G
ia đình tôi đã dạy tôi biết rằng sự tha thứ khó thực hiện đến mức nào.
Như tôi đã nói ở phần trước, cha và bác Jim của tôi, ghét cay ghét đắng nhau một cách vô nghĩa trong khoảng mấy mươi năm cuối đời họ. Khi cha tôi mất đi, mối hận thù này vẫn chưa được xóa bỏ. Khoảng 10 năm sau, khi bác tôi mất, mọi ý nghĩ không tốt của ông về cha tôi vẫn nguyên vẹn. Họ chưa từng tha thứ cũng như giảng hòa với nhau. Đó cũng là lý do tôi viết cuốn sách này với hy vọng bạn có thể giúp được cha và bác của mình, hoặc những người mà bạn yêu thương giảng hòa với nhau trước khi họ rời khỏi thế gian. Nó cũng giúp chính bạn học cách tha thứ hay tìm kiếm sự thứ tha từ người khác trước khi cuộc sống của bạn kết thúc.
Tương tự những mối thù hận khác, điều khiến cha và bác tôi không ai chịu nhận mình sai vẫn chưa được làm sáng tỏ. Những gì mà tôi chứng kiến chỉ là lời lẽ khó nghe, sự chỉ trích thậm tệ dành cho nhau. Điều này đã làm đông cứng những cảm xúc nồng ấm trước đây trong họ, họ tự biện bạch và bao che cho chính mình trong khi một khoảng cách không thể rút ngắn đã xuất hiện giữa hai anh em cùng lớn lên trong một gia đình.
Tất cả điều này thật đáng buồn và vô lý. Khi còn bé, cha và bác Jim từng là những thủy thủ cừ khôi nhất con tàu Cape Cod. Họ cùng giương buồm đến Hyannis, Wiano, Osterville và bất cứ nơi nào tổ chức đua thuyền buồm. Sự hợp sức tuyệt vời đó đã đem đến cho họ hàng tá chiến tích. Hai người kết hợp nhuần nhuyễn không ai bằng: cha tôi rất tài tình trong việc xuất phát, cứ như đường đạn khi ra khỏi nòng súng; còn bác Jim rất tuyệt trong việc phán đoán đường đi nước bước của các thuyền khác, nhờ vậy bác có thể nhận được hướng gió tốt nhất.
Nhưng rồi hận thù làm họ trở thành những con chim xa lạ bay trên con đường riêng của mình.
Cha có kể cho tôi nghe. Năm 1936, khi đang học tại Đại học Harvard, ông là một ngôi sao thể thao nổi tiếng về môn khúc côn cầu, đồng thời cũng là chàng trai trẻ năng động. Không lâu sau khi cưới mẹ tôi, ông tham gia chiến tranh và trở thành đội trưởng đội chống phá hoại. Việc chiến đấu trên tàu ngầm đã để lại di chứng thật nặng cho ông. Trở về từ cuộc chiến, ông đã hóa điên và được đưa đến dưỡng trí viện, đúng hơn là nhà thương điên, để chữa trị.
Theo chẩn đoán, cha tôi bị bệnh tâm thần phân liệt, do đó phải điều trị xung điện, đồng thời phải tiêm insulin. Nhiều năm sau, ông cho tôi biết ông rất sợ bị chích insulin vì nó gây ra cảm giác thật khủng khiếp, khiến ông không thể tự chủ được bản thân.
Sau đó, một nhà tâm lý học trẻ đã xem lại chẩn đoán của cha tôi và điều trị theo một phương pháp mới: sử dụng chất Lithium. Phương pháp mới đã tạo nên điều thần kỳ. Cha tôi đỡ bệnh, được xuất viện và dạy học tại một trường công ở Derry, New Hampshire trong 20 năm cuối đời. Tuy nhiên, gia đình tôi đã tan vỡ khi cha tôi mắc bệnh tâm thần, mẹ đã ly dị ông khi tôi mới lên bốn.
