Dũng Phan
- Joao, tôi đang trên đường rời Benfica. Nếu muốn giữ tôi lại, hãy thảo bản hợp đồng 1 năm.
- Jose, anh điên rồi.
- Tôi chỉ muốn hoặc là 1 năm, hoặc là tôi sẽ ra đi. Nói cho ngài Chủ tịch biết đi.
Đó là cuộc điện thoại ngắn của Jose Mourinho với người đại diện của mình vào một ngày buồn của tháng 12-2000. Nhưng đấy là cuộc điện thoại sẽ dẫn đường ông đi đến CLB Leiria chỉ sau một năm, trước khi đến với CLB định mệnh sẽ làm nên tên tuổi của ông: FC Porto.
Tháng 1-2002, CLB truyền thống nhất Bồ Đào Nha là FC Porto đang ở giai đoạn tồi tệ bậc nhất trong lịch sử tồn tại của họ. Tất cả mọi mặt trận đấu cup đều bị loại sớm, trong khi ở giải vô địch quốc gia thì đứng ở vị trí thứ 5. Đội bóng lúc ấy đã ra một quyết định sau này sẽ có tính bước ngoặt trong biên niên sử CLB. Đấy là sa thải huấn luyện viên Octavio Machado và bổ nhiệm một gã huấn luyện viên mới nổi gần đây có tên là Jose Mourinho từ Leiria. Ngày 23-01-2002, Mourinho ra mắt đội bóng mới, bằng một tuyên ngôn ngạo nghễ dù chưa có thành tích nào trong tay: “Chúng ta sẽ vô địch ngay mùa bóng sau.” Báo Record giật tít: “Mourinho, người được chọn.” Sao chiếu mệnh đã ở bên Mourinho từ ngày đầu.
Porto không phải là không có duyên với Mourinho trước đó, và Mourinho cũng không lạ lẫm gì với Porto. Vào giai đoạn từ năm 1994-1996, khi người thầy đầu tiên của ông là Sir Bobby Robson đến dẫn dắt đội bóng này, Mourinho đã là anh thông dịch viên tại đó. Ở CLB thành phố cảng xinh đẹp này, Mourinho đã học hỏi được nhiều điều từ Robson, và cũng biết được văn hóa lẫn lịch sử của Porto. Tuy nhiên, trong lần trở lại với cương vị huấn luyện viên trưởng này, thân thì giống trạng nguyên về làng, mà hoàn cảnh thì như người cứu trợ. Chính Mourinho đã gọi đấy là “Porto tồi nhất trong 26 năm”. Cũng chính ông sau này đã hồi tưởng lại: “Đấy là một Porto không phải Porto của cái ngày tôi và Robson rời đi. Đấy chỉ là một tập thể yếm thế thất bại. Những gã kiêu ngạo tự cảm thấy thỏa mãn với những gì mình đang có, mà thắng thua hay danh hiệu cũng không còn quan trọng nữa. Porto không thể vô địch ngay trong mùa đầu của tôi, vì đấy không phải là đội của tôi.”
Tuy nhiên, những gì ông làm trong cái năm 2002 ấy với Porto chỉ là cách dọn đường cho suất dự Cup UEFA mùa tới, cũng là điểm khởi đầu cho những chiến tích bất tận sau này của “Người đặc biệt”. Bộ khung được hình thành vào cuối mùa bóng và trong mùa hè. Đấy sẽ là những cái tên làm nên điều kỳ diệu cho đội bóng này, với một hành trình Champions League 2004 không ai ngờ được. Chúng ta xin kể ra đây tập thể Porto ngày đó, bao gồm Victor Baia, Carlos Secretario, Rivardo Carvalho, Andrade (sau này được bán cho Deportivo), Mario Silva, Alenitchev, McCarthy, Capucho, Paredes, Costinha, Candido Costa, Clayto, Deco và Helder Postiga. Cùng với các cầu thủ đến vào mùa hè là Derlei, Maniche, Pedro Emanuel, Paulo Ferreira, Jankauskas, Cesar Peixoto và Nuno Valente.
