B
utlerop mất mẹ khi chưa tròn 11 ngày tuổi. Butlerop lớn lên trong sự chăm sóc và nuôi dưỡng của người cha. Ông đã dồn hết tình yêu thương cho cậu. Họ sống với nhau như hai người bạn. Đối với cậu, người cha là mẫu người lí tưởng. Cha cậu là một đại tá đã từng theo chân đoàn quân thất trận của Napoleon từ Matxcơva đến Paris, lúc về hưu vẫn giữ được lòng mê say với đời lính bôn ba mạo hiểm. Ông sống rất mẫu mực, chăm chỉ và vững vàng như một cây đại thụ.
Mùa hè, Butlerop cùng cha đi dạo trong rừng. Cha dạy cho cậu biết nhìn và biết kiếm tìm niềm vui và cái đẹp trong thiên nhiên hùng vĩ. Vì thế Butlerop rất thích những cuộc đi săn, những đám lửa trại và đồng quê bình lặng.
Lớn lên, Butlerop được cha cho đi nhiều nơi. Cậu đã được thấy cảnh tráng lệ của nước Ý, vẻ bí hiểm của châu Phi và những đỉnh núi Thuỵ Sĩ quanh năm tuyết phủ. Cậu nặng lòng yêu mến Paris. Nhưng đối với cậu, nơi thân thương nhất trên thế giới vẫn là trang trại Butleropka của cha. Nơi đây, cậu đã sống qua thời thơ ấu, nơi đã diễn ra những ngày tháng đẹp đẽ nhất của tuổi thiếu niên. Không ở đâu Butlerop cảm thấy dễ chịu bằng cái trang trại thuộc ngoại vi thành phố Tsixtopon xa xôi này.
Ngay từ thuở thiếu thời, cậu đã rất thích môn hóa học và say mê các thí nghiệm. Chuyện kể rằng, vào một ngày nọ, một tiếng nổ long trời vang lên. Thầy Rô lăng vội vã lao xuống tầng hầm, lát sau ông lôi ra một chú bé, mặt mày tái nhợt, đầu tóc rối bù. Cậu bé đó là Xasa Butlerop, một học sinh rất say mê môn hóa, lợi dụng lúc vắng người coi sóc, đã bí mật biến phòng học thành phòng thí nghiệm riêng. Vì hành động tinh nghịch đó, thầy Rô lăng đã phạt giam cậu và theo quyết định sáng suốt của hội đồng nhà trường, cậu đã bị dẫn đi diễu qua nhà ăn trước ngực đeo một tấm bảng ghi hàng chữ lớn: “Nhà hóa học vĩ đại”.
Tất nhiên khi nghĩ ra dòng chữ chế nhạo này, các thầy giáo của Butlerop đâu có ngờ nó đã trở thành lời tiên đoán và cậu bé bị buộc tội là vi phạm nội quy của nhà trường sẽ trở thành nhà hóa học vĩ đại.
Sau lần bị phạt đó, Butlerop vẫn thích một mình ở nơi vắng vẻ và tiến hành những thí nghiệm. Butlerop không chỉ đơn thuần ham thích những sự biến đổi và ngắm nhìn tất cả những gì xảy ra trong bình và ống nghiệm mà còn cố tìm hiểu xem tại sao hỗn hợp các chất này lại thu được một chất hoàn toàn khác, với những tính chất mới khác hẳn chất ban đầu.
Một lần, Butlerop hòa tan đồng sunfat trong nước, bỏ vào đó chiếc đinh sáng loáng và quan sát chăm chú chiếc đinh được phủ một lớp đồng đỏ như thế nào. Cậu biết trộn lẫn xampết, lưu huỳnh và than theo một tỷ lệ thích hợp để thu được thuốc nổ. Có lúc cậu chưng cất chất này, làm bốc hơi chất nọ, yên lặng hàng giờ ngắm nghía những bình thủy tinh trong suốt có hình thù kì dị và dung dịch đủ màu.
