• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Cúp C1 Châu Âu - 66 năm lịch sử
  3. Trang 20

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 19
  • 20
  • 21
  • More pages
  • 37
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 19
  • 20
  • 21
  • More pages
  • 37
  • Sau

Người tạo ra phép màu

Vũ Hoàng (ACMilanVN)

“Cậu phải đi với tôi. Chúng ta sẽ cùng nhau xây dựng một kênh truyền hình đánh bại RAI.” Lời nói ngọt ngào qua điện thoại của Silvio Berlusconi với Adriano Galliani không chỉ làm thay đổi bộ mặt truyền hình của Italia mà còn làm thay đổi cả lịch sử bóng đá thế giới. Đúng vậy, chúng ta đang nói về một vị Chủ tịch đã giành cho mình 5 chiếc Cup châu Âu…

ĐỨC NGÀI ĐÀI PHÁT

Wembley. 1963. Khi tiếng còi của trọng tài vang lên kết thúc trận chung kết, các cầu thủ áo trắng ùa vào nhau mừng đến rơi lệ. Họ đã trở thành đội bóng đầu tiên ngoài bán đảo Iberia lên ngôi ở Cup châu Âu. Năm ấy, Rivera 20 tuổi và là một trong những cầu thủ hay nhất thế giới. Còn Milan, CLB tham dự Cup châu Âu từ những ngày đầu, cuối cùng đã giành được danh hiệu mà họ phải chờ đợi từ rất lâu. Chức vô địch năm 1963 và 1969 đã đánh dấu một “tiền lệ” dành riêng cho Milan: họ chỉ có thể đoạt Cup châu Âu nếu huấn luyện viên và đội trưởng là một người Ý. Chỉ là người Ý!

Hai mươi ba năm sau …

“Berlusconi, hãy giải cứu Milan đi!” Đám đông các cổ động viên đứng trước Milanello, giơ cao biểu ngữ kín cả con đường. Phía trong sân tập, các cầu thủ nhấp nhổm không tài nào tập trung nổi. Ngay cả bức tượng Nereo Rocco dường như cũng đang có cảm giác ngóng chờ một điều kỳ diệu nào đó cho đội bóng. Trong vòng 5 năm, Milan tan vỡ thành từng mảnh vụn. Hai lần xuống hạng trong 3 năm khiến những cầu thủ giỏi nhất ra đi. Các vụ chuyển nhượng thất bại thảm hại và Milan lúc này chẳng khác một mớ bòng bong. Chính những tin tức về người đàn ông ấy muốn mua lại CLB đã thổi bùng lên niềm hi vọng lớn lao. Một người đàn ông có cái tên là Silvio Berlusconi.

…

Mái tóc bóng mượt chải ngược về phía sau, nụ cười đầy vẻ ma mị để khoe hàm răng được chăm sóc kỹ lưỡng mỗi ngày, trông Berlusconi chẳng có vẻ gì giống một tay chính trị gia lão luyện hay một ông trùm truyền thông. Ông luôn cố tạo cho người khác cảm nhận rằng ông là một ngôi sao showbiz hơn là một nhà kinh doanh. Thời trẻ, Berlusconi đi hát rong ở trên mấy chiếc du thuyền để kiếm tiền học đại học. Về già, ông hát vì… đam mê với một chất giọng mà ông nghĩ là rất trữ tình, còn người khác thì cho rằng giống vịt đực hơn.

Berlusconi có một tình yêu vô hạn với âm nhạc. Mặc dù luôn là một sinh viên xuất sắc của ngành luật nhưng ông hăng hái tham gia một ban nhạc nghiệp dư với vai trò tay chơi guitar bass. Ban nhạc này thậm chí còn được lên các du thuyền hạng sang để chơi cho đám thượng lưu nghe giải sầu. Tuy vậy, tiền kiếm được chẳng bao nhiêu và Berlusconi hiểu rằng, muốn giàu thì ông phải chuyển sang một nghề tạo ra giá trị thặng dư cao hơn, đó là bất động sản. Khi ấy, ông chợt nhận ra khả năng thôi miên người khác bằng nụ cười mị dân và tài nghệ hùng biện đầy vẻ khoa trương với những câu danh ngôn do ông tự nghĩ ra rồi gán cho một nhà tỷ phú nào đó. Thời ấy chưa có Google và rất nhiều người đã tin tưởng Berlusconi và những câu nói để đời của ông.

Sau khi thành công trong lĩnh vực bất động sản, Berlusconi nhận ra tiềm năng to lớn trong lĩnh vực truyền thông. Ông nhảy sang làm truyền hình khi không có một chút kinh nghiệm nào. Chẳng sao, như người ta vẫn nói về các thiên tài vậy, Berlusconi bắt đầu thành lập một công ty truyền hình riêng, TeleMilano. Đó là kênh truyền hình tư nhân đầu tiên của nước Ý, thành lập vào năm 1973 khi Berlusconi mới có 37 tuổi. Nó sẽ nhanh chóng phát triển và biến thành Canale 5, đài truyền hình tư nhân đầu tiên của Ý với đủ mọi chương trình tạp kỹ dành cho các bà nội trợ và thanh thiếu niên. Canale 5 nhập khẩu các chương trình của Mỹ về và nhanh chóng hút khách. Nhưng các thẩm phán ở một số thành phố không hài lòng và ban hành lệnh cấm phát sóng.

Một lần nữa lại chẳng sao, như người ta vẫn nói về các thiên tài, Berlusconi lúc này đã trở thành bạn thân với Bettino Craxi, Thủ tướng đương nhiệm của Italia. Craxi sốt sắng giúp đỡ anh bạn tâm giao và thế là lệnh cấm phát sóng bị bãi bỏ. Sắc lệnh của Craxi không chỉ thỏa mãn cho Berlusconi mà còn khiến hàng triệu bà nội trợ trên khắp nước Ý hài lòng. Ở nhà nấu ăn, rửa bát thì có gì vui chứ! Nhưng giờ họ có thêm hàng đống chương trình hài hước lẫn phim dài tập hay ho từ Canale 5 thì thời gian ở nhà bỗng biến thành như ở thiên đường. Sắc lệnh trên đã mở màn cho cuộc tổng tấn công của Berlusconi vào thế giới truyền hình và biến ông thành một nhà tài phiệt thực sự. Từ đó, người ta gọi ông bằng biệt danh “Đức Ngài đài phát”.

Một ngày cuối năm 1985, Berlusconi gọi Galliani vào phòng làm việc và ra lệnh: “Adriano, cậu chuẩn bị nhiệm vụ mới đi. Tôi sẽ mua lại Milan.” Galliani sẵn sàng ngay lập tức. Là cổ đông của Monza từ năm 1975, ông đã có 2 năm lãnh đạo đội bóng này và thành tích là giúp Monza… xuống hạng. Nhưng ai mà chẳng có sai lầm? Berlusconi vẫn tin tưởng phó tướng của mình và quyết định đặt canh bạc bóng đá vào tay của gã này. Thông tin lập tức rò rỉ, các cổ động viên Milan sốt xình xịch. Song Berlusconi vẫn cứ dửng dưng. Ông đang chờ kết quả của việc thương lượng bản quyền truyền hình. Đúng là con buôn!