Bác Jim hơn cha tôi 4 tuổi, và ông cũng học tại trường Harvard. Ông thấp người - chỉ chừng 1,65 mét – nhưng là tay quyền Anh cừ khôi. Ông cũng rất thông minh. Ông học cả về vật lý lẫn ngôn ngữ La-tinh. Trở ngại duy nhất trong chính bản thân ông là không biết cách hòa mình vào cuộc sống. Khi bác gái tôi về làm vợ ông, bà hy vọng ông sẽ tham gia vào thương trường ở Boston. Nhưng ẩn mình dưới vẻ ngoài của một tay quyền Anh có hạng, bác Jim lại là người nhút nhát. Dù có trí tuệ và sức khỏe hơn người, bác tôi rất thiếu tự tin.
Quay lưng lại với công việc, bác Jim cùng vợ chuyển đến Pepperell, Massachusetts làm nghề nông. Họ có hai người con rất giống tôi, cứ như thể chúng tôi là anh em ruột vậy. Một trong hai người đó là chị Josselyn, mất năm 56 tuổi. Người còn lại là anh Jamie, người anh và cũng là người bạn vô cùng thân thiết của tôi.
Khi cha tôi còn ngoài mặt trận, bác tôi làm việc trên nông trại. Tôi ra đời sau khi chiến tranh kết thúc, và là con út trong số ba người con trai của gia đình. Trước lúc ly dị, bác Jim đã bán nông trại và chuyển đến Chatham, Cape Code. Tại đây, ông mở một tiệm tạp hóa.
Sự thù hận bắt đầu khi bà nội tôi mất. Bà Gammy Hallowell (đó là cách tôi gọi nội mình) luôn xóa bỏ được sự khác biệt giữa các con trai và giữ gìn hòa khí trong gia đình.
Khi bà mất, sự rạn nứt xuất hiện và chẳng bao giờ hàn gắn được, khởi đầu từ sự tranh cãi về việc thừa kế gia sản. Sự xung đột chủ yếu tập trung vào một món đồ. Bà tôi sở hữu một bộ tách trà cổ bằng bạc, và món đồ này đã ở trong gia đình từ nhiều năm nay.
Sau cái chết của bà, đáng lý món đồ ấy phải do chị Josselyn thừa hưởng. Tuy nhiên, cha tôi lại tranh cãi về điều này (tôi nghe kể vậy). Từ đó trở đi, món đồ bằng bạc ấy đã chia cắt tình cảm anh em, cũng như các thành viên khác trong gia đình trong khoảng thời gian từ lúc bà ra đi cho đến cái chết của cha tôi. Chỉ vì một món đồ mà những người từng yêu thương nhau lại trở mặt với nhau.
Điều khiến sự hận thù này tồn tại cũng chính là điều làm nảy sinh các mối bất hòa khác, đó là sự ương ngạnh của mọi người. Nếu trong số họ có người đúng thì tôi chẳng biết người đó là ai. Thậm chí tôi còn không biết chuyện gì đã thật sự xảy ra. Tôi nghe hai sự thuật lại không đáng tin cậy mấy của cha và bác Jim, sau đó lại nghe các “dị bản” khác nữa từ những người bà con. “Mớ hỗn độn” này khiến tôi phải tự đưa ra quyết định của chính mình mà không dám tin vào ai.
Tôi đã không thể. Khi mối hận thù bắt đầu xuất hiện, tôi mới 16 tuổi. Ngay từ đầu, tôi không biết nguyên nhân nhưng tôi rất buồn. Tôi ước chi mọi tranh cãi kết thúc.
Tôi muốn mọi người giảng hòa với nhau, cùng nhau quây quần trong bữa ăn tối của lễ Tạ ơn, một bữa tiệc thịnh soạn, vui vẻ mà tôi từng có khi còn là một đứa bé, trước khi mối hận thù xảy ra.
Nhưng điều tôi mong muốn đã chẳng bao giờ thành hiện thực. Cả năm người cháu chúng tôi đều nỗ lực hàn gắn “hai phe” theo nhiều cách khác nhau. Thế nhưng, mọi cố gắng chỉ khiến cho sự việc càng tệ hại hơn. Chúng tôi bị hoặc cha tôi, hoặc bác tôi kết tội “phản bội” nếu cứ cố gắng hòa giải với đối phương. Cả bọn chúng tôi đều nhận ra: tốt nhất là nên tránh xa khỏi sự xung đột này, ngoại trừ buộc phải chọn một trong hai “phe” và thề rằng sẽ tuyệt đối trung thành.