Mùa hè năm thứ hai ở Trường Đại học Tổng hợp Kadan, Butlerop cùng bạn bè đi thám hiểm, săn bắt côn trùng ven biển vùng Caxpi. Bất thình lình Butlerop ốm nặng. Bạn bè biết anh bị bệnh thương hàn, vội vàng đưa về Ximbiêc cứu chữa. Biết tin, cha anh vội cấp tốc tới đó. Ông không phút nào rời khỏi giường bệnh của Butlerop. Butlerop đã qua cơn nguy kịch nhưng cha anh cảm nhận một cách mơ hồ hình như chứng bệnh thương hàn không kiêng nể ông. Ông vội vã đáp tàu về Butleropka. Butlerop không ngờ đây lại là lần gặp gỡ cuối cùng của hai cha con. Ít lâu sau, anh được tin cha anh đã chết vì lây bệnh.
Butlerop vô cùng đau đớn. Anh đã trải qua cuộc khủng hoảng thực sự. Trước đó, Butlerop nổi tiếng là người khoẻ mạnh, yêu đời. Có chuyện kể một lần đến thăm bạn, thấy bạn vắng nhà, Butlerop đã lấy thanh sắt cời than uốn cong thành hình chữ “B” treo lên cửa thay cho tấm danh thiếp. Thế mà lúc này, trong một thời gian ngắn, anh trở nên xanh xao, ủ rũ. Giờ đây, Butleropka chỉ còn trơ lại mỗi căn nhà vắng vẻ.
Sau một thời gian, Butlerop dần dần bình tĩnh trở lại và chăm chỉ nghiên cứu khoa học. Trường Đại học Kadan, nơi Butlerop theo học có giáo sư Zinin, ông được tất cả các sinh viên yêu mến vì đã truyền cho họ nhiệt tình khoa học và tinh thần tận tuỵ đối với công việc. Butlerop được dự các bài giảng đầy xúc động của ông. Trong hàng chục học trò, Zinin đã phát hiện ra Butlerop, đã dạy anh cách nắm bắt và đi sâu vào bản chất các hiện tượng. Cũng có thể vì vậy mà luận án đầu tiên của anh khiến mọi người sửng sốt. Nhà hoá học tương lai chọn đề tài xung quanh “Loài bướm ngày thuộc khu hệ động vật Vonga – Uran”. Trong công trình này, Butlerop đã lập bộ sưu tập và đi sâu nghiên cứu 1133 loài bướm. Hội đồng bác học đã nhất trí trao tặng tác giả học vị phó tiến sĩ và quyết định xuất bản công trình này năm 1849.
Thật ra luận án này là kết quả của sự đam mê từ bé của Butlerop và đây cũng là món quà anh kỉ niệm người cha thân yêu của mình. Sau này, khoảng năm 1850, Butlerop vẫn tiếp tục trao đổi thư từ với các nhà côn trùng học trong và ngoài nước nhằm soạn thảo cuốn danh mục bươm bướm khu vực châu Âu thuộc Nga, thậm chí anh còn dự định xây dựng danh mục bươm bướm châu Âu và giúp các nhà côn trùng học mô tả những chú bướm ngày sặc sỡ. Nhờ những đóng góp này, Butlerop được Hội Côn trùng học tỉnh Stettin nước Đức kết nạp làm hội viên.
Niềm say mê côn trùng học đã giúp trau dồi ở Butlerop những phẩm chất cần thiết của một nhà nghiên cứu, đó là đảm bảo tính hệ thống nghiêm ngặt trong công việc, óc quan sát và chú ý tới những điều tưởng chừng như vụn vặt…
Butlerop bảo vệ luận án năm 21 tuổi. Lúc này trường đại học thiếu một chân phó giáo sư, người thầy cũ của Butlerop là Clauxo đề nghị người học trò yêu của mình giữ chức vụ ấy. Trong quyết định của khoa có ghi: “Về phía mình, khoa hoàn toàn tin tưởng rằng, Butlerop, với tài năng và sự say mê đối với khoa học, chắc chắn sẽ đem lại vinh dự cho trường và sẽ nổi danh trong giới khoa học. Do sự tín nhiệm này, khoa nhận thấy có trách nhiệm thỉnh cầu ông Butlerop về trường đại học dưới bất cứ danh nghĩa nào”. Và thế là Butlerop bước vào con đường độc lập của mình trong khoa học. Năm 26 tuổi, Butlerop đã trở thành giáo sư trường đại học Cadan.