Tháng 3-1986, tức là một thời gian ngắn sau khi bản hợp đồng truyền hình Serie A được thông qua, Berlusconi xuống tay. Milan lập tức thuộc về ông. Đó là lần đầu tiên trong đời, Berlusconi quan tâm tới việc điều khiển một đội bóng đá. Ông không có một chút kinh nghiệm nào về Serie A và calcio. Nhưng chẳng sao, như người ta vẫn nói. Bởi lẽ, tầm nhìn rất xa của ông trùm đã thấy được việc kinh doanh bóng đá sẽ phát triển chóng mặt. Các trận đấu giờ đây sẽ trở thành một sản phẩm cao cấp và đội bóng sẽ thành một thương hiệu để quảng cáo và hốt bạc. Nếu những nhà tỷ phú khác lúc ấy đầu tư vào bóng đá để giành danh hiệu thì Berlusconi còn muốn hơn thế. Milan của ông phải trở thành một đội bóng toàn cầu, các cầu thủ phải giống như những ngôi sao truyền hình, phòng họp báo phải là nơi thu hút mọi ánh nhìn. Bên cạnh đó, hoạt động thương mại cũng ráo riết được triển khai. Tạp chí Forza Milan ra đời, một cửa hàng kinh doanh quần áo được mở bên cạnh quảng trường Duomo để sớm đáp ứng lòng mong đợi của các fan về việc có một chiếc áo đỏ-đen chính hãng. Đỉnh cao của mọi kế hoạch chính là màn ra mắt của Berlusconi do đích thân ông đạo diễn. Tháng 7 năm ấy, chiếc trực thăng mang theo ông chủ mới của Milan và đội trưởng Franco Baresi đáp xuống Civic Arena, giữa hàng ngàn cổ động viên của CLB. Berlusconi xuất hiện ở ngưỡng cửa máy bay như một đấng cứu thế. Cả nước Ý đều kinh ngạc trước sự xuất hiện có một không hai này. Trong suốt lịch sử bóng đá, không có một ông chủ đội bóng nào tạo ra hiệu ứng đê mê như Berlusconi với Milan. Không một ai!

Các kế hoạch marketing và kinh doanh lập tức có hiệu quả. Các cổ động viên Milan sau những năm tháng đau khổ, giờ bỗng nhiên bừng lên hi vọng. Họ ùn ùn đổ xô đi mua vé mùa, lấp kín các khán đài để xem “gà nhà” thi đấu. Tạp chí Forza Milan bàn đủ mọi chuyện bếp núc của CLB bán đắt như tôm tươi. Nhưng chừng đó thì chưa ăn thua. Điều quan trọng nhất vẫn phải là các danh hiệu. Và Berlusconi không muốn Milan đứng ngoài lề cuộc đua Scudetto. “Vị vua của Milan” xuống chiếu: Milan phải vô địch Serie A và phải đoạt Cup châu Âu. Bằng mọi giá!

Chiếu chỉ vừa ban ra, Galliani lập tức hành động. Milan bắt đầu củng cố đội hình bằng những cầu thủ chất lượng nhất và làm từ dưới lên. Ở hàng thủ khi ấy, CLB đang có trong tay trung vệ Franco Baresi, người đang ở độ tuổi đỉnh cao của sự nghiệp và Paolo Maldini, một thiên tài trẻ tuổi cùng xuất thân từ lò đào tạo của đội bóng. Vì thế, ưu tiên của Galliani là hàng tiền vệ. Rất nhanh chóng, mùa hè năm ấy, ông đem Roberto Donadoni từ Atalanta về San Siro. Donadoni lúc này là một cầu thủ trẻ đầy triển vọng và hứa hẹn sẽ trở thành một siêu sao trong tương lai gần. Nhưng chừng đó là chưa đủ. Ông chủ Milan muốn có Ruud Gullit và Marco van Basten.

Berlusconi đã để ý đến Gullit từ rất lâu. Khi ấy, Milan của ông tham gia giải giao hữu ở Barcelona. PSV cũng tham gia cùng và cứ mỗi khi Gullit có bóng, các cules trên khán đài Camp Nou lại reo hò rất phấn khích. Sau trận, ông chủ của Milan túm cổ cầu thủ người Hà Lan (thú thật, tôi không biết gọi anh theo vị trí gì nữa) đến khách sạn Princesa Sofia để nói chuyện với Ariedo Braida, CEO của Milan. Nhưng điều hài hước là Gullit thì chả biết một tí gì về tiếng Ý ngoài câu “Ciao” cửa miệng còn Braida thì mù tịt tiếng Anh lẫn tiếng Hà Lan. Vụ thương lượng kết thúc một cách đầy bi kịch.

Tuy vậy, Berlusconi không đầu hàng. Tháng 10-1986, một số cầu thủ Serie A tổ chức thu âm album “Alleluja” ở Milano để ủng hộ các trẻ em tại El Salvador. Gullit cũng được mời tham gia và anh là người duy nhất không thi đấu tại Ý có mặt trong album này. Đoạn clip hậu trường cho thấy Gullit, với mái tóc lãng tử, trông chả khác gì ngôi sao Lionel Richie, đang say sưa hát. Đó là dấu hiệu cho thấy ngôi sao 24 tuổi đã bắt đầu bị Berlusconi quyến rũ. Cuối năm 1986, Berlusconi trực tiếp tới Amsterdam để bí mật gặp gỡ Gullit và Van Basten. Người hỗ trợ Chủ tịch Milan trong cuộc nói chuyện này là Konijnenburg, một nhân vật rất quan trọng với bóng đá hiện đại bởi ông chính là người bảo trợ cho Mino Raiola trong tương lai. Cuộc thương lượng diễn ra đúng như những gì Berlusconi dự tính. Gullit và Van Basten đều đồng ý sẽ tới Milan vào mùa hè 1987.

Tháng 1-1987, Ruud bay sang Milano và giấu tất cả sự soi mói của các phóng viên để tiến hành kiểm tra y tế. Đích thân Galliani đến tận sân bay để đón anh, bất chấp ông có một cuộc họp rất quan trọng trong ngày. Chỉ vài tuần tiếp theo, vợ Gullit cũng tới để bắt đầu tìm nhà. Dưới sự hỗ trợ của các chuyên gia Milan, việc tìm nhà diễn ra rất chóng vánh, đó là một biệt thự giản dị nằm ngay trong khu Milan Due - khu nhà do chính công ty của Berlusconi xây dựng. Milan buộc phải hành động thật gấp gáp bởi lúc này, Juventus cũng đang muốn có ngôi sao người Hà Lan.

