Hồ Phương
PHI LỘ
Barca và sự vĩ đại muộn màng
Nói đến bóng đá Tây Ban Nha, người ta sẽ lập tức nhắc đến Barcelona và Real Madrid. Nhưng bước ra khỏi biên giới xứ sở bò tót thì ở buổi bình minh của các Cup châu Âu, tất cả chỉ biết đến CLB Hoàng gia Tây Ban Nha. Real Madrid đã lên ngôi ở 5 lần đầu Cup C1 được tổ chức và giành 6 chức vô địch trong 11 mùa đầu tiên. Dù phải chờ 32 năm tiếp theo để trở lại đỉnh cao sau trận chung kết Champions League mùa 1997-98 với Juventus, rồi giành tiếp chiếc Cup thứ 8 sau đó 2 năm, những vinh quang tột đỉnh ấy là quá đủ để họ được FIFA chọn là “CLB vĩ đại nhất thế kỷ XX” trong cuộc bầu chọn hồi tháng 12-2000.

Đội hình khủng khiếp của Barcelona
(Nguồn: FIFA)
Suốt khoảng thời gian ấy, Barca đang ở đâu?
Câu trả lời là họ đang bận chinh chiến ở Cup các đội đoạt Cup Quốc gia (tức Cup C2) và Cup Hội chợ. Đội bóng xứ Catalunya vẫn đang giữ kỷ lục về số lần đăng quang ở hai giải đấu đã bị khai tử này với lần lượt 4 và 3 lần vô địch. Còn ở Cup C1 thì tính đến trước trận chung kết lịch sử tại Wembley năm 1992, thành tích của Barca chỉ là con số 0 tròn trĩnh. Nguyên nhân thì có nhiều. Các cule có thể đổ cho... sự đen đủi, hay thể thức khốc liệt ở giai đoạn đầu của Cup C1. Nhưng lịch sử Barca vẫn ghi nhận một khoảng trắng mênh mông kéo dài suốt gần bốn thập kỷ đầu của giải đấu số 1 châu Âu.
Ở mùa giải đầu tiên của Cup C1 là 1955-56, khi những nhà sáng lập Gabriel Hanot và Jacques Ferran vẫn mở cửa chào đón các đội tham dự, Barca không góp mặt vì Tây Ban Nha đã có một đại diện là Real Madrid, đội đương kim vô địch La Liga. Đến khi giải đấu mở cửa để đội Á quân La Liga được tham dự vòng sơ loại, họ tiếp tục vắng mặt ở ba mùa tiếp theo hoặc vì không cán đích trong hai vị trí đầu, hoặc xếp thứ hai nhưng bị... Real Madrid lấy mất suất vì đang là nhà đương kim vô địch Cup C1.
Phải đến mùa 1959-60, đội bóng xứ Catalunya mới đường hoàng góp mặt tại Cup C1 với tư cách nhà vô địch La Liga. Nhưng chuyến phiêu lưu đầu tiên ấy lại là một nỗi đau, khi họ bị Real Madrid chặn lại ở bán kết sau thất bại với tổng tỷ số 2-6. Một năm sau, Barca lại có vé dự Cup C1 mùa 1960-61 nhờ vô địch La Liga, và đi một lèo đến trận đấu cuối cùng. Tuy nhiên, lần này nỗi đau còn lớn hơn khi họ để thua Benfica 2-3 ở trận chung kết. Việc giải đấu siết lại quy định khi chỉ cho phép các đội vô địch quốc gia tham dự Cup C1 kể từ mùa 1961-62 khiến tình thế của Barca càng trở nên khó khăn. Vì nó trùng khớp với giai đoạn khủng hoảng nặng nề nhất trong lịch sử sân Camp Nou với vỏn vẹn hai chức vô địch La Liga trong 30 năm.
Sự lép vế tại giải quốc nội đã lấy đi cơ hội cạnh tranh với những đội bóng hàng đầu châu Âu của Barca. Đó là lý do ở hai lần hiếm hoi góp mặt tại Cup C1 ấy, họ tiếp tục bị Leeds loại ở bán kết mùa 1974-75 và thua trận chung kết thứ 2 trong lịch sử trước Steaua Bucharest mùa 1985-86. Barca có lẽ vẫn sẽ là kẻ thất bại vĩ đại nếu không có bước ngoặt ở mùa 1991-92, khi Ronald Koeman tung cú sút như đạn pháo vào lưới Sampdoria giúp họ lần đầu đăng quang trong trận chung kết ở Wembley. Vì trước cột mốc lịch sử ấy, Cup C1 với đội bóng xứ Catalunya hoàn toàn là khoảng trắng, khi gã khổng lồ của bóng đá Tây Ban Nha có thành tích kém cả những Celtic, Feyenoord, Nottingham Forest, Aston Villa, Hamburg, Porto hay PSV.
Như một sự bù đắp của lịch sử, Barca đã nhanh chóng lấy lại những gì thuộc về mình. Nếu như Real Madrid là ông vua của thế kỷ XX, thì Barca là kẻ thống trị trong những năm đầu của thế kỷ XXI. Sau bước ngoặt lịch sử ở Wembley, đội bóng xứ Catalunya đã giành thêm 4 chiếc Cup Champions League vào các mùa 2005-06, 2008-09, 2010-11 và 2014-15. Tất cả đều gắn với những thiên tài mang tên Ronaldinho và Lionel Messi.
