J
ohann Sebastian chào đời ngày 21 tháng 3 năm 1685 tại Eisenach, Thuringia nước Đức, là con út của ông Johann Ambrosius Bach và bà Elizabeth Laemmerhirt. Năm 1695 cha mẹ ông qua đời, Bach sống với người anh cả tên là Johann Christoph Bach, một nhạc sĩ chơi đàn organ tại Ordruf.
Bach bắt đầu tới trường năm 1692, học các bài nhạc đầu tiên với người anh cả, học cách sử dụng đàn clavichord, hapsichord và đàn vĩ cầm (violin).
Năm 1700 nhờ giọng ca hay, Bach được chọn vào ban hợp ca gồm các học sinh nghèo tại nhà thờ Michaels ở Luneburg. Khi bị vỡ tiếng, Bach tiếp tục sống tại Luneburg trong một thời gian, thường vào đọc sách tại thư viện của nhà trường, đây là nơi có bộ sưu tập âm nhạc tôn giáo rất đầy đủ và hiện đại. Có lẽ vào thời gian này Bach cũng được nghe Georg Boehm biểu diễn, ông này là nhạc sĩ đàn organ của nhà thờ Johannis. Bach cũng thăm viếng Hamburg để tham dự các buổi trình diễn của nhà soạn nhạc và nhạc sĩ đàn organ danh tiếng Johann Adam Reinken tại nhà thờ Katharinen, nghe ban nhạc của bá tước người Pháp Von Celle hòa tấu.
Cuối mùa hè năm 1702 Bach trở về Thuringia. Nhờ các kinh nghiệm tại Luneburg, Bach trở thành một nhạc sĩ đàn keyboard có hạng, thường hay biểu diễn nhạc tôn giáo. Ngoài ra, ông còn là nhạc sĩ giúp vui cho giai cấp quý tộc.
Năm 1703, Bach là một nhạc sĩ trong ban nhạc hòa tấu của Johann Ernst, bá tước miền Weimar. Từ năm 1703 tới năm 1707, Bach được chính thức bổ nhiệm làm nhạc sĩ sử dụng cây đàn organ mới của nhà thờ Arnstadt thuộc miền Bắc xứ Thuringia.
Năm 1707, Bach kết hôn với cô em họ Maria Barbara, họ có 7 người con nhưng Barbara qua đời năm 1720. Trong số những người con này, 4 người là nhạc sĩ sáng tác danh tiếng.
Năm 1708, Bach làm việc ở triều đình SaxeWeimar trong 9 năm với chức vụ nhạc sĩ đàn organ và nhạc sĩ thính phòng. Nhiệm vụ của Bach là sáng tác nhiều hợp khúc tôn giáo cantatas. Chính trong thời gian này đã xuất hiện các bản nhạc xuất sắc dùng cho đàn organ.
Từ năm 1717 tới năm 1723, Bach phục vụ Hoàng tử Leopold của xứ Anhalt-Cothen với chức vụ giám đốc âm nhạc. Các công việc tại triều đình này rất đơn giản, không đòi hỏi nhiều nhạc tôn giáo nên Bach có thể dành thời giờ sáng tác các bản nhạc thế tục dùng cho vài loại đàn phổ thông.
Năm 1721, Bach kết hôn với Anna Magdalena Wilcken, một ca sĩ chuyên nghiệp. Họ có thêm 13 người con. Năm 1723, Bach dọn nhà về Leipzig và sống tại đây tới cuối đời. Ông là giám đốc trường nhạc St. Thomas, nơi đào tạo nhạc sinh cho các nhà thờ của thành phố. Từ năm 1740, Bach bị bệnh mắt nên gần như bị lòa. Ông qua đời ngày 28 tháng 1 năm 1750 do xuất huyết não.
Bach là một nhạc sĩ đàn organ xuất sắc, một bậc thầy về sáng tác âm nhạc, một người đứng đầu về bộ môn đối điểm của thời kỳ đó và cũng là một nhà giáo dục âm nhạc có tài. Bach còn là một tín đồ đạo Tin lành, có các cảm xúc tôn giáo biểu hiện qua các sáng tác âm nhạc.
Giống như nhiều nhạc sĩ thời Baroque, niềm tin và việc làm của Bach đều mang tính cách tôn giáo bởi những người này cho rằng tôn giáo che chở cho con người tránh khỏi các tư tưởng khoa học, duy lý của thời Phục Hưng. Cũng vì Bach thường nghĩ tài năng của mình là do Thượng đế ban cho nên ông ký tắt trên các sáng tác, ngay cả trên các bản nhạc thế tục, 3 chữ INJ có nghĩa là “sáng danh Chúa Jesus” (In the Name of Jesus).