Ngày 21-03-1987, bản hợp đồng kỷ lục thế giới của Milan với Ruud Gullit chính thức được công bố. Cầu thủ 25 tuổi trở thành cầu thủ đắt giá nhất hành tinh và là ngôi sao nước ngoài đầu tiên cập bến Milan. Nhưng ngay trong buổi họp báo, Gullit đã làm cánh phóng viên sôi lên sùng sục khi anh trả lời lạnh lùng: “Tôi chẳng biết đây là ai”, lúc các nhà báo đưa bức ảnh Gianni Rivera ôm Quả Bóng Vàng trên tay cho anh xem. Chỉ 8 tháng sau, chính Gullit đã nâng cao Quả Bóng Vàng ấy và trở thành cầu thủ đầu tiên trong kỷ nguyên Berlusconi giành danh hiệu cao quý này. Gullit đã ở giữa những sự hâm mộ và chỉ trích, giữa yêu và ghét. Khi Sacchi triệu tập anh tới để chuẩn bị cho trận đấu với Napoli vào đầu năm 1988, mặt mày anh phờ phạc, trên tóc còn dính vài cọng rau. Anh thản nhiên: “Tôi vừa quẩy với đám bạn xong.” Sacchi hỏi: “Cậu có uống rượu không?” Gullit đáp: “Có.” Rồi anh lao ra sân luyện tập và 2 ngày sau, nghiền nát Napoli của Maradona.

Berlusconi có Gullit. Ông không chỉ có một thiên tài bóng đá mà còn là một ngôi sao truyền hình, là thỏi nam châm thu hút công chúng và là kẻ luôn gây ra sự tranh cãi ở bên ngoài sân cỏ. Gullit ghi bàn ở trên sân, còn ở các show, anh luôn dành cho khán giả những điều bất ngờ nhất. Tháng 10-1987, anh xuất hiện với chiếc áo phông mang dòng chữ “Stop Apartheid”. Bốn tháng sau, anh tham gia phong trào quốc tế đòi ân xá cho 6 người da đen bị Tòa án Sharpeville kết án treo cổ vì cáo buộc giết một chính trị gia địa phương bất chấp không có bằng chứng rõ ràng. Phong trào đã lên đến cao điểm, lôi kéo cả những nhà lãnh đạo thế giới như cựu Tổng thống Mỹ Reagan, Thủ tướng Anh Margaret Thatcher và Thủ tướng Đức Helmut Kohl. Dưới áp lực của cộng đồng quốc tế, 6 bị cáo đã lần lượt được phóng thích sau đó vài năm.

Trái ngược hoàn toàn với Gullit ồn ã là Van Basten khiêm nhường. Bản hợp đồng của anh với Milan cũng diễn ra mà không có nhiều tiếng vang. Trong khi những tin tức về thương vụ Gullit được lấp đầy các trang báo thì Galliani bí mật tới Ajax. Thỏa thuận rất nhanh chóng được thông qua. Milan đồng ý chi 1,75 tỷ lire (khoảng 1,3 triệu USD) và tiền đạo 22 tuổi đã gia nhập đoàn quân của Berlusconi. Mất gần 1 mùa giải vì chấn thương, Marco đã trở lại đầy hoành tráng vào cuối mùa. Và từ đó cho đến khi kết thúc sự nghiệp ở tuổi 28, anh sẽ là vị vua trên sân cỏ của Rossoneri. Cuộc chiêu mộ Bộ Ba Hà Lan hoàn tất vào mùa hè 1988. Ariedo Braida đã tới Bồ Đào Nha, nhét bản hợp đồng vào túi quần và chạy như điên khỏi văn phòng trong sự phẫn nộ của đám đông cổ động viên Sporting. Kể từ giờ phút ấy, Frank Rijkaard cũng thuộc về Milan.

Khi đội hình đã đầy đủ, đó là lúc cần một vị huấn luyện viên đủ tầm để dẫn dắt các siêu sao ấy. Người ấy có tên là Arrigo Sacchi…

* *

*

PHÁT KIẾN CỦA SACCHI

Sự cách tân không tự nhiên mà có, nó luôn được sinh ra từ đống tro tàn của thất bại.

Thị trấn Fusignano rất bé. Bé đến mức người ta có cảm giác tất cả các cư dân nơi đây đều quen biết nhau. Fusignano nằm ven con sông Senio cũng bé không kém. Con sông này trong Thế chiến thứ Hai từng là thành lũy tạm thời của phe Trục chống lại các cuộc tấn công của quân Đồng minh vào khu vực đồng bằng Padan. Vào thời Phục hưng, thị trấn thuộc Vatican về mặt hành chính nhưng lại chịu ảnh hưởng bởi hai thành phố lớn Bologna và Ferrara về mặt văn hóa và kinh tế. Chính nơi đây đã sinh ra một nhân vật vĩ đại có ảnh hưởng rất lớn tới âm nhạc cổ điển, đó là nhà soạn nhạc Arcangelo Corelli. Corelli, với không nhiều tác phẩm, đã đưa cây vĩ cầm trở thành trung tâm của nền âm nhạc Italia và châu Âu trong thời đại baroque. Gần 3 thế kỷ sau, một người con khác của Fusignano cũng tạo nên một cuộc cách mạng trong bóng đá dù cho quãng thời gian cầm quân của ông cũng không hề kéo dài. Arrigo Sacchi chỉ thực sự nổi bật trong chưa đến 10 năm. Nhưng chừng đó là đủ để ghi tên ông vào danh sách những huấn luyện viên vĩ đại nhất của mọi thời đại.

Hà Lan, thập niên 1970…

Bóng đá tổng lực mang nhãn hiệu Ajax đang tạo nên cơn cuồng phong chưa từng có. Những chàng trai của Rinus Michels khuấy đảo cả trời Âu và trở thành thần tượng của các cổ động viên trên toàn lục địa. Sacchi không nằm ngoài danh sách ấy. Ông hâm mộ sự hào sảng trong lối chơi của Ajax, thứ bóng đá không chỉ hiệu quả mà còn rất đẹp mắt và đầy đam mê. Đó là những năm mà Sacchi lặn lội khắp các quốc gia trong Liên minh châu Âu để bán giày. Gia đình ông có một nhà máy sản xuất giày và Sacchi chính là người phụ trách tiếp thị sản phẩm.

Nếu bảo gia đình Sacchi không có gen thể thao thì cũng không đúng. Ông bố Augusto của ông từng là một cầu thủ cùi bắp, đá đâu đó ở Serie C trong những năm tháng hoàng kim nhất của sự nghiệp trước khi nhận ra bản thân có năng khiếu kinh doanh hơn là chạy theo trái bóng. Sacchi cũng quyết tâm nối nghiệp ông già. Ở tuổi 17, ông bắt đầu sự nghiệp bóng đá đỉnh cao trong đội trẻ của CLB có cái tên lạ hoắc L'Unione Sportiva Baracca Lugo. Lúc này, Baracca Lugo đang thi đấu ở giải địa phương của vùng Emilia-Romagna và tràn trề hi vọng thăng hạng Serie D. Sau 2 năm làm hậu vệ cánh ở đội trẻ, đá đâu đó chừng dăm chục trận, Sacchi nhận thấy trình độ của ông còn cùi bắp hơn cả bố mình. Ít nhất thì cụ Augusto còn ngoi lên Serie C đá vài mùa, Sacchi thì đến đội trẻ của một đội bóng địa phương cũng còn quá sức với “tài năng” của ông. Không muốn mất thời gian cho nghiệp cầu thủ bạc bẽo này, Sacchi quyết định giải nghệ ở tuổi 19 và chuyển sang học kế toán. Lúc này, xưởng đóng giày của gia đình ông đã bắt đầu ăn nên làm ra và kế thừa sản nghiệp của phụ thân sáng sủa hơn nhiều việc cứ vất vưởng ở hạng nghiệp dư môn bóng đá.