Cha tôi khẳng định ông hoàn toàn đúng. Bác Jim cũng nói ông đúng hoàn toàn. Bác Jim dựa vào tiền sử bệnh tâm thần của cha để củng cố ý kiến của mình. Cha thì nghĩ bác Jim là một kẻ dối trá, và ông cố đưa ra bằng chứng để ủng hộ điều mình nghĩ.
Cuộc tranh luận ngày càng đơn điệu nhưng làm đau lòng mọi người. Nó hủy hoại các ngày lễ, ngày sinh nhật, ngày gia đình đoàn tụ và niềm vui của các thành viên.
Tôi luôn tự hỏi: Tại sao cha và bác lại không cùng nhau giương buồm ra khơi và giảng hòa? Sao họ lại không tìm kiếm lý do để tha thứ cho nhau?
Nhưng tôi đoán rằng mình còn quá non dại. Chỉ nhìn vào lịch sử của gia đình mình thôi chứ đừng nói chi đến lịch sử thế giới, bạn sẽ thấy rằng số người cùng nhau giương buồm để hòa giải hiếm như thế nào.
Điều đó không đáng buồn sao? Cả gia đình tôi đã bỏ qua những ngày lễ Tạ ơn hạnh phúc, mà đáng lý ra chúng tôi phải có, trước khi họ bắt đầu chết dần chết mòn, tất cả những ngày sinh nhật, những lá thư làm ấm lòng người, tất cả tình yêu thương và sự kính trọng dành cho nhau, chúng tôi đã đánh đổi những thứ đó vì cái gì? Chỉ vì để thấy tôi là đúng, anh là sai. Chúng tôi đã phải đánh đổi tất cả những điều đó để nhận lấy sự hận thù vô nghĩa và ngu ngốc.
Nếu bác Jim gọi cha tôi lại và nói “Hãy nói chuyện rõ ràng với nhau nào” thì có mất mát gì đâu chứ. Hay cha tôi cũng có thể gặp bác Jim và nói: “Thôi bỏ qua đi anh à”. Chuyện đáng làm lại chẳng bao giờ xảy ra, thậm chí, đó còn là ảo tưởng.
Tôi thương cả hai người. Tôi coi bác Jim như cha ruột, và sau vụ ly dị giữa cha và mẹ, tôi sống với ông nhiều hơn là với cha. Nhưng tôi cũng thương cha như thương bác Jim vậy.
Chính vì vậy mà tôi chẳng biết phải bênh ai bỏ ai, cũng rất khó khi phải im lặng, không dám lên tiếng khi thấy người này bị người kia chỉ trích. Tôi cứ tự nghĩ: Sao hai người không chịu thôi đi? Sao chúng ta không bỏ qua hết mấy thứ này đi? Tôi muốn tìm cách để hai con người tuyệt vời này có thể xóa bỏ hiềm khích với nhau. Nhưng tôi không thể.
Không ai là người xấu cả. Cả bác và cha tôi đều là người tốt, rất tốt nữa kìa, những người tôi vô cùng yêu thương. Điều họ không thể tha thứ được cho nhau là một trong những nỗi buồn nhất đời họ, và cũng là nỗi buồn của cả gia đình. Hiềm khích gia đình có lẽ là thứ tai hại nhất và tồn tại lâu nhất trong các hiềm khích của con người, và cũng khó phân loại nhất.
Nếu có những chuyện tương tự như vậy chia rẽ gia đình bạn, hãy nhớ tìm kiếm sự giúp đỡ từ bên ngoài. Các “liệu pháp” giúp hàn gắn gia đình đã tiến triển vượt bậc trong khoảng 25 năm qua. Hầu hết những người làm công tác xã hội đều được huấn luyện để giải quyết cho các trường hợp tương tự, dù lương của họ không được cao lắm.