Cập bến Camp Nou năm 2003 như lời cam kết của Joan Laporta nếu đắc cử chủ tịch, Ronaldinho đã đem nụ cười của anh từ thành Paris đến Barcelona. Với niềm cảm hứng từ những pha nhảy múa của siêu sao người Brazil, đội bóng xứ Catalunya đã chạm cửa thiên đường vào năm 2006 sau màn ngược dòng trước Arsenal ở trận chung kết. Chiếc Cup thứ hai này đã thực sự nâng tầm Barca, đưa họ vào hàng ngũ những đội bóng hàng đầu. Ba chức vô địch tiếp theo thì in dấu ấn đậm nét của Messi, người thừa kế chiếc quyền trượng từ Ronaldinho, và cả thứ bóng đá kiểm soát tuyệt đối đã biến Barca thành “độc cô cầu bại” trong kỷ nguyên của Pep Guardiola. Đó có thể coi là sự bừng sáng muộn màng của một đội bóng vĩ đại. Nhưng nó cũng cho thấy sự khắc nghiệt của giải đấu số 1 châu Âu, nơi chỉ những người chiến thắng mới được ghi tên vào lịch sử.
* *
*
TRÊN ĐỈNH CHÂU ÂU
Lionel Messi đã không kịp bình phục để góp mặt trong trận chung kết Champions League mùa 2005-06 mà Barca đánh bại Arsenal để lên ngôi vô địch. Xavi Hernandez thì có tên trong danh sách đăng ký, nhưng không được đá phút nào. Và cầu thủ đầu tiên được huấn luyện viên Frank Rijkaard tung vào sân ở hiệp 2, khi Barca đang bị dẫn 0-1, đáng ngạc nhiên lại là Andres Iniesta. Nhưng Rijkaard có lý do khi làm thế. Vì ngoài một cú sút bị thủ thành Manuel Almunia của Arsenal cản phá, Iniesta chính là người mở ra cơ hội trong bàn gỡ hòa 1-1 của đội bóng xứ Catalunya, với đường chọc khe thông minh để Henrik Larsson nhả bóng ra cho Samuel Eto’o băng lên dứt điểm.
Nói đến Iniesta, mọi người ở La Masia thường nhớ đến hai câu chuyện. Trong lần đầu tiên được gọi lên tập cùng đội 1 của Barca, Iniesta lúc đó mới 16 tuổi đã không thể tìm được phòng thay đồ. Luis Enrique được cử đi tìm cậu nhóc bị lạc. Và khi cậu bé với đôi mắt to ngượng ngùng xuất hiện trong phòng thay đồ, Pep Guardiola đã khiến tất cả các đồng đội bất ngờ khi đứng dậy và tuyên bố một cách đầy nghiêm túc: “Hãy nhớ ngày này, ngày các anh lần đầu chơi cùng Andres.” Chưa hết, Pep còn lôi Xavi sang một bên và nói: “Cậu sẽ khiến tôi treo giày. Còn gã này sẽ làm cho cả hai chúng ta giải nghệ.”
Câu chuyện thứ hai về Iniesta cũng liên quan đến Pep Guardiola. Ngày 21-07-1999, tiền vệ trẻ khi ấy đeo băng thủ quân đội U15 Barca ở trận chung kết giải trẻ Nike Premier Cup được tổ chức tại chính thành phố Barcelona. Iniesta đã ghi bàn quyết định trong hiệp phụ, giúp đội bóng nhí của Barca đánh bại Rosario Central của Argentina với tỷ số 2-1 để lên ngôi vô địch, trong khi chính anh được bầu là “Cầu thủ xuất sắc nhất giải”. Pep chính là người trao các danh hiệu và khi đưa chiếc Cup vào tay cậu bé rụt rè Iniesta, ông đã nói: “Có lẽ chỉ vài năm nữa, tôi sẽ chứng kiến cậu làm điều tương tự từ trên khán đài.”
Sở dĩ chúng ta nhắc đến hai cái tên này nhiều đến vậy, là vì Pep... đã sai. Tròn 10 năm sau trận chung kết Nike Premier Cup năm 1999, ông đã chứng kiến Iniesta làm điều tương tự không phải từ khán đài, mà là trên cương vị huấn luyện viên của Barca. Đó là trận bán kết lượt về Champions League mùa 2008-09 ở sân Stamford Bridge của Chelsea. Hai đội đã hòa 0-0 trong trận lượt đi tại Nou Camp và ngay phút thứ 9 của trận lượt về diễn ra ngày 06-05-2009 ở London, Michael Essien đã mở tỷ số cho đội bóng Anh với một cú sút chân trái không thể cản phá.
Barca sau đó sa vào thế trận phòng ngự phản công sắc bén mà huấn luyện viên Guus Huddink của Chelsea bày ra, nếu không nhờ may mắn và thị lực có vấn đề của trọng tài Tom Henning Ovrebo, có thể đã nhận thêm bàn thua. Nhưng mọi nỗ lực của đội chủ nhà rốt cuộc đều trở thành vô nghĩa. Vì trong cái năm 2009 tuyệt vời ấy, Chúa đã chọn Barca. Đúng phút bù giờ thứ 3 của trận đấu ở Stamford Bridge, Messi nhả bóng ra ngoài vòng cấm để Iniesta tung cú sút một chạm không cần lấy đà, đưa bóng vào góc cao khung thành của Chelsea. Tỷ số là 1-1, và Barca lọt vào trận chung kết Champions League nhờ luật bàn thắng sân khách.
Đội bóng xứ Catalunya sau đó tiếp tục đánh bại nhà đương kim vô địch Man United, đội từng loại họ ở bán kết mùa 2007-08, tại sân Olimpico để lên ngôi vô địch. Đó là trận đấu mà Messi làm lu mờ Cristiano Ronaldo, người đã trở nên hoàn toàn vô hại, với một tình huống “dừng” trên không rồi đánh đầu hạ gục thủ thành Edwin van der Sar để ấn định chiến thắng 2-0 cho Barca. Nhưng không phải trận chung kết ở Rome hay màn vùi dập Bayern Munich với tổng tỷ số 5-1 ở tứ kết, mà trận bán kết lượt về với Chelsea mới thực sự là điểm nhấn lớn nhất trên hành trình đăng quang tại Champions League mùa 2008-09 của Barca. Cú sút của Iniesta, người mà Pep từng tán dương là “đọc trận đấu giỏi hơn cả tôi” khi anh còn là một cậu bé 14 tuổi, cũng chính là dấu son đẹp nhất trên chặng đường chinh phục đỉnh cao châu lục năm ấy của Barca.