Hoàn thành khóa kế toán, Sacchi vào công ty gia đình và trở thành người phụ trách mảng tiếp thị sản phẩm. Khả năng giao tiếp, vốn liếng ngoại ngữ không tồi và sở thích xê dịch của ông hoàn toàn phù hợp với cương vị mới. Và ông kéo vali lên đường. Từ Italia sang Hà Lan, từ Bỉ sang Rumani, dấu chân của Sacchi trải khắp các quốc gia Trung và Nam Âu. Cũng bắt đầu từ đây, ông tìm ra niềm đam mê mới của mình: chiến thuật bóng đá. Cứ mỗi khi đến một thành phố nhằm vào dịp có trận đấu, Sacchi đều tìm cách mua vé để chen chân vào xem chỉ bởi ông muốn tận mắt nhìn thấy bóng đá trong một không gian rộng lớn thay vì những chiếc ti vi bé nhỏ. Những cổ động viên ở các trận đấu ấy không hề biết rằng, ngồi cùng với họ trên sân còn có một huấn luyện viên vĩ đại, cực kỳ vĩ đại, nhưng tất nhiên, ở thì tương lai.

Sau khi hai “kỳ nhân” Nereo Rocco và Helenio Herrera xuất hiện, bóng đá Italia đã được định hình theo phong cách catenaccio trong suốt những thập kỷ tiếp theo. Tất nhiên, không phải không có những người dám thay đổi. Enzo Bearzot, Giovanni Trapattoni hay Osvaldo Bagnoli đã hướng những đội bóng của mình ra khỏi phong cách phòng ngự - phản công sáo mòn. Giuseppe Marchioro, Luigi Radice hay Nils Liedholm lại gieo mầm cho sự đổi mới về mặt tấn công. Tuy rằng những thay đổi ấy chưa đủ để tạo nên một cuộc cách mạng quy mô lớn nhưng nó đã nhen những đốm lửa nhỏ để chờ ngày một vĩ nhân xuất hiện. Thật thú vị khi nhìn về những cái tên ở trên, nó có một điểm chung: Milan. Trapattoni, Bagnoli, Liedholm, Marchioro và Radice hoặc là những cầu thủ của Milan, hoặc đã từng huấn luyện đội bóng này, hoặc cả hai. Còn với Bearzot, ông cũng có chút liên hệ khi sinh ra tại Milano và từng là cầu thủ của Inter. Có lẽ vì vậy mà lịch sử đã một lần nữa lựa chọn Milan làm nơi khởi đầu cho cuộc cách mạng mới trong bóng đá.

Những tiền đề của các bậc tiền bối đã giúp ích rất nhiều cho Sacchi trong quá trình học hỏi. Quãng thời gian làm tiếp thị, ngoài việc xem các trận bóng vào cuối mỗi tuần, khi rảnh rỗi, ông lại mon men tới các lò đào tạo trẻ để xem các phương pháp huấn luyện cầu thủ chuyên nghiệp. Tất nhiên, ông thừa hiểu những gì được dạy ở Baracca Lugo là quá cũ kỹ và lạc hậu, không đáng nhắc đến. Nói tới đào tạo trẻ, khi ấy phải là Ajax, Brugge và Anderlecht. Nhất là Ajax!

Cảm thấy tích lũy kiến thức đã đủ, năm 1973, Sacchi quay trở về Italia và nhận lời làm huấn luyện viên của đội bóng quê nhà. Fusignano lúc đó gặp vô vàn khó khăn và nhiệm vụ của Sacchi là hết sức nặng nề. Ở tuổi 27, ông phải điều khiển và ra lệnh cho những cầu thủ đáng tuổi anh trai ông. Nhưng đó là lúc tất cả nhận ra Sacchi có một thiên khiếu bẩm sinh về tài quản lý. Dưới sự dẫn dắt của ông, Fusignano đã dần thoát khỏi khủng hoảng và thăng hạng. Chỉ có điều, một vấn đề riêng tư đã nảy sinh với Sacchi. Ông phát hiện mình bị hói.

Cái đỉnh đầu của Sacchi cứ lần lượt rụng thêm nhiều tóc sau mỗi lần ông chuyển đội. Rời Fusignano, Sacchi chuyển tới Alfonsine rồi Bellaria, toàn những tên tuổi lẫy lừng ở… hạng nghiệp dư. Trong vòng 5 năm, ông đã dẫn dắt các đội bóng của mình tham chiến ở những trận cầu hạng lông tại Italia. Không phải Sacchi không muốn vươn cao hơn. Nhưng ông vấp phải một vấn đề rất lớn: bằng cấp. Không thể làm huấn luyện viên ở hạng trên mà không có một bằng cấp chính quy. Đây là luật. Sacchi buộc phải lựa chọn, hoặc ông tiếp tục làm huấn luyện viên nghiệp dư như những năm qua trong khi thi thoảng vẫn chạy đi tay bắt mặt mừng với các đối tác để bán giày, hoặc ông phải từ bỏ công việc gia đình để tiến thẳng vào thế giới bóng đá. Cuối cùng, Sacchi lựa chọn phương án 2.

Năm 1978, ông tham gia khóa học huấn luyện viên ở Trung tâm thể thao Coverciano. Đây là ngôi trường đào tạo do nhà quản lý huyền thoại Italo Allodi sáng lập và giữ vị trí Giám đốc. Nhưng trung tâm này cũng chẳng lấy gì làm nổi tiếng và có lẽ ngoài Sacchi, không có nhiều học viên thành công trên con đường sự nghiệp. Dù sao, việc có một cái bằng chính quy cũng giúp Sacchi bước vào thế giới bóng đá chuyên nghiệp. Sau khi tốt nghiệp, ông trở thành huấn luyện viên đội trẻ của một CLB Serie B là Cesena trong 4 năm.

