Trong lúc Malmo đối mặt với một núi chấn thương khi các trụ cột Larsson, Andersson và cả đội trưởng Tapper đều vắng mặt thì Forest có đầy đủ đội hình mạnh nhất. Tin vui đến với Clough khi sau bao vất vả của thủ tục hành chính, ông đã có thể điền tên tiền đạo đắt giá Trevor Francis vào danh sách ra sân. Francis là cầu thủ Anh đầu tiên trị giá 1 triệu bảng, được Taylor ký hợp đồng cho Clough vào giữa mùa bóng từ Birmingham City. Tuy nhiên, các vấn đề giấy tờ và quy định của UEFA đã ngăn cản anh ra sân cho Forest ở những vòng trước. Anh phải đợi tới trận chung kết mới được hít thở không khí của Cup châu Âu. Và anh hít thở rất có giá trị. Trước lối chơi chặt chẽ và dũng cảm của Malmo, các cầu thủ Forest cảm thấy rất nóng ruột. Mọi đợt tấn công của họ đều bị hàng thủ của đội bóng Thụy Điển bẻ gãy. Phải đến phút cuối cùng của hiệp 1, tận dụng sơ hở của Malmo, John Robertson dẫn bóng tốc độ ở cánh trái rồi lật vào khu cấm địa. Francis có mặt đúng lúc, đánh đầu cận thành mở tỷ số trận đấu. Mọi kế hoạch kéo trận chung kết vào loạt penalty của Bob Houghton đã bị phá sản. Forest tiếp tục nắm giữ thế trận đến phút chót và trở thành đội bóng Anh thứ 3 trong lịch sử đoạt Cup châu Âu, sau Manchester United và Liverpool - một kỷ lục của giải đấu. Sau này, người Anh còn có thêm Aston Villa và Chelsea trở thành những nhà vô địch lục địa và vẫn tiếp tục giữ kỷ lục là quốc gia có nhiều CLB nhất đoạt Cup C1 - 5 đội. Nhưng không có kỷ lục nào vĩ đại bằng việc Clough, trong vòng 3 năm đã kéo một đội bóng hạng Nhì trở thành CLB số 1 châu Âu. Kỳ tích ấy có lẽ vĩnh viễn không một ai lặp lại được, nhất là khi bóng đá đã trở thành một trò chơi mang màu sắc kim tiền như hiện nay.

Forest tiếp tục kéo dài vinh quang của mình ở lục địa khi bảo vệ thành công danh hiệu vô địch trong mùa giải tiếp theo. Vào lúc bắt đầu, dù đang giữ chiếc Cup, Forest vẫn bị đánh giá thấp hơn hẳn các đối thủ của mình. Real, Milan, Ajax, Porto, Hamburg, Celtic, Liverpool, trên lý thuyết, tất cả đều được đánh giá cao hơn Forest. Nhưng sự may rủi trong bốc thăm đã dẫn đến việc gần như toàn bộ những đội bóng này bị dồn về một nhánh. Forest chỉ còn phải đối đầu với mỗi Ajax ở nhánh đấu còn lại và thực tế trận bán kết với đội bóng Hà Lan cũng là khó khăn duy nhất mà thầy trò Clough phải đối mặt trước khi tới Bernabeu. Ajax, với tiền vệ đang vào “phom” Soren Lerby đã chơi đầy nỗ lực ở Amsterdam nhưng cũng không thể san lấp cách biệt 2 bàn ở lượt đi. Forest lọt vào trận chung kết trong nước mắt của người Ajax, đội bóng đã tàn sát các đối thủ khác trước đó khi ghi tới… 30 bàn chỉ sau có 6 trận. Đối thủ của Clough là Hamburg, nhà vô địch của Bundesliga với hạt nhân chính là Kevin Keegan, người đã 2 lần giành Quả Bóng Vàng châu Âu trong những năm trước đó. Một lần nữa, Forest cũng chỉ cần 1 bàn thắng duy nhất để định đoạt giải đấu. Lần này, John Robertson không chuyền bóng nữa, anh trực tiếp ghi bàn. Forest đứng trên đỉnh vinh quang lần thứ 2 liên tiếp, thành tích mà đến tận bây giờ, những đội bóng giàu có và danh tiếng hơn như MU, Juventus hay Barcelona cũng chưa từng làm nổi.

Trong ánh nắng chiều tà trên sân bóng City Ground, một người đàn ông tóc xoăn tít, một tay xách chai rượu, một tay khoác vai người bạn của mình, lèm bèm hỏi: “Này Peter, mơ tưởng một đội bóng hạng Hai thành nhà vô địch châu Âu, chúng mình có phải là những gã khùng không nhỉ?” Peter Taylor mỉm cười: “Phải, là những gã khùng, những gã khùng vĩ đại.”

Vĩ thanh: Clough vĩnh viễn từ giã cuộc đời vào năm 2004 ở tuổi 69. Cái chết của ông là hậu quả những năm tháng làm việc căng thẳng và cả chứng nghiện rượu rất nặng. Hàng chục ngàn người đã tới tham dự lễ tang của Clough, đa phần là các cổ động viên của Derby County và Nottingham Forest. Lần đầu tiên trong lịch sử, những người hâm mộ của hai đội bóng thù hận nhau trong quá khứ này, cùng đứng bên nhau nguyện cầu cho linh hồn của vị huấn luyện viên vĩ đại. Nhưng thực ra, Clough đã chết “một nửa con người” ông vào cái ngày Peter Taylor ra đi rồi. Đằng sau một thiên tài luôn là một thiên tài khác…