Ông tạo nên một tập thể đoàn kết, và rất nhiều kỷ niệm. Trong đó có câu chuyện liên quan đến việc hơn 20 người đi chơi cùng nhau, cả “ma cũ” lẫn “ma mới”. Còn ông cùng người trợ lý ngồi trước sảnh khách sạn và tròn mắt ngạc nhìn họ cùng về trước 23 giờ. Thời khắc ấy, ông chỉ thốt lên: “Đấy là ngày khai sinh của đội hình vô địch mà tôi dẫn dắt.” Nguyên tắc của Mourinho trong một tập thể không phải là Real, Barca hay Manchester United, Milan là rất đơn giản, bên cạnh tài năng thì cần tính tập thể. Trên cánh cửa dẫn vào phòng thay quần áo Porto là dòng chữ: “Ở đây không ai được phép vào, ngoại trừ Chúng Ta”. Vâng, cho nên sau này khi Porto vô địch, bạn có thể coi đó là bất ngờ. Nhưng xin phép một sự thật như chính quy luật của cuộc đời này, bất ngờ chỉ được tạo ra từ sự chuẩn bị.
Mourinho và các học trò
Cuối cùng, điều gì đến cũng phải đến, Jose Mourinho cùng đoàn quân chiến thắng ấy đến với trận chung kết UEFA Cup 2003 với Celtic. Celtic là ai? Đấy là nhà vô địch cup C1 năm 1966-67 sau khi đánh bại Inter Milan tại Lisbon. Còn Porto? Vâng, họ là nhà vô địch sau đó tròn 20 năm, mùa giải 1986-87 khi vượt qua Bayern Munich hùng mạnh trên đất Áo. Trận đấu của họ là màn tái ngộ của hai thế lực cũ, những nhà vô địch C1 cũ, gặp nhau ở đấu trường UEFA Cup. Mourinho kể lại, ông “trang bị đến tận răng” cho đội bóng để đi đến trận chung kết có ý nghĩa lớn lao này. Ông đặt mình vào vị trí huấn luyện viên của Celtic để quan sát và nên làm gì tiếp theo. Thậm chí với tính cách cẩn thận đã thành thương hiệu, Mourinho vạch cả ra những kịch bản tồi tệ như thẻ đỏ, mất người, để đội bóng biết cách đối phó. Và ở đó, Mourinho lần đầu cho thấy một khẩu hiệu đã thành thương hiệu của ông sau này trước các trận chung kết. Vâng, đó là câu: “Chung kết là để chiến thắng, không phải để biểu diễn.” Ông dặn dò liên tục các cầu thủ của mình: “Hãy tiết chế cảm xúc, chúng ta đến đây để vô địch, không phải để về tay không.”
Có một chi tiết rất đẹp mà chương sách này muốn kể lại với bạn qua chính lời tự thuật của Mourinho. Đấy là khi ông bước vào sân, nhìn lên khán đài và thấy gia đình mình ở đấy, ông bảo: “Tami và bọn trẻ đang ngồi cạnh vợ con của các cầu thủ. Tôi mượn một ống kính tele từ phóng viên để nhìn thấy họ rõ hơn, và thấy cái mắt đang nheo lại của con mình vì ánh nắng chiếu vào. Tôi thật sự bực mình, đáng lẽ họ phải được ngồi ở vị trí tốt hơn chứ.” Đấy là con người thật của Jose Mourinho, ngoài lạnh trong nóng, và dạt dào tình cảm với gia đình.
Chiến thắng đến với Porto, huấn luyện viên của họ quỵ xuống và khóc. Ông kể lại: “Tôi cố tìm vợ con mình trong một rừng người nhưng làm sao thấy được. Gia đình đã ở cạnh tôi những lúc khó khăn, nhưng vào những phút giây hạnh phúc thế này, lại không thể cùng họ chia sẻ niềm vui.”
Nhưng đấy không phải là điểm tới hạn của Mourinho, bằng chức vô địch Bồ Đào Nha, họ đã đến Champions League mùa giải định mệnh 2003-04. Cầu thủ Bosingwa mà ông đưa về, khi được hỏi về dự báo mùa bóng mới, đã trả lời: “Tại sao không phải là vô địch Champions League nhỉ?” Kết quả, anh bị dè bỉu và chê cười. Nhưng không ai có quyền đánh thuế giấc mơ, và tập thể đó có quyền mơ đến điều phi thường ấy. Tập thể của những cái tên như thủ môn Victor Baia; các hậu vệ Paulo Ferreira, Jorge Costa, Ricardo Carvalho, Nuno Valente, cùng các tiền vệ Costinha, Maniche, Deco và Alenitchev, chưa kể hai tiền đạo cực bén là Derlei và McCarthy. Và sau này, chính Bosingwa sẽ cười lại những kẻ cười anh hôm đó.