Tích lũy đủ kinh nghiệm ở Cesena, Sacchi chuyển tới Rimini và làm huấn luyện viên ở đây trong 2 mùa. Thành tích là rất khả quan. Mùa đầu tiên, Rimini kết thúc Serie C1/A ở vị trí thứ 5. Sacchi tới Fiorentina dẫn đội U17 của La Viola rồi quay trở lại Rimini. Mùa thứ hai với ông, Rimini xếp thứ 4 tại Serie C1/A. Rất ấn tượng với khả năng của vị huấn luyện viên trẻ tuổi, Chủ tịch Parma Ernesto Ceresini và Giám đốc thể thao Riccardo Sogliano đã quyết định mời ông làm huấn luyện viên trưởng. Mùa hè năm 1985, Sacchi đặt chân tới Parma, lúc này vẫn tập ở trại huấn luyện cũ thay vì trung tâm hiện đại Collecchio như bây giờ. Chỉ trong 2 năm, Parma Sacchi làm các khán giả mê mẩn khi trình diễn thứ bóng đá đầy sôi nổi ở Serie B. Họ thi đấu cực hay ở Ennio Tardini. Trong 6 trận liên tiếp đầu mùa, Parma giữ sạch lưới trên sân nhà và chỉ để thủng lưới tổng cộng có 8 lần tại đây trong cả mùa giải. Không có gì khó hiểu khi Parma là CLB có hàng thủ mạnh nhất Serie B. Nhưng không có chiến công nào vinh quang hơn việc Sacchi đã 2 lần quật ngã gã nhà giàu Milan ngay tại San Siro với tỷ số 1-0, tất cả đều diễn ra ở Coppa Italia. Đó chính là bước ngoặt để một ngày mùa xuân năm 1987, Galliani đã hẹn gặp Sacchi và nói “Milan cần ông”.

Ngày 03-07-1987, Sacchi đặt bút ký vào bản hợp đồng 1 năm với Milan. Ông khá dè dặt trước công việc đầy cam go này và ký ít nhất có thể để té lúc cần. Milan là đội bóng hạng A đầu tiên mà Sacchi làm việc. Đành rằng trước đó, ông từng tới Fiorentina theo lời mời của Italo Allodi nhưng đó bất quá chỉ là một chức danh ở đội U17. Còn bây giờ, trước mắt ông là các ngôi sao tầm cỡ thế giới, Ruud Gullit, Marco van Basten, Franco Baresi và Carlo Ancelotti. Chỉ nghe tên đã đủ lạnh người. Các cổ động viên Milan nhìn Sacchi với sự nghi ngờ không che giấu. Một thằng vô danh. Một gã bán giày. Một kẻ nghiệp dư. Liệu một huấn luyện viên chưa từng làm việc với đội bóng hạng A có thể khống chế nổi các cầu thủ ở Milan? Đây rõ ràng là canh bạc của Berlusconi, cũng là một “tân binh” ở vị trí Chủ tịch CLB.

Có lẽ để an tâm hơn trên cương vị mới, Sacchi đã đề xuất mang các cậu học trò cũ là Mario Bortolazzi, Roberto Mussi và Walter Bianchi từ Parma về Milan. Nhưng cả ba đã chứng tỏ họ không thể theo kịp với trình độ của các ngôi sao ở San Siro và nhanh chóng bật bãi. Trên sân, Milan cũng gặp khó ngay giai đoạn đầu. Đội bóng bị Fiorentina hạ nhục 2-0 ngay tại San Siro dù có trong tay hàng tá hảo thủ. Sacchi bị chỉ trích rất nặng nề. Các cổ động viên đã kéo tới Milanello, giơ cao biểu ngữ yêu cầu Berlusconi sa thải gã bán giày. Đáp lại, ông chủ của Milan đã lờ tịt và tiếp tục tất tay vào canh bạc của mình.

Nhưng trận thua trước Fiorentina cũng là lần cuối cùng Milan Sacchi thất bại tại Serie A mùa giải đó. Đội bóng đã không thua từ vòng 3 cho tới lúc kết thúc mùa, nếu không tính đến trận thắng Roma 1-0 nhưng sau đó bị xử thua 0-2 vì các ultra ném pháo sáng vào cầu thủ đối phương. Sacchi đã tìm ra công thức chiến thắng cho ông và cho cả Milan. Lối chơi phòng ngự được đẩy lên tầm cao mới. Nó rất gần với cách mà Ajax của Rinus Michels vận hành, nghĩa là luôn duy trì thành một khối dù tấn công hay phòng thủ. Sơ đồ 4-4-2 được thực thi một cách nghiêm ngặt với bộ tứ vệ tài năng ở dưới cùng, hỗ trợ phía trên là hàng tiền vệ 4 người. Milan chơi tấn công rất mạnh mẽ và phòng ngự còn mạnh mẽ hơn. Trong cả mùa giải 1987-88, Milan chỉ thủng lưới có 14 bàn, đó là còn bao gồm cả 2 bàn thua “từ trên trời rơi xuống” ở trận đấu với Roma kể trên. Tổng cộng, CLB đã giữ sạch lưới 20/30 trận tại Serie A - một kỷ lục vô tiền khoáng hậu.

Cuộc cách mạng của Sacchi đã đi từng bước để tới thành công. Ông không nhận được sự tin tưởng của các cầu thủ lẫn công chúng trong thời gian đầu nhưng dần dần, những điều ông truyền đạt đã ngấm vào từng học trò.

Trước tiên, Sacchi xóa bỏ định kiến trong tư duy của các cầu thủ Ý ở Milan. Đối với ông, việc phòng thủ không chỉ gói gọn ở 30m xung quanh khung thành. Milan cần phòng ngự chủ động, thậm chí ngay từ sân đối phương. Ngay cả các tiền đạo cũng phải tham gia vào công tác này bằng cách gây sức ép lên hậu vệ đối phương. Khoảng cách giữa các tuyến cũng không được xa quá 25m, các cầu thủ luôn phải giữ vững được cự li này để tiện phối hợp và hỗ trợ lẫn nhau. Bên cạnh đó, lối chơi phòng ngự theo khu vực cũng luôn đảm bảo cho Milan có ưu thế về quân số trong những cuộc tranh chấp tay đôi. Các hậu vệ cánh được phép dâng cao hỗ trợ tấn công và điều này đã tạo ra Paolo Maldini, hậu vệ cánh vĩ đại nhất trong lịch sử. Rất nhiều người nghĩ rằng Maldini chỉ mạnh về mặt phòng ngự nhưng thực chất, anh cũng vô cùng xuất sắc trong việc hỗ trợ tấn công với tốc độ, kỹ thuật và tư duy cực kỳ thông minh.

Việc triển khai bóng của Milan được bắt đầu ngay từ người đá thấp nhất - Franco Baresi. Đội trưởng Milan được phép dẫn bóng băng thẳng lên phía trước để chuyền bóng và gây áp lực cho đối phương. Ancelotti và Rijkaard sẽ là những người đầu tiên ở tuyến giữa nhận bóng để tổ chức tấn công. Cầu thủ người Hà Lan có xu hướng lùi xuống hỗ trợ phòng thủ và giải phóng Ancelotti được tự do chơi sáng tạo. Kết hợp cùng cặp cánh Donadoni và Colombo, cả hai sẽ di chuyển liên tục ở khu vực giữa sân để tận dụng sơ hở của đối phương. Hai tiền vệ cánh vừa có thể dâng cao, đến sát biên ngang đối thủ, nhưng cũng có thể chạy cắt vào trung lộ và nhường lại hành lang cho hai hậu vệ cánh siêu hạng ở phía dưới. Song trên hết, sự kết hợp hoàn hảo của chiến thuật Sacchi thể hiện ở cặp tiền đạo Hà Lan. Cả hai đều cao, khỏe, nhanh và cực khéo. Họ đủ sức giành lại bóng ngay trên phần sân đối phương và vừa có thể sút xa, vừa có thể phối hợp với nhau để ghi bàn.