Đương thời, người ta thường ngợi khen Bach là một nhạc công đàn organ kỳ tài mà quên đi các sáng tác âm nhạc của Bach, những công trình này gồm 60 tập (volumes) nhưng chỉ có 9 hay 10 tập được xuất bản trong thời gian Bach còn sống bởi vào thời đại này, người ta cho rằng các bản nhạc của Bach quá phức tạp, họ ưa thích loại nhạc đơn giản, sống động hơn. Tài năng sáng tác của Bach chỉ được xác nhận năm 1829 khi nhạc sĩ người Đức Felix Mendelssohn khám phá ra bản nhạc “Nỗi khổ cực của Thánh Matthew”.
Bach không quan tâm tới việc soạn ra lý thuyết âm nhạc cũng không thí nghiệm các thể loại mới mà chỉ dùng các hình thức âm nhạc đương thời, ngoại trừ thể nhạc kịch (opera) nhưng tài năng của ông đã bao gồm một tầm rộng lớn, từ các đối điểm phức tạp nhất tới các hợp âm đơn giản. Bach cố gắng diễn tả cảm xúc của bản nhạc, cho rằng mục đích của âm nhạc là tạo nên một thứ ảnh hưởng. Thứ ảnh hưởng này thường được xác nhận ngay tại phần đầu của bản nhạc rồi tới phần thân bản nhạc trình bày các chi tiết. Đây là sự khác biệt với các bản giao hưởng của Beethoven trong đó bộc lộ rõ sự tương phản về phong cách nhạc và cảm xúc. Bach đã dùng một loại tốc ký âm nhạc tại các hợp âm có bè trầm được chỉ định bằng các con số. Phương pháp này sau được gọi là bè trầm ghi số.
Trong các sáng tác, Bach duy trì phong thái âm nhạc nhằm diễn tả đặc tính của bản nhạc. Ông thường trình bày lại một giai điệu bằng cách lặp lại giai điệu gốc với một giọng cao hơn hay trầm hơn, nhưng vẫn dùng một nhịp không đổi. Các tác phẩm của Bach được chia theo 5 giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất gồm các sáng tác viết tại Arntadt và Mulhausen. Những tác phẩm này chưa theo một đường hướng nhất định mà chịu ảnh hưởng của nhà soạn nhạc Dietrich Buxtehude, một nhạc sĩ bậc thầy tại Lubeck. Hợp khúc cantata mang tên Gottes Zeit, với chủ đích trình diễn tại các buổi lễ an táng.
Giai đoạn thứ hai gồm các sáng tác viết tại Weimar với nhiều hợp khúc cantata và các bản nhạc rực rỡ dùng cho đàn organ, đa số mang phong cách Bắc Âu. Bản nhạc danh tiếng “Toccata và tẩu khúc rê thứ" được viết trong thời gian này.
Giai đoạn thứ ba gồm các sáng tác viết tại Anhalt- Cothen, đây là những bản nhạc dùng cho nhạc cụ, trình diễn độc tấu hay hòa tấu. Bach đã hoàn thành năm 1722 tập I. Tác phẩm bàn phím dùng thang âm đều theo đó một quãng tám được chia thành 12 bán âm cách đều nhau. Tập II viết xong năm 1744, mỗi tập gồm 24 bản dạo khúc (preludes) và tẩu khúc (fugues) viết theo 12 âm giai trưởng và thứ. Bach còn phổ vào trong các sáng tác những bài thánh ca Lutheran, tập trung trong cuốn “Sách nhỏ đàn Organ”. Sáu Concerto Brandenburg viết năm 1721 được Bach đề tặng cho nhà cai trị của thành phố Brandenburg. Bach cũng viết 4 tổ khúc hợp tấu hay khai khúc, 6 sonatas dùng cho đàn vĩ cầm độc tấu và 6 tổ khúc dùng cho đàn hồ cầm độc tấu. Ngoài ra còn có các “Tẩu khúc pháp dùng cho đàn hapsichord. Cách viết nhạc trong giai đoạn này cho thấy tác giả đang tăng dần việc dùng đối điểm để thêm phần chất lượng và cấu trúc cho tác phẩm.
Giai đoạn thứ tư gồm các sáng tác viết tại thành phố Leipzig. Đây là các tác phẩm chính dành cho ban hợp ca và dàn nhạc hòa tấu gồm các bộ bản nhạc độc tấu. Các hợp khúc cantata của Bach thời gian này mang tính quy củ hơn các sáng tác trước kia.
Giai đoạn thứ năm là giai đoạn cuối đời của Bach. Các sáng tác trong giai đoạn này thường dùng một giai điệu nhưng trình bày rõ ràng như “Nghệ thuật của Tẩu khúc”, “Các biến khúc Canonic viết cho bài đồng ca Von Himmel hoch” , “Dâng cúng âm nhạc”.