Cố giải quyết hiềm khích theo cách “nội bộ” chỉ càng làm tăng nguy cơ khiến sự việc tồi tệ hơn, như đã xảy ra với gia đình tôi. Bạn có thể sẽ thành công; nhưng nếu cố gắng và thất bại, đừng bỏ cuộc. Con người rồi sẽ chết đi, hãy cố tạo nên không khí hòa thuận trước khi điều đó xảy ra. Việc tìm ra một “nhà trị liệu” và tập trung tìm kiếm giải pháp sẽ tăng khả năng xóa bỏ hiềm khích trong gia đình, cho dù sự việc có tồi tệ đến đâu.
Tôi ngồi đối diện với Louise, người phụ nữ ở tuổi 52. Cô đang giải bày về tình trạng tiến thoái lưỡng nan của mình:
- Mẹ tôi sắp chết. Tôi không biết bà còn sống được bao lâu nữa. Nhưng tôi ghét bà. Tôi sẽ kể ông nghe lý do đó, dù không phải là mục đích chính để tôi đến đây.
Cô ngừng lại và nhìn xuống tấm thảm. Nó được trang trí với những con thú xếp hình vòng cung. Đó là quà tặng của vợ tôi.
Tôi hỏi:
- Vậy tại sao chị đến đây?
- Đây là lần đầu tiên trong đời, tôi không biết phải làm gì? Mẹ tôi sắp chết, tôi ghét bà và tôi không biết phải làm gì tiếp theo nữa.
- Tại sao chị thấy cần thiết phải làm việc gì đó? - Tôi hỏi.
- Vì nếu bà chết, tôi sợ rằng rồi sẽ cảm thấy khủng khiếp trong suốt phần đời còn lại của mình.
- Tại sao chị cảm thấy khủng khiếp? – Tôi nhớ lại đề tài nghiên cứu về “Triệu chứng câm lặng” của Tom Gutheil, thầy giáo cũ của tôi. Mục đích của liệu pháp này là cứ hỏi những câu hỏi khó trả lời, từ đó giúp bệnh nhân bộc bạch vấn đề bằng cách riêng của họ.
- Đó là một câu hỏi ngờ nghệch. - Louise đáp. - Tôi nghe nói ông là một bác sĩ tâm thần giỏi, vậy mà...
- Tôi xin lỗi, tôi không hề có ý như vậy. Tôi biết tại sao chị cảm thấy khủng khiếp nhưng tôi không muốn thừa nhận điều đó. Chúng ta chỉ mới làm quen nhau thôi...
- Tôi mất trí rồi. Tôi không quen cảm giác này. Tôi chỉ quen với việc kiểm soát mình, biết những gì mình phải làm. Sự thật là tôi không biết trả lời ông sao nữa. Đó là lý do vì sao điều đó làm phiền tôi. Tôi nghĩ rằng mình sẽ thấy khủng khiếp khi mẹ tôi chết và… sẽ chẳng có gì thay đổi. Tôi cảm thấy tội lỗi khi không thể giải quyết hết mâu thuẫn.
Tôi mạo muội nói:
- Hoặc cũng có thể là vì một ngày nào đó, chị sẽ không còn cơ hội giảng hòa mối quan hệ này.
- Không phải chúng đều giống nhau sao?
- Tôi cho rằng như vậy. - Tôi đáp với hy vọng không làm cô ta cáu kỉnh. - Khi bà chết, niềm hy vọng mà chị đã nuôi dưỡng và giấu kín trong nhiều năm qua sẽ chết chung với bà. Nó sẽ thay đổi.
Louise ủ rũ:
- Nó sẽ không bao giờ thay đổi. Bây giờ tôi không có hy vọng đó. Mẹ tôi là người ích kỷ và bảo thủ nhất mà tôi từng biết.
- Và đúng như vậy, chị sẽ cảm thấy khủng khiếp khi bà mất đi.
- Tôi không muốn bà qua đời. Bà là một phần của cuộc đời tôi.
- Vâng, dù sao bà cũng là mẹ của chị. Mọi đứa trẻ đều yêu mẹ chúng, dù cho đó là người mẹ tồi tệ nhất.
Louise cười lặng lẽ với gương mặt đầy nước mắt, ngắt lời tôi:
- Đừng so sánh như vậy. Tôi ghét bà lâu tới mức không thể nhớ được.