Một trong những phát kiến của Sacchi chính là tận dụng luật việt vị. Với hàng thủ có chỉ số thông minh rất cao, cả bốn sẵn sàng dâng lên bẫy việt vị đối phương mỗi khi thủ lĩnh Baresi ra lệnh. Mỗi khi gặp khó khăn do áp lực từ hàng công của đối thủ, các hậu vệ sẽ lập tức lui về khu cấm địa, nhường lại phần sân rộng hơn bên ngoài và hạn chế các đường chuyền vào vòng 16m50. Kỹ năng phòng thủ được vận dụng nhuần nhuyễn qua từng năm đã biến Milan trong thời gian từ 1988-1994 là một trong những đội bóng bị thủng lưới ít nhất mọi thời đại với tổng cộng 151 bàn thua/7 mùa giải (234 trận).

“Bóng đá sinh ra từ bộ não, không phải từ cơ thể. Michelangelo nói rằng ông ấy vẽ bằng trí óc chứ không phải đôi tay. Vì vậy, tôi cần những cầu thủ thông minh. Đó là triết lý của chúng tôi ở Milan. Tôi không cần một nghệ sĩ độc tấu, tôi cần một dàn nhạc giao hưởng. Lời khen tuyệt nhất mà tôi nhận được là khi mọi người nói bóng đá của tôi giống như âm nhạc vậy” - Arrigo Sacchi.

Với tất cả những cách tân chiến thuật, Milan đã bắt đầu chinh phục Cup châu Âu một cách hứng khởi nhất. Nhưng sau khi đè bẹp nhà vô địch Bulgaria Vitosha Sofia ở vòng 1, Milan đã đụng Red Star ở vòng 2. Chỉ thủ hòa 1-1 ở San Siro trong trận lượt đi, đoàn quân của Sacchi mang theo sự hồi hộp ở trận lượt về. Red Star vượt lên dẫn trước 1-0 ở phút 50 và Milan đã rất cố gắng nhưng không sao đưa được bóng vào lưới đối thủ. Lời tuyên bố giành Cup châu Âu của Berlusconi sắp biến thành trò hề. Đúng lúc ấy, màn sương mù dày đặc xuất hiện và che phủ khắp sân. Trận đấu không thể tiếp tục được nữa! Trọng tài Dieter Pauly quyết định hủy bỏ kết quả khi trận đấu mới bước sang phút 57 và cho hai đội đá lại vào ngày hôm sau. Tự nhiên nhận được “quà”, các cầu thủ Milan đã thi đấu hưng phấn hơn hẳn. Marco van Basten ghi bàn mở tỷ số trước khi ngôi sao Dragan Stojkovic cân bằng 1-1. Hai đội giằng co suốt thời gian còn lại và phải đá luân lưu để phân định thắng thua. Milan thắng 4-2 penalty và vào vòng tứ kết bằng cách không thể may mắn hơn. Galliani sau này mỗi khi nhớ đến trận đấu ấy, đều phá lên cười và nói: “Nhờ màn sương mù Belgrad mà Milan đã trở thành vĩ đại”. Con đường vào trận chung kết của Milan sau đó đã bằng phẳng hơn bao giờ hết. Họ dễ dàng vượt qua vòng tứ kết và bán kết để tiến tới trận chung kết Cup châu Âu thứ 4 trong lịch sử của mình. Tất cả đều chờ đợi ngày Milan đăng quang. Nhưng lúc này, một sự cố ngoài ý muốn đã xảy ra.

Ngày 23-05-1989, các chuyên gia kỹ thuật truyền hình Tây Ban Nha và xứ Catalan tuyên bố đình công trong 3 ngày để đòi gia hạn hợp đồng. Nguy cơ trận chung kết sẽ không được tường thuật trên sóng. Các đài truyền hình nước ngoài buộc phải gây sức ép tới công đoàn và cuối cùng, thỏa thuận được thông qua trước giờ bóng lăn. Các kỹ thuật viên sẽ nghỉ… đình công trong vài giờ để thực hiện việc phát sóng trận chung kết. Trong khi đó, từ Italia, Galliani bay sang Bucharest mang theo mật lệnh của Berlusconi. Lúc ấy, theo quy định, mỗi đội tham dự trận chung kết được phân phối 40.000 vé. Cánh tay phải của ông trùm đã nhanh chóng mua sạch toàn bộ số vé này với giá cao hơn giá bán để mang về Milano. Những người Rumani khi đó đang trong tình trạng khủng hoảng chính trị, đã nhanh chóng đồng ý bán lại. Và người ta đã chứng kiến một cuộc hành hương chưa từng có, khi hơn 70.000 người từ Milano đã dùng tất cả mọi phương tiện từ máy bay, ô tô, tàu hỏa, thậm chí xe máy và cả tàu biển, chỉ để tới Barcelona trước đêm 24-5. Lần đầu tiên trong lịch sử, Camp Nou đã trở thành San Siro. Nhiều năm sau, khi những ký ức và cảm xúc đã trôi vào dĩ vãng, vẫn còn rất nhiều cổ động viên Milan nhớ lại cái đêm Camp Nou tuyệt đẹp ấy và nói trong hạnh phúc: “À, mình đã từng ở đó.”

Sự đầu tư khủng khiếp của Berlusconi trong suốt 3 năm và 50 tỷ lire được các cổ động viên Milan tiêu trong có vài ngày chỉ để xem 90 phút trận chung kết đã được đền đáp xứng đáng. Milan đè bẹp Steaua với tỷ số 4-0 bằng tài nghệ ghi bàn của cặp siêu sao Hà Lan còn Sacchi, người 2 năm trước đó vẫn là một gã vô danh, đã trở thành huấn luyện viên xuất sắc nhất thế giới.

* *

*

THỜI ĐẠI CỦA CARLETTO

Cái bức tường ở Via Vallicella có lẽ đã không còn nữa. Bức tường ấy là nơi mà cách đây nửa thế kỷ, cậu bé Carlo cứ chiều chiều lại một mình vác quả bóng ra và tập sút thẳng về nó. Trái bóng đập vào tường và nảy ra xa khiến cậu bé lại toát mồ hôi đuổi theo. Những người hàng xóm chứng kiến cảnh tượng này không bao giờ có thể ngờ họ đang nhìn một “truyền kỳ của Champions League” lớn lên…

Tuổi thơ của Ancelotti không hẳn chỉ có bóng đá, ông còn là một vận động viên cừ khôi ở môn đua xe đạp. Trong một đại hội thể thao nhỏ, Carlo đã cong mông lên nhấn pê đan và giành danh hiệu vô địch. Nhưng đó chỉ là một ý thích nhất thời bởi trái bóng mới là niềm đam mê và khao khát. “Bóng đá không chỉ là một nghề nghiệp. Tôi lớn lên ở trang trại và bóng đá là một cuộc sống tốt đẹp hơn”, Ancelotti đã nói thế về cuộc đời của mình. Sinh ra trong một gia đình nông dân chuyên làm pho mát, ngay từ khi còn bé, Carlo đã được cha mình rèn luyện tính kỷ luật một cách nghiêm khắc trong công việc. Nhưng khi ra khỏi nông trại, gia đình Ancelotti lại rộn ràng tiếng cười vui bởi sự hòa đồng và dễ gần của mọi người. Chính điều đó đã ảnh hưởng rất lớn tới Carlo khi ông trở thành một huấn luyện viên.