Chiếc Cup Champions League giành được tại Rome đã giúp đội bóng xứ Catalunya hoàn tất cú ăn 3 khi trước đó, họ đã giành Cup Nhà Vua Tây Ban Nha và vô địch La Liga. Trong vài tháng kế tiếp, Barca ẵm nốt 3 danh hiệu Siêu Cup Tây Ban Nha, Siêu Cup châu Âu và FIFA Club World Cup để hoàn thành mục tiêu không tưởng là cú “El Sextete” (ăn 6) trong năm dương lịch 2009. Đó là cái kết tuyệt vời mà có lẽ, ngay cả những culé lạc quan nhất cũng không dám tưởng tượng đến ở đầu mùa 2008-09, mùa giải mở ra một chương rực rỡ nhất trong lịch sử đội bóng.
Vì Barca vừa trắng tay trong mùa giải trước đó, và thậm chí phải bắt đầu chiến dịch Champions League mùa 2008-09 từ vòng loại thứ 3 do chỉ đứng thứ 3 tại La Liga. Vì kiến trúc sư của giai đoạn thành công trước đó là Frank Rijkaard đã nói lời tạm biệt, chưa kể một loạt công thần như Ronaldinho, Deco, Gianluca Zambrotta hay Edmilson cũng ra đi. Để thay thế Rijkaard, Chủ tịch Joan Laporta đã bổ nhiệm Pep Guardiola, người trước đó mới có kinh nghiệm một mùa dẫn dắt Barca B. Còn để lấp vào những khoảng trống trong đội hình, đội bóng xứ Catalunya đã mang về Dani Alves, Seydou Keita, Martin Caceres, Alexander Hleb và đáng chú ý nhất, là Gerard Pique.
Bốn năm sau khi chia tay Barca để gia nhập Man United, trung vệ này đã trở lại sân Camp Nou vào mùa hè năm 2008 với cái giá rẻ bèo 5 triệu bảng. Chính màn tái xuất của người đồng đội cũ của Messi ở lò La Masia, cùng việc một thành viên khác của lứa 1987 là Pedro Rodriguez và một tài năng trẻ khác sinh năm 1988 là Sergio Busquets được huấn luyện viên Pep Guardiola đôn đên đội 1 đã tạo ra cú hích lớn nhất trong lịch sử đội bóng xứ Catalunya. Vì Pique đã nhanh chóng chiếm suất cứng ở vị trí trung vệ. Dù chỉ được coi như một siêu dự bị, Pedro đã trở thành cầu thủ đầu tiên ghi bàn ở 6 giải đấu khác nhau trong một năm. Busquets thậm chí còn ấn tượng hơn, khi lấy luôn vị trí tiền vệ phòng ngự của Yaya Toure, người sau đó phải bán xới khỏi Camp Nou vì không cạnh tranh nổi với “Busi”.
Chính dàn cầu thủ trẻ tài năng ấy, cộng với một Messi bắt đầu bùng nổ sau khi bước ra khỏi cái bóng của Ronaldinho, đã mở ra một thời kỳ thành công trong lịch sử Barca. Sau cú El Sextete trong năm 2009, đội bóng xứ Catalunya gần như trở thành “Độc Cô Cầu Bại” tại châu Âu, không chỉ về thành tích mà còn cả cái cách họ nắm hoàn toàn trận đấu trong tay và kết liễu đối thủ bất cứ khi nào mình muốn. Vì thế, không có gì ngạc nhiên khi ở mùa giải 2009-10 kế tiếp, Barca tiếp tục thể hiện sự áp đảo ở Champions League. Họ đã đứng đầu bảng đấu có sự góp mặt của Inter, Rubin Kazan và Dynamo Kyiv, vùi dập Stuttgart với tổng tỷ số 5-1 ở vòng 1/8, rồi tiếp tục hạ Arsenal với tổng tỷ số 6-3 tại tứ kết để tái ngộ Inter ở bán kết.
Khi ấy, ai cũng nghĩ Barca sẽ dễ dàng vượt qua Nerazzurri, đội bóng mà họ từng hòa 0-0 và thắng 2-0 trong hai cuộc đối đầu ở vòng bảng. Vì chứng kiến phong độ khủng khiếp của đội bóng xứ Catalunya, chỉ có một cơn địa chấn mới có thể ngăn họ lại. Không ai ngờ là động đất lại... xảy ra thật. Giữa tháng 4-2010, những hoạt động địa chấn đã khiến núi lửa ở sông băng Eyjafjallajökull của Iceland phun trào. Tro bụi núi lửa bao phủ khắp bầu trời, làm đình trệ hoàn toàn các hoạt động hàng không ở khu vực Bắc và Tây Âu.
Kết quả là thay vì bay đến Milan để đá trận bán kết lượt đi với Inter, thầy trò huấn luyện viên Pep Guardiola lại phải di chuyển gần 1.000 km bằng đường bộ. Hành trình mệt mỏi trên xe bus đã vắt kiệt thể lực của các cầu thủ Barca. Vì thế, dù vẫn mở được tỷ số ở Giuseppe Meazza nhờ công của Pedro, đội bóng xứ Catalunya đã thua ngược 1-3 trước một Inter hoàn toàn sung sức. Thắng lợi 1-0 trong trận lượt về diễn ra sau đó 8 ngày là không đủ để Barca lật ngược thế cờ trước đội bóng của huấn luyện viên Jose Mourinho và đành chấp nhận dừng chân ở bán kết.