- Chị nghĩ chuyện này đơn giản vậy thôi sao? Chị sẽ thấy khủng khiếp khi mẹ chị mất. Chị càng ghét bà bao nhiêu thì càng sợ nói lời từ biệt bà bấy nhiêu. Chị đã quen với sự tồn tại của bà trên cõi đời này. Rồi chị sẽ nhớ bà.
Louise nhìn xuống tấm thảm rồi lấy khăn chậm nước mắt:
- Sự thật thì không phải vậy đâu, như ông đã nói.
Tôi giữ im lặng khi chị suy tư, không muốn làm xao lãng dòng suy nghĩ đó của chị.
Vài phút sau, chị tiếp:
- Tại sao tôi không thể thay đổi bà? Tại sao bà ích kỷ và cố chấp như thế? Tại sao bà đối xử như vậy với tôi? Tại sao tôi không thể chấp nhận sự ra đi của bà?
- Đó là câu hỏi hay. Việc ghét bà đã trói buộc chị với mẹ mình.
- Nhưng tôi không thể không ghét bà. Tôi không có lối thoát.
- Chị có thể tìm ra lý do cho những hành động đáng ghét của bà không? Tôi không có ý tha thứ cho những việc đó nhưng chị có thể hiểu hết những việc đó?
- Không, - Louise nói, - không có lý do gì để bà ta làm như vậy. Bà ta có tất cả: một người chồng tốt, tiền bạc, anh chị em tôi đều là những đứa con ngoan. Không có lý do gì để bà đối xử với chúng tôi như vậy.
- Chị có nghĩ rằng chúng ta có thể tha thứ cho một người làm tổn thương chúng ta mà không hề có lý do gì?
- Đương nhiên rồi. Nhưng mà cũng không thể tha thứ được nếu lỗi lầm đó quá lớn. Hơn nữa, đây lại là những lỗi lầm do chính người mẹ, người đã dạy dỗ chúng ta, gây nên.
- Nhưng Louise này, chị muốn thoát khỏi bà. Bà rồi sẽ chết và chị đâu có muốn trở thành tù nhân tâm lý của bà sau khi bà chết.
- Nếu anh có ý định bảo tôi tha thứ cho bà thì hãy quên đi! - Cô ta ngắt lời.
- Tôi không bảo chị phải tha thứ cho bà. Tôi chỉ nghĩ vậy thôi. Dù sao thì bà chưa bao giờ yêu cầu chị tha thứ, phải không?
Louise làu bàu:
- Có, hơn cả ngàn lần rồi. Nhưng đều là những vở kịch giả dối, trong đó bà đóng vai một bà mẹ chịu đựng nỗi đau với sự vô tâm của con gái. Trong vở kịch đó, bà nói: “Con yêu, hãy tha thứ tất cả những lỗi lầm từ trước đến nay của mẹ nhé” hay “Mẹ biết là mẹ đã làm tổn thương con nhiều, mẹ biết là mẹ đã lầm lỗi, nhưng con ơi, chúng ta có thể bỏ qua hết tất cả và tiếp tục yêu thương nhau không?”. Bà quá khôn ngoan, bà muốn được thoải mái, muốn tự do, muốn thoát khỏi tội lỗi. Bà giả vờ như không hề làm những việc tội lỗi đó. Tôi sẽ không tha thứ cho bà, không để bà ra đi thanh thản. Tôi mong ông sẽ giúp tôi. Những gì bà ta làm đã không cho tôi sống yên ổn trên cõi đời này.
Tôi nghĩ đã đến lúc hỏi những điều chưa tiện hỏi:
- Thế thật sự bà ta đã làm gì với chị? Những điều đó chắc chắn thật là kinh sợ.