Năm 33 tuổi, sau 5 mùa giải gắn bó với Milan và giành được 2 chiếc Cup châu Âu, Ancelotti quyết định giải nghệ để bắt đầu cuộc phiêu lưu mới trên băng ghế chỉ đạo. Ông nhận lời trở thành trợ lý cho người thầy cũ Arrigo Sacchi tại đội tuyển quốc gia Italia trong 3 năm. Tại đây, Carlo đã được Sacchi chỉ dẫn các phương pháp quản lýđội, cách động viên cầu thủ và nghiên cứu tường tận các trường phái chiến thuật.

Trong quãng thời gian này, ông đã viết một bản luận văn tốt nghiệp có nhan đề “Tương lai của bóng đá: Cơ động hơn” (tạm dịch từ “Il Futuro del Calcio: Più Dinamicità”). Bản luận văn của Ancelotti được vẽ chi chít các biểu đồ và sơ đồ chiến thuật. Nó là một tác phẩm kế thừa từ luận văn của Cesare Prandelli trước đó vài năm. Nếu như Prandelli khẳng định: “Chúng tôi khám phá ra rằng bóng đá là một trò chơi đồng đội”, thì Ancelotti còn đi xa hơn khi nhấn mạnh tầm quan trọng của sự “dự đoán”. Một cầu thủ không những phải dự đoán lối chơi của đối thủ mà còn phải dự đoán cả lối chơi của đồng đội. Đó là cách mà Ancelotti chơi bóng và thực hiện trên sân trong suốt 13 năm của sự nghiệp đỉnh cao. Ancelotti viết tiếp: “Mục tiêu của tương lai là sẽ chơi một thứ bóng đá cơ động và khái niệm này sẽ càng ngày càng cải thiện theo thời gian bởi tốc độ của trận đấu. Việc khó dự đoán và sự đa dạng của chiến thuật đều là những vũ khí quan trọng trong việc nâng cao chất lượng trận đấu.” Ông đặc biệt nhấn mạnh vai trò của những tiền vệ trung tâm: “Nếu không có sự ăn ý giữa người chuyền bóng và người nhận bóng, khái niệm cơ động sẽ thất bại.”

Với tư duy xuất sắc, Ancelotti đã nhanh chóng đạt được những thành công bước đầu với Reggiana và Parma trước khi bị… sa thải. Quãng thời gian sau đó với Juventus cũng chẳng tốt đẹp gì. Một ngày đẹp trời, các cổ động viên Juve đã căng biểu ngữ “Một con lợn không thể làm huấn luyện viên. Cút đi, Ancelotti!” Cuối cùng, ông đi thật. Nhưng trong một câu chuyện chứa đầy drama. Khi Juventus đang đá trận cuối cùng của mùa giải, Ancelotti nhận quyết định đuổi việc ngay trong giờ nghỉ giải lao. Người ta gọi sau lưng ông là “vua về nhì”. Nhưng có một người đã nhìn ra được khả năng siêu việt của Ancelotti. Lại một lần nữa, người đó là Berlusconi.

a25

Berlusconi và các danh hiệu

(Nguồn: SempreMilan)

Berlusconi luôn thích làm những điều ít ai nghĩ tới. Hồi mới làm chủ Milan, ông đã thuê một gã cựu kế toán và marketing giày về làm huấn luyện viên. Bây giờ, khi mà cả nước Ý nghĩ rằng Ancelotti khó lòng với tới được các danh hiệu thì ông lại để mắt đến người đàn ông này. Một ngày hè chói chang của năm 2001, khi mà Parma đang tìm cách lôi kéo Ancelotti quay trở lại, ông bí mật tới gặp Berlusconi tại dinh thự Arcore. Một bản giao kèo được ký kết. Ancelotti đồng ý sẽ trở lại San Siro bất cứ lúc nào Berlusconi cần. Tháng 11 năm ấy, Ancelotti chính thức trở thành huấn luyện viên của Milan, đội bóng đã cùng ông đi tới những đỉnh cao chói lọi trong quá khứ. Milan lúc này đang trong thời kỳ tái thiết sau quãng thời gian lạc lối. Kể từ năm 1996, họ chỉ có được duy nhất 1 Scudetto đầy may mắn, còn lại đều vạ vật ở cả Serie A lẫn Cup châu Âu. Thừa hưởng một đội hình rất mạnh với cậu học trò cũ Inzaghi mới đầu quân vào mùa hè, Ancelotti đã đưa Milan lọt vào top 4 ở cuối mùa giải ấy, qua đó, giành suất cuối cùng dự Champions League, tất nhiên từ vòng sơ loại.

Song suýt chút nữa Ancelotti đã không thể trở thành… chính ông. Trận đấu sơ loại của mùa 2002-03 giữa Milan với Slovan Liberec vô danh đã khiến Carlo đứng tim. Milan thắng 1-0 ở lượt đi và dẫn trước 1-0 ở lượt về. Nhưng hiệp 2 còn lại là một thảm họa. Đội bóng Czech đá hay hẳn lên và ghi liền 2 bàn thắng để cân bằng tỷ số. Những phút còn lại, Milan chống đỡ chật vật và giữ vững trận thua 1-2, qua đó lọt vào vòng đấu bảng với luật bàn thắng trên sân đối phương. Trận đấu này có lẽ gợi cho Ancelotti nhớ đến thời ông còn là cầu thủ, Milan của Sacchi cũng đã vượt qua Red Star chỉ bằng yếu tố may mắn trước khi bước tới vinh quang. Ngày 28-5-2003, Ancelotti đối đầu với đội bóng đã sa thải mình cách đó 2 năm. Milan thắng 3-2 trên chấm luân lưu và Carlo đã có chiếc Cup đầu tiên trong sự nghiệp huấn luyện viên, một chiếc Cup mà mọi nhà cầm quân đều mơ ước. Nhưng có một sự kiện còn đặc biệt hơn thế. Đó là Clarence Seedorf. Ở tuổi 27, tiền vệ người Hà Lan đã chính thức trở thành cầu thủ đầu tiên và duy nhất đến thời điểm này, đoạt Cup châu Âu với 3 đội bóng khác nhau. Anh đã bật khóc sau khi Shevchenko ghi bàn quyết định trên chấm luân lưu và chỉ có thể thốt lên: “Thật không thể tin nổi! Thật không thể tin nổi!”