Thất bại đó là nỗi đau khôn nguôi của người Catalunya. Bởi khi ấy, họ đang sở hữu một lứa cầu thủ đầy tài năng đang vào độ chín, và còn được bổ sung Zlatan Ibrahimovic hồi đầu mùa từ… chính Inter. Tuy nhiên, Barca đã không mất quá nhiều thời gian để đòi lại những gì đã mất. Chỉ một năm sau lần phải dừng bước ở bán kết Champions League mùa 2009-10 vì lý do trời ơi đất hỡi, họ đã một lần nữa đứng trên đỉnh châu Âu.
Ở Champions League mùa 2010-11, Barca tiếp tục có những bước tiến thần tốc tại vòng bảng khi chỉ phải gặp Copenhagen, Rubin Kazan và Panathinaikos. Sau đó, họ vượt qua Arsenal với tổng tỷ số 4-3 ở vòng 1/8, vùi dập Shakhtar Donetsk tới 6-1 ở tứ kết rồi đòi lại món nợ trước Jose Mourinho, người lúc này đã chuyển sang dẫn dắt Real Madrid, tại bán kết. Thắng lợi với tổng tỷ số 3-1 sau hai trận El Clasico đã đưa đội bóng xứ Catalunya gặp lại Man United, bại tướng của họ trong trận chung kết mùa 2008-09, ở trận đấu cuối cùng.
Kết quả màn tái đấu giữa hai đội ở Wembley ngày 28-05-2011 không thay đổi, khi Barca vẫn là kẻ chiến thắng. Dù đã kìm chân được cỗ máy hủy diệt Blaugrana với tỷ số hòa 1-1 sau khi hiệp 1 kết thúc, Man United lại sụp đổ ở nửa sau của trận đấu. Bất chấp bị Park Ji-sung đeo như đỉa đói cả trận, Messi vẫn thoát ra được trong một tích tắc rồi nâng tỷ số lên 2-1. David Villa sau đó ấn định chiến thắng 3-1 cho đội bóng xứ Catalunya, trong trận đấu mà máy quay đã chớp được cảnh Sir Alex Ferguson ngồi trên ghế chỉ đạo của đội bóng Anh với khuôn mặt thất thần và đôi tay nắm chặt đang run lên bần bật.
Hình ảnh ấy đã lột tả tất cả sức mạnh đáng sợ của Barca trong kỷ nguyên của Pep Guardiola, người lẽ ra đã có thể trở thành huấn luyện viên đầu tiên 3 lần liên tiếp đăng quang ở Champions League thay vì Zinedine Zidane, nếu không có vụ núi lửa phun trào ở Iceland. Nhưng đáng tiếc là chức vô địch mùa 2010-11 ấy cũng là dấu son cuối cùng của Pep cùng đội bóng xứ Catalunya ở đấu trường châu lục. Vì ở mùa kế tiếp 2011-12, Barca của ông một lần nữa dừng chân ở bán kết. Kẻ chặn họ lại là Chelsea, và thắng lợi của The Blues lúc ấy được coi như “nhân quả” cho trận hòa tức tưởi tại Stamford Bridge trước đó 3 năm, trận đấu mà Barca được lợi từ những quyết định của trọng tài Ovrebo trước khi Iniesta tỏa sáng với bàn gỡ hòa 1-1 ở phút bù giờ thứ 3.
Cuối mùa giải 2011-12 ấy, Pep cũng quyết định ra đi và người ta tưởng như Barca sẽ lại lâm vào một cuộc khủng hoảng tiếp theo. Sự xuất hiện rồi ra đi chóng vánh của hai huấn luyện viên kế tiếp là Tito Vilanova và Gerardo Martino càng khiến các culé thêm lo lắng. Nhưng may cho đội bóng xứ Catalunya là họ vẫn giữ được bộ khung chắc chắn với Xavi, Iniesta, Messi, Pique, Busquets, Dani Alves, và còn được bổ sung hai nhân tố quan trọng là Jordi Alba và Neymar ở hai mùa hè trước đó. Đến hè 2014, Barca tiếp tục làm một cuộc cách mạng nhân sự khi đưa về một lúc cả Marc-Andre ter Stegen, Claudio Bravo, Ivan Rakitic và Luis Suarez, bộ tứ sau này đều trở thành trụ cột ở Camp Nou. Nhưng huấn luyện viên Luis Enrique mới thực sự là “tân binh” quan trọng nhất.
Mặc dù vậy, Enrique cũng từng trải qua không ít sóng gió trong những ngày đầu sắm vai thuyền trưởng của Barca. Ông thậm chí đã suýt mất ghế vì thành tích nghèo nàn của đội bóng và bất đồng với Messi. Đỉnh điểm của mâu thuẫn là trận thua 0-1 trên sân Sociedad ở La Liga ngày 05-01-2015, trận đấu mà Enrique để ngôi sao người Argentina ngồi dự bị. Phải đến khi Chủ tịch Josep Maria Bartomeu vào cuộc, hai bên mới làm lành trở lại và Barca bắt đầu hồi sinh. Họ đứng dậy đầy mạnh mẽ khi toàn thắng 11 trận tiếp theo ở mọi đấu trường, và không ngoảnh lại phía sau lần nào nữa cho đến cuối mùa.
Trên sân, Messi nhanh chóng tìm thấy tiếng nói chung với Neymar và Suarez, để tạo ra bộ ba MSN trứ danh. Với sức công phá khủng khiếp của bộ ba tiền đạo Nam Mỹ, những người đã cùng nhau ghi tới... 122 bàn trên mọi mặt trận ở mùa giải 2014-15, Barca tiếp tục càn quét các danh hiệu. Họ đã vô địch La Liga, Cup Nhà Vua và đến ngày 06-06-2015, hoàn tất cú ăn 3 thứ hai trong lịch sử CLB khi đánh bại Juventus với tỷ số 3-1 trong trận chung kết Champions League diễn ra ở Berlin.