- Kinh sợ ư? - Louise dừng lại. Sau khi cân nhắc, cô nở nụ cười mỉa mai. – “Kinh sợ” là cách ông dùng cho một người không có tuổi thơ như tôi đây à. Tôi nghĩ phải dùng từ “tinh vi” hoặc “tính toán” thì chính xác hơn. Trong ba đứa con, tôi là mục tiêu bà nhắm đến nhiều nhất, bà biết tôi biết hết mánh khóe của bà. Bà biết tôi biết những gì bà làm đều có mục đích. Bà có thể đánh lừa người khác rằng tất cả những gì bà làm đều do rượu, do tâm thần suy yếu, do bà không ngủ đủ giấc, do phải chịu quá nhiều áp lực, do cha tôi đã mất... gây ra. Nhưng tôi biết - và bà ta biết tôi biết - tất cả đều là dối trá. Bà giày vò chúng tôi, đặc biệt là tôi, mà chẳng cần lý do gì hết. Có người thích tennis, thích chơi bài và thích hành hạ con mình. Bà chăm sóc lòng thù hận trong tôi, như bà đã chăm sóc những đóa hồng – hồng đen. Hồi học trung học, tôi đã viết cho bà một lá thư. Tôi nói, tình yêu tôi dành cho bà như tình yêu dành cho hoa hồng nhưng là hoa hồng đen, cũng như cách bà đã nuôi nấng tôi.
Sự đau đớn Louise dành cho mẹ mình không phải vì cô xem bà là một người mất trí. Louise là sáng lập viên kiêm chủ tịch của một công ty đầu tư ở ngoại ô Boston. Cô yêu thích công việc của mình và rất thành đạt. Cô có một gia đình hạnh phúc và là người mẹ tốt của hai đứa trẻ, một đang học cao đẳng và một đứa học trung học.
Nhưng mẹ cô sắp chết, và cô không thể tha thứ cho bà. Cô cảm thấy tình trạng này không ổn, nên đến gặp tôi. Nhưng tôi có thể làm gì? Liệu tôi có thể khuyên cô tha thứ không? Hay là kê toa thuốc cho cô? Tôi có thể giúp gì cho cô trước khi mẹ cô ra đi? Và khi nào thì mẹ cô chết?
Giới hạn của một nhà tâm lý trị liệu là phải tiếp thu những kinh nghiệm riêng và cảm xúc của bản thân, cũng như của bệnh nhân. Một thợ sửa đồng hồ không hề lo lắng về đồng hồ của anh khi đang sửa đồng hồ cho người khác, nhưng nhà tâm lý lại cần quan tâm đến trái tim mình khi đang khám cho bệnh nhân. Nếu tôi muốn giúp họ, tôi phải lắng nghe những cảm xúc của trái tim mình khi cảm nhận câu chuyện từ họ.
Mẹ tôi nghiện rượu. Bà ly dị hai lần, và bà không thể chăm sóc cho tôi với tư cách một người mẹ chuẩn mực được. Thường xuyên say xỉn nên bà không bao giờ tham dự các hoạt động ngoại khóa ở trường tôi và hiếm khi chỉ bảo tôi. Nhưng tôi vẫn rất yêu bà và mong mỗi ngày bà đều vui vẻ. Ngoại trừ những căng thẳng do cơn nghiện rượu gây ra, bà là người lạc quan, luôn nhìn vào mặt tích cực của mọi vấn đề.
Tôi đã có lúc ghét bà. Tôi muốn tự lớn lên theo cách của tôi. Bà muốn tôi ở bên bà nhưng tôi đã đẩy bà ra xa. Tôi đi học ngành y và sống cuộc sống của tôi.
Nhưng khi xa bà thì việc tha thứ cho bà không phải là chuyện khó. Tôi thấy bà rất dễ bị tổn thương và là người phụ nữ đáng yêu. Bà kém may mắn trong đường tình duyên và cũng kém may mắn khi thừa hưởng gien nghiện rượu. Tôi nhìn nhận những ưu điểm của bà: một tâm hồn lạc quan, khiếu thẩm mỹ và óc hài hước. Khi không say, nhân cách của bà thật tuyệt. Nếu kiếp sau được tái sinh, bà có lẽ sẽ là một bác sĩ giỏi, một người phụ nữ dễ mến.
Những cảm xúc tiêu cực trong tôi về bà dần dần chuyển thành sự tha thứ, sau đó thay bằng lòng biết ơn và sự khâm phục. Bà cho tôi cuộc sống này, cho tôi hy vọng. Quan trọng nhất là bà giữ vững những mong ước của mình khi phải sống trong khó khăn, thậm chí đối chọi với cả cuộc đời bi thảm của mình.