Trong những năm tháng sau đó, Milan của Ancelotti thực sự là ngáo ộp tại Champions League. Họ luôn là ứng viên hàng đầu cho danh hiệu vô địch, giành được những trận thắng lịch sử bằng chiến thuật kỳ diệu của ông. Xuất phát từ việc có quá nhiều cầu thủ sáng tạo trong đội hình, Ancelotti đã sử dụng phương án mà chưa một huấn luyện viên nào dám làm, bố trí tất cả ra sân cùng một lúc. Thế là người ta chứng kiến Milan có tới 3 “số 10” trên sân, Seedorf, Pirlo và Rui Costa. Để đem lại sự cân bằng cho tuyến giữa, ông đã dùng một cầu thủ rất cơ bắp và đầy can trường Gattuso làm máy quét và kéo Pirlo xuống chơi ở vị trí thấp nhất của hàng tiền vệ nhưng lại đảm nhiệm vai trò phát động tấn công. Đó chính là sơ đồ 4-3-1-2 trứ danh làm nên tên tuổi của Ancelotti và cuộc cách mạng vai trò của Pirlo đã tạo nên một vị trí mới: tiền vệ kiến thiết lùi sâu. Tất nhiên, Ancelotti đã được thừa hưởng từ phát kiến của một Carlo khác, Mazzone - huấn luyện viên của Brescia, người đầu tiên kéo Pirlo xuống thấp, thoát ly khỏi vai trò một hộ công. Song ông đã trao cho tiền vệ này nhiều quyền năng hơn. Gần như mọi đường bóng của Milan đều sẽ đi qua chân Pirlo trước khi phân phối cho các đồng đội ở tuyến trên. Với Ancelotti, Pirlo đã trở thành “bộ não của đội bóng”. Sự vận hành ấy đang trơn tru thì một ngày nọ, Andriy Shevchenko thông báo anh sẽ ra đi.

Vụ scandal bóng đá Italia mùa hè 2006 khiến Ancelotti bạc tóc. Milan bị trừ 8 điểm khởi đầu mùa giải mới, cộng thêm việc mất đi “sự đảm bảo của 25 bàn thắng mỗi mùa” (ám chỉ Shevchenko), CLB buộc phải phụ thuộc vào cảm hứng của Kaka. Chính lúc này, Berlusconi đã ra tay. Tháng 1-2007, Milan bất ngờ chiêu mộ thành công Ronaldo. Tiền đạo huyền thoại của Brazil đang béo ú và mất dần phong độ tại Real. Song Milan đã tin rằng họ sẽ trở nên mạnh hơn nếu anh gia nhập đội bóng. Niềm tin ấy trở thành hiện thực khi Ronaldo đã đảm đương mặt trận Serie A, giúp Milan an toàn trong top 4 để CLB dốc toàn lực vào chiến trường châu Âu.

Nếu như ở vòng 2, Milan chỉ có thể vượt qua Celtic đầy khó nhọc bằng pha trượt tuyết kinh điển của Kaka thì trận tứ kết với Bayern Munich và bán kết với MU của họ đã đem lại cảm xúc không thể quên. Những người Đức dồn lên quyết tâm đè bẹp Milan ở trận lượt về sau những cay đắng bị dồn nén trong quá khứ, bất chấp đã cầm hòa 2-2 trước đó tại San Siro. Đó chính là lúc Ancelotti cho thấy sự cao tay của ông. Sau khi Seedorf mở tỷ số được 4 phút, đến lượt Inzaghi lên tiếng. Super Pippo rình rập và chỉ chờ đúng cơ hội có lẽ là duy nhất của anh trong trận đấu. Từ một đường chọc khe thông minh của Seedorf, tiền đạo người Italia đã băng xuống nhanh như sao đổi ngôi để dứt điểm từ cự li 17 mét, có lẽ là rất xa đối với anh rồi, để đóng đinh chiến thắng. Milan còn tiếp tục vượt qua một đối thủ cực mạnh ở bán kết, đó là MU trẻ trung của Alex Ferguson, nơi mà Kaka đã ghi một bàn thắng để đời khiến tất cả nhớ mãi.

a26

Ancelotti 2007

Ngày 28-05-2007, Milan lần thứ 2 gặp Liverpool ở đấu trường châu Âu và một lần nữa, đó lại là trận chung kết Champions League. Nếu như Liverpool thắng trận đấu này, họ sẽ cân bằng thành tích đoạt Cup châu Âu với chính Milan. Trước trận đấu ngày hôm ấy, đội trưởng Paolo Maldini đã phải cắn răng tiêm thuốc giảm đau để có thể ra sân. Anh không thể bỏ lỡ trận đấu lớn cuối cùng trong cuộc đời của mình. Khác với đêm kinh hoàng tại Istanbul 2 năm về trước, Liverpool mới là đội bóng lấn lướt hơn. Nesta và Dida phải làm việc cật lực để chống lại những đợt tấn công như vũ bão của đội quân áo đỏ. Phút cuối của hiệp 1, Milan được hưởng quả đá phạt ngay trước vòng cấm địa. Pirlo sút. Bóng đập trúng vai Inzaghi bay vào lưới trong sự ngỡ ngàng của Reina. Bàn thắng! Bàn thắng! Các cổ động viên Milan gào lên điên cuồng. Tiếp đến, Kaka chọc khe đầy tinh tế, loại bỏ hoàn toàn hàng thủ của Liverpool. Inzaghi một lần nữa lại đóng vai kẻ dứt điểm. Anh phá bẫy việt vị, băng qua các hậu vệ đối phương trước khi lừa nốt thủ thành Reina để đưa bóng vào lưới trống. Milan đã không mắc sai lầm như 2 năm trước đó. Họ bảo vệ thành công thành quả của mình và lần thứ 7 đoạt danh hiệu vô địch Champions League.

a27

Milan trên đỉnh châu Âu

(Nguồn: Canal)

Ngày hôm ấy, khi chứng kiến Maldini giơ cao chiếc Cup châu Âu, không ai có thể ngờ một chương đen tối của Milan đã chuẩn bị bắt đầu.

Vĩ thanh: Cha và con

Tháng 5-1989, Paolo Maldini giành được Cup châu Âu lần đầu tiên. Ở tuổi 21, chàng trai trẻ đã đuổi kịp cha mình và biến gia đình Maldini trở thành cặp cha - con đầu tiên cùng đoạt Cup C1. Nhưng anh không bao giờ dừng lại ở điểm xuất phát ấy. Paolo còn tiếp tục cùng Milan chinh phục thêm nhiều danh hiệu nữa. Đỉnh cao nhất chính là tháng 5-2003, đúng 40 năm sau ngày Cesare nâng cao chiếc Cup vô địch với tư cách đội trưởng Milan, Paolo đã thực hiện được điều tương tự. Đó là lần đầu tiên và duy nhất cho đến lúc này, thế giới chứng kiến một cặp cha - con cùng là đội trưởng vô địch Cup C1, và còn hơn thế nữa, ở cùng một đội bóng. Maldini - Di Milan. Di Milan - Maldini…