Trong số các nhạc sĩ vĩ đại của thế giới, J.S.Bach là người viết nhiều thể loại âm nhạc nhất, trong đó, các thể loại âm nhạc liên quan đến nghệ thuật thanh nhạc như thanh xướng kịch (oratorio), messa, đại hợp xướng (cantata)...
Nhắc tới J.S.Bach, không thể bỏ qua bộ “Bình quân luật” viết cho đàn clavecin (một loại đàn piano cổ) của ông. Tác phẩm này gồm 2 tập với 48 prelude và fugue (mỗi tập có 24 prelude và fugue). Có thể nói, đây là một công trình “khoa học” của Bach, trong đó, ông đã hệ thống lại một cách hợp lý theo hệ thống thứ tự các dấu hóa thăng - giáng, kết hợp những thành tựu âm nhạc của quá khứ và hiện tại, nhạc thế tục và giáo hội, từ nhạc dân gian đến nhạc chuyên nghiệp... Với Bach, âm nhạc phức điệu đã được hoàn chỉnh mà đỉnh cao là những bản fugue. Những vẻ đẹp huyền bí trong âm nhạc của Bach đã tạo cảm hứng cho nhà soạn nhạc người Pháp Ch.Gounod, người đã viết thêm phần giai điệu và đặt lời trên nền nhạc nguyên bản tác phẩm prelude cung C-dur của Bach trong “Bình quân luật cho piano” tập I với tên gọi “Ave Maria”.
Một trong những biểu hiện hoàn hảo và trọn vẹn nhất về âm nhạc viết cho dàn nhạc của Bach là “Những bản concerto Brandebourg”, những liên khúc Partita, những tác phẩm hòa tấu thính phòng... chúng không chỉ có giá trị như một di tích nghệ thuật trong nền khí nhạc thế kỷ XVIII mà còn có giá trị đặc biệt về mặt lịch sử: đó là tính chất kịch tính rõ ràng, sự cải biên trong tác phẩm và nâng cao kỹ thuật diễn tấu cho dàn nhạc giao hưởng, mở ra con đường mới cho phong cách “Giao hưởng cổ điển”.
Đối với các tác phẩm viết cho khí nhạc của J.S.Bach, toccata được viết theo lối phóng tác tự do, nhịp độ nhanh, thường nặng về phần luyện ngón và phô trương kỹ thuật. Có thể nhận thấy “nét đặc trưng riêng” của thể loại này qua tác phẩm “Toccata & Fugue” cung Ré thứ của Bach. Âm nhạc của Bach có nội dung chuyên chở các ảnh hưởng tới người nghe, giống như nhà hùng biện muốn làm thay đổi ý định, thành kiến của các thính giả. Nhà tiểu sử học đầu tiên viết về Bach năm 1802 - ông J.N. Forkel đã khen ngợi Bach không chỉ là một nhạc sĩ sáng tác có tài, mà còn là “một nhà thơ âm thanh và một nhà hùng biện âm nhạc vào bậc nhất, xưa nay chưa từng có.
Dù viết ở bất cứ thể loại nào, cho bất cứ giọng hát hay nhạc cụ nào, âm nhạc của Bach đều mang âm hưởng của cây đàn organ lớn, giống như âm nhạc của Beethoven luôn có âm hưởng của dàn nhạc giao hưởng, nhạc của Chopin lại có âm hưởng của cây đàn piano. Tuy nhiên, âm nhạc của Bach đến thế kỷ XX được tiếp nhận không đơn thuần chỉ là một tác phẩm cổ điển... ở đây, âm nhạc của Bach được chơi với một phong cách tự do, phóng khoáng, thậm chí còn chơi theo phong cách nhạc jazz...
Có thể nói, nhạc của Bach đã tạo nên bước ngoặt quan trọng của lịch sử âm nhạc phương Tây, đánh dấu sự phát triển đỉnh cao của thời kì âm nhạc Baroque và mang trong mình những mầm mống đầu tiên của một thời kì mới đầy sức sống và hơi thở của thời đại, thời kì Cổ điển và Lãng mạn sau này. Những tác phẩm của Bach thừa hưởng những nét đẹp của những nền âm nhạc lớn, những mạch nguồn của âm nhạc cổ điển như âm nhạc Đức, âm nhạc Pháp, âm nhạc Ý và âm nhạc Hà Lan. Sự kết hợp những phong cách âm nhạc khác nhau trong một cách tư duy khúc chiết và logic rất đặc trưng của Bach đã tạo nên cái phong phú, sâu sắc và bao quát của âm nhạc Bach. Song trên tất cả, chính cuộc sống luôn vận động, chính cá tính mạnh mẽ và nghị lực đã làm cho âm nhạc Bach bước ra khỏi mái vòm của nhà thờ để đến với những giá trị nhân văn bất diệt, không lu mờ trước những chuyển động bất tận của xã hội, thời đại và con người.