Vậy tôi có thể lấy kinh nghiệm của mình để giúp Louise. Tôi phải nhắc bản thân mình là mẹ Louise và mẹ tôi hoàn toàn khác nhau cũng như tôi và cô ấy vậy.
Đầu tiên, những gì tôi trải nghiệm đã giúp tôi thông cảm cho Louise. Dù chúng tôi có những trải nghiệm khác nhau nhưng cả hai đều quá non nớt, khó có thể hiểu hết người quan trọng trong cuộc đời mình, người mẹ, bị mất kiểm soát, thất vọng, thậm chí tổn thương như thế nào.
Thứ hai, sự trải nghiệm của tôi đã giúp tôi không phê bình cả Louise lẫn mẹ cô. Tôi không so sánh giữa hành vi chuẩn mực và hành vi sai lầm mà cho rằng đó là những điều gắn bó mật thiết với cuộc sống.
Công việc của tôi không phải là “kê đơn” giúp cô ấy tìm thấy sự tha thứ mà phải giúp Louise hiểu và cảm nhận những cảm xúc của cô ta. Chúng tôi phải biết những cảm xúc đó ảnh hưởng như thế nào?
Chúng tôi đã mất một thời gian khá dài cho quá trình tâm lý trị liệu. Mẹ cô mất vài tháng sau cuộc gặp đầu tiên của chúng tôi. Tôi đã thuyết phục Louise nói chuyện với mẹ trước khi bà mất. Vào thời điểm đó, tôi tin rằng sẽ thật đáng tiếc nếu tôi không thể thuyết phục Louise hành động như vậy, mặc cho cô ấy kết luận trong giận dữ: “Hành động đó thật vô ích và đau đớn”.
Nhưng vài tháng sau, Louise đã thay đổi ý nghĩ của mình. Cô vui vì đã có những khoảnh khắc (dẫu là đau khổ) với mẹ trước khi bà chết. “Chẳng thể nói mẹ tôi sẽ thay đổi nhưng tôi đã có thể cảm thấy thanh bình đôi chút vì tôi đã cố gắng hết sức. Nếu không cố gắng, tôi sẽ không thanh thản như vậy. Đó là điều chính đáng mà tôi đã làm”.
Louise không hoàn toàn tha thứ cho mẹ. Cơn giận vẫn còn đó nhưng nó không dữ dội và cũng không ảnh hưởng nhiều đến cô như xưa.
Trong những buổi gặp cuối cùng, Louise nói: “Khi đến gặp ông, tôi chắc rằng sẽ lãng phí thời gian. Nhưng tôi vẫn đến. Việc tôi tới gặp ông đã chống lại tính kiêu ngạo và bướng bỉnh của tôi, y như mẹ tôi vậy. Một trong chúng tôi phải là người nhượng bộ và tôi vui vì chấp nhận là người đó”.
Những nỗ lực thường có kết quả tốt. Chúng xảy ra bất chấp ý thức của ta, chúng chống lại sự kiêu ngạo, ương bướng của ta, và kết quả đều khiến những người trong cuộc ngạc nhiên. Louise thuật lại: “Mẹ tôi nói bà ngạc nhiên khi thấy tôi đến thăm bà. Bà rất hài lòng. Bà cũng nói một vài điều khác như trách móc tôi. Nhưng điều đó không sao. Tôi có thể bỏ qua vì tôi biết bà vui mừng vô cùng. Bà không thể nói những điều đó, nhưng tôi cảm nhận được”.
Có những điều vẫn thường xảy ra: Một người giả vờ hòa nhã trong khi người kia bày tỏ tất cả những cảm xúc trong lòng. Nhưng người giả vờ sẽ phải khóc thầm trong niềm vui, ước rằng người kia có thể lấy can đảm để cùng chia sẻ với nhau.
- Chị đã làm hết sức mình. - Tôi nói với Louise.
- Tôi luôn luôn làm như vậy với bà. Tại sao kết quả vẫn không như mong đợi?
- Vâng, chỉ có điều mẹ chị khó nói ra điều đó.
- Như vậy không đủ an ủi lòng tôi. - Louise nói.
- Tôi biết, tôi biết. – Tôi chỉ có thể đáp như vậy. Nhưng tôi cũng biết rằng Louise bây giờ tốt hơn trước nhiều.