Porto bảo vệ chức vô địch Bồ Đào Nha một cách dễ dàng. “Trong điều kiện bình thường, Porto sẽ vô địch. Trong điều kiện bất thường, Porto cũng sẽ vô địch” (Mourinho nói về cuộc đua vô địch vào giữa mùa bóng 2003-04). Còn tại Champions League, Porto rơi vào bảng đấu có Real Madrid, Marseille và Partizan của Serbian. Họ không thể lấy được ngôi đầu bảng của Real, nhưng cũng có được vị trí nhì bảng và vào vòng 1/8 với đối thủ là Manchester United. Hai bàn thắng của McCarthy giúp Porto tạo được lợi thế 2-1 ở lượt đi. Sau trận đấu, Mourinho hài hước nói: “Câu này không hề có ý tấn công Sir Alex (Ferguson) đâu nhé. Sau trận đấu hôm thứ Tư thì ông ấy có vào văn phòng của tôi và chúng tôi uống rượu với nhau. Chẳng may chai rượu quá tệ. Thôi thì lượt về ở Old Trafford, cũng nhân sinh nhật của tôi, tôi sẽ mời ông ấy một chai rượu Bồ Đào Nha.”
Nhưng trận lượt về mới là thử thách cam go. Manchester United chỉ cần thắng 1-0 ở Old Trafford là đủ để vào vòng sau. Và rất nhanh chóng, thầy trò Alex Ferguson làm được điều đó ngay từ phút 32 sau bàn thắng của Paul Scholes. Tuy nhiên, Mourinho cho thấy mình là người không đơn giản. Thay vì hoảng loạn hay vội vã dồn lên tấn công, đội bóng của Mourinho lại rất biết mình biết người trước một Manchester United ở trong thời kỳ hùng mạnh. Thầy trò Jose Mourinho tiếp tục cam mình phòng ngự, Mourinho đẩy cả Maniche và Costinha lùi hẳn xuống, họ hóa giải các đợt tấn công của đối phương, để đợi thời cơ đâm lưỡi kiếm quyết định vào khúc sau trận đấu. Đấy sẽ là thời điểm MU chắc chắn không thể gỡ nổi, và họ thì chỉ cần một trận hòa là đủ để vào vòng sau. Cuối cùng, điều gì đến cũng phải đến, phút 90, Phil Neville phạm lỗi ngoài vòng cấm. Tim Howard xuất sắc đẩy được cú đá phạt McCarthy nhưng không thể đỡ nổi cú đá bồi của Costinha. 1-1 cho Porto, và Jose Mourinho trong chiếc áo choàng đen đã chạy dọc sân Old Trafford để trượt cỏ ăn mừng, biến hình tượng ăn mừng ấy trở thành bất tử, và đưa Mourinho lên hàng sao số khiến cả thế giới phải để ý.
Năm 2004 đó là một năm điên rồ, Deportivo La Coruña khi ấy cũng lọt vào bán kết sau khi để thua Milan 1-4 ở trận lượt đi. Không thể tin nổi nhưng đó là sự thật, khi họ thắng ngược Milan 4-0 ở lượt về. Tuy nhiên, đối thủ của “Super-Depot” khi ấy là một kẻ sinh ra để hủy diệt đối thủ hưng phấn, các CLB tầm trung bằng các tỷ số 1-0. Mourinho đã khoác cho Porto một tấm áo đặc quánh phong cách của mình từ cái thời khắc vượt qua MU: vừa khôn ngoan, vừa đáng sợ, vừa toan tính, vừa lì lợm, chắc chắn. Tin nổi không? FC Porto 2004 đã vô địch bằng cách lập kỷ lục 11 trận bất bại trong lịch sử của Champions League. Từ Deportivo ở bán kết đến Monaco ở chung kết, cách Mourinho đánh bại hai đối thủ này đều có một mẫu số chung, đấy là không cho đối thủ chơi bóng, bóp nghẹt đến từng khoảng trống, và đưa đến một cảm giác nghẹt thở lẫn tẻ nhạt. C. Alberto mở tỷ số, Deco khống chế bóng kỹ thuật nâng tỷ số lên 2-0 và Alenichev đóng chiếc đinh cuối cùng cho trận chung kết.