Chiến thắng ấy có thể coi là ví dụ tiêu biểu cho chính sách chuyển nhượng khôn ngoan của đội bóng xứ Catalunya vì 3 cầu thủ ghi bàn cho họ trong trận chung kết đều là những tân binh mới đến trong hai mùa hè trước đó là Rakitic, Suarez và Neymar. Chiếc Cup Champions League thứ 3 trong vòng 6 mùa giải cũng là sự tôn vinh xứng đáng dành cho đội bóng mà nhiều người vẫn cho là vĩ đại nhất lịch sử. Nhưng nhìn từ một góc độ khác, có thể coi nó là dấu chấm hết cho kỷ nguyên tiki-taka.
Đúng là Barca đã quét bay mọi chướng ngại vật trên đường đăng quang tại Champions League, từ Man City, PSG, Bayern Munich cho đến Juventus. Tuy nhiên, đội bóng của mùa giải 2014-15 ấy lại giành chiến thắng chủ yếu nhờ sự tỏa sáng của các ngôi sao tấn công hơn là nhờ thứ triết lý từng được Johan Cruyff gieo mầm ở lò La Masia, rồi lại được Pep Guardiola nâng tầm lên thành nghệ thuật. Đây cũng là điều dễ hiểu. Vì tuy cũng từng là một tượng đài của Barca như Pep, Luis Enrique lại không phải một sản phẩm của lò La Masia. Thứ bóng đá của ông, vì thế cũng trực diện hơn theo kiểu đường thẳng luôn là đường ngắn nhất.
Cuộc khủng hoảng triết lý ở Camp Nou thực tế vẫn tiếp diễn ở giai đoạn hậu kỷ nguyên Enrique, dù Barca tiếp tục vời đến những người cũ như Ernesto Valverde, Ronald Koeman hay một “Cruyffista” (người tôn sùng trường phái bóng đá của Johan Cruyff) như Quique Setien. Còn sự phụ thuộc vào các ngôi sao thì khiến thành công của Barca không được xây trên một nền tảng vững chắc. Bằng chứng là sau cú ăn 3 ở mùa giải 2014-15 ấy, họ vẫn chưa thể trở lại đỉnh châu Âu, dù vẫn có thêm 3 chức vô địch La Liga và 3 chiếc Cup Nhà Vua trong 5 mùa kế tiếp.
Đội bóng xứ Catalunya thậm chí còn lâm vào giai đoạn thoái trào sau cuộc tháo chạy của Neymar, người từng khiến một Chủ tịch là Sandro Rosell phải vào tù và sự ra đi của Suarez, người đã đến Camp Nou với một án treo giò. Bộ ba MSN cũng suýt tan rã hoàn toàn ngay trong mùa hè 2020, khi cả Messi cũng tuyên bố muốn ra đi. Cầu thủ người Argentina rốt cuộc đã tiếp tục gắn bó với Barca trong mùa giải 2020-21. Nhưng một mình Leo trong buổi xế chiều của sự nghiệp rõ ràng không thể giúp tiki-taka hồi sinh. Đừng quên là ngay cả ở giai đoạn tỏa sáng rực rỡ nhất của mình, Messi cũng được vây quanh bởi những thiên tài khác của lò La Masia như Xavi, Iniesta và Busquets.
* *
*
LA MASIA
Lịch sử Barca đã bước sang một trang mới sau ngày 20-05-1992. Đó là ngày họ đánh bại Sampdoria trong trận chung kết Cup châu Âu để lần đầu đăng quang ở giải đấu. Trước trận đấu lịch sử ở Wembley, đội bóng xứ Catalunya luôn bị coi là một kẻ thất bại ở đấu trường châu lục. Vì trước cột mốc ấy, Barca mới giành được 3 chiếc Cup C2 dành cho các đội đoạt Cup Quốc gia và 3 lần vô địch Cup Hội chợ, giải đấu thậm chí còn không được UEFA tính vào hệ thống thi đấu của mình. Còn tại Cup C1, họ đã thất bại trong cả 2 lần góp mặt ở trận đấu cuối cùng.
Đó là trận chung kết mùa 1960-61 mà Barca với dàn hảo thủ đến từ Hungary gồm Laszlo Kubala, Sandor Kocsis, Zoltan Czibor và Luis Suarez, cầu thủ người Tây Ban Nha duy nhất từng giành Quả Bóng Vàng châu Âu nếu không kể Alfredo Di Stefano vốn mang gốc gác Argentina, để thua Benfica với tỷ số 2-3. Sau đó 25 năm, là thất bại đầy cay đắng trên chấm luân lưu trước Steaua Bucharest, khi họ cũng đang sở hữu những ngôi sao sáng trong đội hình như Bernd Schuster, Steve Archibald và Pichi Alonso.
Quá tam ba bận, Barca đã lên ngôi ở lần thứ ba lọt vào trận chung kết. Và người ta vẫn coi chiến thắng ở Wembley ngày 20-05-1992 là chiến công của huấn luyện viên Johan Cruyff và đội hình Dream Team mà ông đã xây dựng suốt 4 năm trước đó với những cái tên như Hristo Stoichkov, Michael Laudrup và Ronald Koeman, tác giả của bàn thắng duy nhất đem về chiếc Cup C1 đầu tiên trong lịch sử đội bóng. Quan điểm ấy đúng, nhưng chưa đủ. Vì người Catalunya thực tế đã bắt đầu gieo mầm cho chiến thắng ấy từ rất lâu trước đó, với sự ra đời của lò đào tạo danh tiếng La Masia.

La Masia - Niềm tự hào của Barcelona (Nguồn: BarcelonaFC)
Chính xác thì Barca đã bắt đầu xây dựng hệ thống cầu thủ kế cận từ rất sớm. Năm 1901, tức chỉ 2 năm sau khi CLB được khai sinh, một trong những thành viên sáng lập đội bóng là Luis de Osso đã thành lập đội dự bị và giữ luôn vai trò đội trưởng. 17 năm sau, hệ thống các đội trẻ cũng chính thức ra đời trong nhiệm kỳ của Chủ tịch Joan Gamper. Năm 1961, Chủ tịch mới đắc cử Enric Llaudet từng hứa hẹn xây dựng một học viện bóng đá của riêng CLB và định bổ nhiệm Kubala, người lúc ấy vừa treo giày, làm giám đốc kỹ thuật của học viện. Tuy nhiên, dự án này rốt cuộc lại chết yểu khi cựu danh thủ gốc Hungary sau đó được điều sang làm huấn luyện viên đội 1.
Bước ngoặt chỉ đến sau khi José Luis Núñez đắc cử chủ tịch Barca vào năm 1978. Một trong những quyết định đầu tiên của vị chủ tịch huyền thoại này là bổ nhiệm Jaume Amat Curto làm giám đốc đào tạo trẻ. Chính Amat đã đề xuất xây dựng một khu phức hợp gồm ký túc xá, phòng ăn, phòng tập thể lực và sân tập để giải quyết vấn đề ăn ở của các cầu thủ trẻ, những người đang vất vưởng trong các căn hộ cho thuê với những rủi ro từ cuộc sống về đêm của thành phố. Trong cuộc trò chuyện với tờ Mundo Deportivo năm 2009, người được coi là “cha đẻ của lò La Masia” nhớ lại: “Tôi và huấn luyện viên Oriol Tort cùng đến gặp Chủ tịch Núñez để đề xuất ý tưởng về việc xây dựng học viện, và ông ấy nói cứ làm đi. Tất cả chỉ mất khoảng 1 phút.”
Sau cuộc trò chuyện chóng vánh ấy, tất cả bắt tay vào làm việc để rồi ngày 20-10-1979, học viện bóng đá của Barca chính thức khai trương. Học viện đặt trụ sở ở La Masia de Can Planes, biệt thự cổ được xây dựng từ đầu thế kỷ XVIII và từng được dùng làm văn phòng cho các kiến trúc sư phụ trách việc xây dựng sân Camp Nou. Đây cũng chính là nguồn gốc của cái tên La Masia. Ngân sách mà CLB dành cho đào tạo trẻ lúc ấy chỉ là 20 triệu pesetas, khoản tiền xấp xỉ 120.000 € hiện tại. Nhưng cũng may mắn là chi phí của lò La Masia không phải là quá lớn. Nó chỉ tương đương với số tiền mà Barca vẫn bỏ ra để thuê phòng cho các cầu thủ trẻ trước đây. Mặc dù vậy, tất cả vẫn cố gắng tiết kiệm nhất có thể.
Giám đốc đào tạo trẻ Amat kể lại trên tờ Mundo Deportivo: “Có một ngày, tôi chợt ghé qua chỗ kế toán và phát hiện ra chúng tôi đang tốn tới 500.000 pesetas để mua nước khoáng đóng chai. Vậy là tôi quyết định lắp hệ thống lọc nước và chúng tôi tiết kiệm được nửa triệu pesetas. Bếp trưởng Xavier Comenges thì ngày nào cũng đi hết khu chợ này đến khu chợ khác để tìm mua khoai tây rẻ nhất. Và chúng tôi cũng chỉ dám mua từng cân một.” Tuy nhiên, bất chấp những khó khăn trong thuở ban đầu, La Masia đã thực sự thành hình với đầy đủ các bộ phận, từ ban giám đốc, các huấn luyện viên, các bác sĩ và những nhân viên điều hành. Ở cùng thời điểm ấy, cả châu Âu chỉ có đúng học viện Vichy của Liên đoàn bóng đá Pháp sở hữu một hệ thống đào tạo với cơ sở vật chất tương tự.
Sự ra đời của La Masia đã đánh dấu sự chuyển biến lớn trong công tác đào tạo của Barca, khi các cầu thủ trẻ giờ không phải lo ăn ở mà chỉ cần tập trung vào tập luyện. Cơ ngơi đầy đủ và cách làm bài bản cũng giúp học viện của Barca trở thành điểm đến đáng tin cậy với các bậc phụ huynh, những người không chỉ quan tâm đến sự nghiệp mà cả cuộc sống và chuyện học hành của con mình. Tất nhiên, trong một số trường hợp, đích thân Amat sẽ phải vào cuộc. Chẳng hạn như với Guillermo Amor, khi sau cuộc trò chuyện với bố mẹ anh, “hiệu trưởng” của La Masia còn phải gửi thêm một bức thư khẳng định ông hiểu rõ những lo âu và sợ hãi của họ vì từng trải qua tất cả khi đến Madrid học đại học lúc còn trẻ. Rất nhiều năm sau, chính bố của Amor thừa nhận bức thư ấy đã tác động rất lớn để ông đồng ý cho con mình gia nhập La Masia.