“Tôi ngước nhìn lên bảng điện tử, phút thứ 80 trận chung kết Champions League, 3-0. Tôi như cảm nhận được tất cả: niềm tin, sự tĩnh lặng, đoạn kết và niềm vui loan tỏa khắp đội bóng. Tôi nhìn sang hai trợ lý của mình là Andre Villas-Boas và Rui Faria rồi nói với họ: ‘Xong rồi bạn ơi, chúng ta đã vô địch châu Âu.’ Trong phút giây ấy, tôi để cho những suy nghĩ chạy ngang dọc trong tâm trí mình: chặng đường mà tôi đã đi qua, thời thơ ấu đầy những giấc mơ, những trở ngại, những cuộc khủng hoảng, những lời chỉ trích, gia đình, niềm tin, những cổ động viên trung thành tuyệt đối, lịch sử, sự bất tử và cả những lời đe dọa tính mạng mà tôi nhận được một ngày trước đó” (Trích những đoạn hồi ức của Mourinho).
Sẽ hoàn toàn thiếu sót nếu nói về Porto 2004 mà không viết về cầu thủ xuất sắc nhất của họ năm ấy, cũng là người giành giải Cầu thủ xuất sắc nhất Champions League 2003-04: Deco. Trong một tập thể coi trọng sự thực dụng và đấu pháp tính toán, Deco thật sự là một cơn gió mát (không ngẫu nhiên khi anh được Barca mua về ngay hè đó). Cầu thủ gốc Brazil vừa tài hoa, vừa nghệ sĩ, nhưng lại rất chăm chỉ trong yêu cầu của Mourinho. Một năm trước, Deco lập cú đúp kiến tạo trong trận chung kết với Celtic, và trong trận tứ kết với Lyon sau khi loại MU, Deco tiếp tục lập cú đúp kiến tạo ở lượt về. Còn lượt đi ư? Anh ghi bàn mở tỷ số, trước khi kiến tạo cho Carvalho ghi bàn thắng thứ hai. Đến bán kết, lại là Deco tạo ra quả penalty duy nhất giúp Porto vào chung kết sau hai trận lượt đi và lượt về ngột ngạt với Deportivo. Trận chung kết, Deco ghi bàn thứ hai, tay dang ra ăn mừng, hôn gió và nụ cười hiền từ. Anh thật sự là một số 10 chuẩn mực của Mourinho, mẫu cầu thủ hộ công mà Mourinho đã luôn đi tìm trong suốt cả sự nghiệp: tài hoa, đơn giản, chăm chỉ. Năm đó, Deco đoạt Quả Bóng Bạc châu Âu, chỉ xếp sau Shevchenko, và đứng trên cả Ronaldinho (người thời điểm ấy đã là đồng đội của anh tại Barca).
Kể từ cái ngày 26-05-2004 trên Gelsenkirchen ấy thì bóng đá châu Âu không còn tìm thấy những bất ngờ nữa. Mourinho bước vào cuộc phiêu lưu trên đất Anh, các cầu thủ Porto cũng rã đám và đi tìm cho mình những miền đất hứa.
“Chúng tôi ôm nhau, hôn nhau và bật khóc. Bé Ze cứ hỏi: Tại sao mọi người lại khóc sau khi đã thắng trận chung kêt? Lẽ ra phải cười thật vui chứ.”
Vài ngày sau, trên một chiếc du thuyền có ba người đàn ông ngồi cạnh nhau, nâng ly rượu và miệng mỉm cười, họ là Chủ tịch Chelsea Roman Abramovich, kiến trúc sư của đội bóng Peter Kenyon, và người còn lại là nhà vô địch châu Âu vừa rồi - Jose Mourinho. Bóng đá châu Âu kể từ sau đó không còn yên tĩnh nữa, bình yên chỉ còn ở lại Porto, nơi trong phòng truyền thống phủ bụi, mãi mãi khắc ghi mùa hè 2004 diệu kỳ.