Nhưng về chuyên môn, Amat gần như không có gì phải lo nghĩ khi trong tay ông lúc đó có hai huấn luyện viên đào tạo trẻ kiêm tuyển trạch viên xuất sắc là Jaume Olivé và Oriol Tort. Vị giám đốc này kể lại là có một ngày, cả hai cùng hăm hở bước vào văn phòng của ông và nói: “Chúng tôi đang có một ngôi sao tương lai tập ở dưới kia.” “Vậy à, thế thì ký hợp đồng với cậu ta đi”, Amat trả lời trong khi tự nhủ, “thằng nhóc nào giỏi đến mức khiến bọn họ vui vẻ đến vậy”. Đơn giản vì trước đó, Olivé và Tort hiếm khi tỏ thái độ nhiệt tình với bất kỳ cầu thủ trẻ nào. Tort thậm chí còn nghiêm khắc đến mức từng khẳng định, ông chỉ cần nhìn cách một cầu thủ buộc dây giày là biết cậu ta đá bóng có giỏi hay không.
Hóa ra, cậu nhóc được nhắc đến trong câu chuyện của Olivé và Tort chính là Amor, một trong những thành viên thuộc lứa đầu tiên của lò La Masia. Sau này, chỉ có một người nữa từng khiến cả hai ông thầy “hắc ám” này cùng tỏ ra phấn khích khi lần đầu chứng kiến. Đó là Pep Guardiola. Nhưng đó là câu chuyện của 5 năm sau, khi Amat đã chia tay La Masia để đảm nhiệm một công việc trong chính quyền xứ Catalunya và vị trí giám đốc đào tạo trẻ của ông được Phó chủ tịch Josep Mussons kiêm nhiệm.
Trở lại với những ngày đầu của La Masia, lứa cầu thủ trẻ đầu tiên đã được CLB cho thử lửa từ rất sớm. Ngay đầu mùa 1980-81, 20 thành viên của lò đào tạo đã được đôn lên thử việc ở đội 1. Ngày 16-09-1980, hậu vệ Ángel Pedraza trở thành sản phẩm đầu tiên của lò La Masia được ra mắt đội 1, khi vào thay Tente Sánchez ở phút 72 trong trận gặp CLB Sliema Wanderers của Malta ở UEFA Cup. Chỉ 4 phút sau khi Pedraza vào sân, tiền đạo Manolo Muñoz trở thành người thứ hai được trình làng. Cũng trong mùa giải ấy, các huấn luyện viên Kubala và Helenio Herrera còn giới thiệu thêm 5 gương mặt khác của La Masia là Manuel Lobo, Esteve Fradera, Luis Torreblanca, Jordi Vinyals và Amor.
Ngọn lửa đã được thắp lên. Nhưng phải 9 năm sau khi thành lập, Johan Cruyff mới đến và tạo ra một bước ngoặt thực sự, khiến La Masia trở nên khác biệt so với những lò đào tạo khác. Năm 1988, cựu danh thủ người Hà Lan trở lại sân Camp Nou trên cương vị huấn luyện viên và một trong những yêu cầu đầu tiên của ông là bắt tất cả đội bóng của Barca, từ các đội trẻ cho đến đội 1, chơi theo một phong cách thống nhất. Triết lý ấy là sự tổng hòa giữa thứ bóng đá tổng lực của người Hà Lan và lối chơi ngắn, nhỏ, một chạm truyền thống của người Tây Ban Nha.
Bóng đá tổng lực đòi hỏi tất cả các cầu thủ phải di chuyển thành một khối và đổi vị trí nhanh chóng. Và ở La Masia, những phẩm chất kỹ thuật vốn luôn được đặt lên hàng đầu. Sự kết hợp của hai trường phái ấy đã tạo ra một thứ bóng đá được xây dựng trên những đường chuyền và khả năng chạy chỗ để khai thác các khoảng trống. Người ta gọi lối chơi đó là “juego de posición”. Nhưng sau này, nó vẫn được biết đến nhiều hơn với cái tên tiki-taka.
Chính hạt giống tiki-taka mà Cruyff đã gieo ở La Masia từ năm 1988 đã lái lịch sử của Barca theo một con đường khác. Bốn năm sau bước ngoặt ấy, đội bóng xứ Catalunya đã lần đầu vô địch Cup C1 ở mùa 1991-92, mùa giải mà đội 1 của họ có tới 9 cầu thủ xuất thân từ lò La Masia là Guillermo Amor, Pep Guardiola, Albert Ferrer, Jesus Angoy, Lluis Carreras, Cristobal Parralo, Sanchez Jara, Antonio Pinilla và Carles Busquets, thủ môn dự bị và là cha của Sergio Busquets. Ba người trong số này là Guardiola, Ferrer và “Busquets cha” đã có tên trong danh sách đăng ký cho trận chung kết với Sampdoria, và hai cái tên đầu được đá chính.
Mạch nguồn tiki-taka vẫn tiếp tục chảy ở La Masia và 2 năm sau chiến thắng ở Wembley, Barca lại giành quyền lọt vào trận chung kết mùa 1993-94, mùa giải thứ 2 của kỷ nguyên Champions League. Trong trận gặp AC Milan ngày 18-05-1994 ở Athens, huấn luyện viên Cruyff tiếp tục tung ra đội hình có 4 cựu học viên của lò La Masia là Amor, Guardiola, Ferrer và Sergi Barjuan. Nhưng lần này, họ đã thảm bại 0-4 trước Rossoneri, đội bóng đang là quyền lực số 1 của bóng đá châu Âu khi có lần thứ 4 góp mặt ở trận chung kết trong 6 năm.
Thất bại ấy đã đánh dấu sự thoái trào của đội bóng Dream Team dưới thời Johan Cruyff. Nó cũng khiến dòng chảy ở La Masia tạm thời bị ngắt quãng, và đẩy Barca rơi vào một cuộc khủng hoảng triết lý trong hơn một thập kỷ tiếp theo. Trong giai đoạn tối tăm ấy, đội bóng xứ Catalunya thực ra vẫn có những người hùng mới trên sân cỏ, như Ronaldo, Luis Figo, Patrick Kluivert hay Rivaldo. Tuy nhiên, họ hoặc không gắn bó đủ lâu hoặc không tạo ra hiệu ứng đủ mạnh để vực dậy một đội bóng đang mất phương hướng.
Tất cả chỉ bắt đầu thay đổi vào năm 2003, cùng với sự xuất hiện của vị chủ tịch trẻ tuổi Joan Laporta và một vị huấn luyện viên trẻ tuổi cũng đến từ Hà Lan là Frank Rijkaard. Barca đã mở ra một cuộc cách mạng khi đưa về một loạt cầu thủ xuất sắc như Ronaldinho, Deco, Henrik Larsson, Ludovic Giuly, Samuel Eto’o, Rafael Marquez và Edgar Davids. Đây chính là bộ khung giúp họ mở ra một thời kỳ hoàng kim tiếp theo ở Camp Nou. Nhưng giữa dàn sao ấy, các cầu thủ xuất thân từ lò La Masia vẫn có được chỗ đứng của mình.
Đó là giai đoạn người ta chứng kiến những cái tên nổi bật của các lứa cầu thủ cách nhau 2 tuổi cùng góp mặt ở đội 1 của Barca là Carles Puyol (sinh năm 1978), Xavi Hernandez, Oleguer Presas (1980), Victor Valdes (1982) và Andres Iniesta (1984). Với đội hình pha trộn giữa những ngôi sao nước ngoài và cầu thủ tự đào tạo ấy, Barca đã dễ dàng vượt qua vòng bảng, rồi tiếp tục đánh bại Chelsea, Benfica và Milan trên đường lọt vào trận chung kết Champions League mùa 2005-06 với Arsenal.
Cho đến trận đấu với đội bóng Anh ngày 17-05-2006 ở sân Stade de France, huấn luyện viên Rijkaard đã điền tên tới 7 thành viên cũ của lò La Masia vào danh sách đăng ký thi đấu. Trong đó, ngoài 5 cái tên được nhắc đến ở trên, còn có thêm thủ môn dự bị Albert Jorquera và tiền vệ Thiago Motta. Chung cuộc, Barca thắng Arsenal 2-1 nhờ các pha lập công của Samuel Eto’o và Juliano Belletti. Chức vô địch Champions League năm ấy cũng in dấu ấn đậm nét của Eto’o và Ronaldinho, những người dẫn đầu cả về số bàn thắng lẫn số đường kiến tạo cho đội bóng ở giải đấu. Nhưng lẽ ra, giải đấu này đã có thể là cơ hội bước ra ánh sáng của một cái tên khác. Đó là Lionel Messi, cầu thủ xuất sắc nhất lịch sử trưởng thành từ lò La Masia.
Cầu thủ người Argentina ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với Barca vào đúng sinh nhật thứ 18 của mình (24-06-2005), khi mùa giải 2005-06 chuẩn bị bắt đầu. Bản hợp đồng ấy có thời hạn đến năm 2010 kèm điều khoản phá vỡ trị giá 150 triệu €. Trước nguy cơ đánh mất Leo trước sự ve vãn của Juventus và Inter, những đội đã sớm để mắt tới “viên ngọc quý” của La Masia, Chủ tịch Laporta đã phải vội vã gia hạn với anh chỉ sau đó 3 tháng đến tận năm 2014. Và rõ ràng, đây là một quyết định vô cùng sáng suốt vì ở mùa đầu tiên chính thức lên đội 1, Messi đã nhanh chóng trưởng thành và bắt đầu tỏa sáng dưới sự dìu dắt của những người đàn anh như Ronaldinho và Deco.
Dù chỉ được huấn luyện viên Rijkaard sử dụng khá hạn chế, anh đã ghi được 8 bàn thắng và có 5 đường kiến tạo trong 25 lần ra sân ở mùa 2005-06. Tính riêng tại Champions League, Leo đã có 1 pha lập công cùng 2 đường chuyền thành bàn. Trong đó, trận Barca vùi dập Panathinaikos tới 5-0 ở vòng bảng là một màn trình diễn chói sáng của cầu thủ trẻ người Argentina với 1 bàn thắng và 1 đường chuyền để Eto’o lập công. Chỉ tiếc là một chấn thương rách cơ dính phải trong trận lượt về vòng 1/8 với Chelsea đã khiến anh phải ngồi ngoài trong cả giai đoạn còn lại của mùa giải.
Messi thực tế đã chạy đua với thời gian để kịp có mặt trong trận đấu cuối cùng ở Paris. Nhưng đúng ngày diễn ra trận chung kết, anh bị huấn luyện viên Rijkaard gạch tên khỏi danh sách đăng ký vì chưa đủ điều kiện thể lực. Thời điểm ấy, cậu nhóc người Argentina đã thất vọng tới mức không buồn ăn mừng chiến thắng cùng các đồng đội sau trận đấu với Arsenal. Mãi sau này, nhà báo nổi tiếng Graham Hunter mới tiết lộ trong cuốn sách Barça: The Making of the Greatest Team in the World của mình là Messi từng thừa nhận với ông rằng anh rất hối tiếc vì chuyện đó. Nhưng nếu biết trước tương lai, có lẽ Leo sẽ không phải quá tiếc nuối vì sự vắng mặt trong trận chung kết Champions League mùa 2005-06.
Vì không phải ai khác, anh chính là người mở ra một trang sử chói lọi tiếp theo của Barca ở đấu trường châu lục trong giai đoạn hậu Ronaldinho. Lần này, là với những người bạn cùng thế hệ sinh năm 1987 của mình ở học viện Barca như Gerard Pique, Pedro Rodriguez hay Sergio Busquets. Bắt đầu từ cú El Sextete (ăn 6) trong năm dương lịch 2009, với một ông thầy cũng xuất thân từ lò La Masia là Pep Guardiola.