Butlerop hiểu rằng muốn đi xa phải nghiên cứu kỹ kinh nghiệm của những người đi trước. Ông say mê tất cả những gì đã có trong lịch sử hoá học hữu cơ. Và vì khoa học ông đã dâng trọn cả cuộc đời mình. Đi sâu nghiên cứu lịch sử hóa học, Butlerop tìm thấy đề tài cho luận án thứ hai của mình “Bàn về sự oxy hoá các hợp chất hữu cơ”. Và đây cũng là cống hiến lớn của ông cho khoa hóa học. Trong luận án này, Butlerop đã vạch ra con đường nghiên cứu tiếp tục cho mình và dự báo trước thắng lợi huy hoàng của hoá học hữu cơ. Với trí tuệ sắc nhạy và tài tiên đoán hiếm có, hai mươi năm trước khi Mendeleep công bố hệ thống tuần hoàn các nguyên tố hoá học, Butlerop đã viết trong bản luận án của mình: “Cuối cùng sẽ có lúc người ta chẳng những phải nghiên cứu về mặt định tính mà cả về mặt định lượng các sản phẩm của sự biến đổi hữu cơ để dần dần tìm ra và xác định các định luật thực sự của chúng và của những vật thể chiếm vị trí tự nhiên của mình trong hệ thống hoá học. Lúc ấy nhà hoá học, căn cứ vào một số tính chất đã biết của một số vật thể nhất định, hiểu rõ điều kiện chung của các biến đổi đã biết, có thể dự đoán trước không lầm lẫn hiện tượng của các sản phẩm và xác định trước được chẳng những thành phần mà cả tính chất chung của chúng. Thời điểm ấy có thể và sẽ đến với khoa học của chúng ta, tuy đòi hỏi chúng ta phải bỏ ra rất nhiều công sức, cùng một chân trời rộng lớn đang mở ra cho những trí tuệ ham tìm kiếm”.
Thời gian này, Butlerop trở thành giáo viên giảng dạy cho các sinh viên xấp xỉ tuổi anh. Năm 25 tuổi, Butlerop viết luận án thứ hai, luận án tiến sĩ hoá học và vật lí “Bàn về tinh dầu”. Tháng 1 năm 1858, ông tham dự hội nghị của Hội Hoá học Paris và đọc bản báo cáo về cấu tạo phân tử của một số chất hữu cơ. Ông chỉ ra rằng các hợp chất hữu cơ hình thành xuất phát từ khả năng hoá trị của chúng. Đó là quy luật tự nhiên.
Tháng 9 năm 1861, Butlerop đọc bản báo cáo ở Đức “Đôi điều về cấu tạo hoá học của các chất”. Bản báo cáo này mới nghe tưởng chẳng có gì đặc sắc nhưng lại hàm chứa cả một cuộc cách mạng hoá học. Butlerop trong công trình của mình đã đưa ra những luận điểm đầu tiên về thuyết cấu tạo hoá học các hợp chất hữu cơ. Nghiên cứu của ông đã vạch ra những con đường chủ yếu của sự phát triển hoá học hữu cơ ở thế kỷ XIX, XX. Butlerop đã đưa vào khoa học những khái niệm về cấu tạo hoá học của phân tử, trình tự sắp xếp nhất định các liên kết giữa các nguyên tử trong phân tử. Nhiều công trình nghiên cứu được tiến hành dưới sự hướng dẫn của Butlerop đã khẳng định sự đúng đắn về lý thuyết của ông. Điều này thể hiện rõ rệt nhất khi giải thích hiện tượng đồng phân: sở dĩ các hợp chất hữu cơ cùng một thành phần có các tính chất khác nhau vì do cấu tạo hoá học khác nhau. Thuyết cấu tạo hóa học do Butlerop đề xuất năm 1861 đã giải thích và tiên đoán được nhiều hiện tượng trong hóa học hữu cơ. Nội dung của thuyết này là:
1- Trong phân tử hợp chất hữu cơ, các nguyên tử liên kết với nhau theo một trật tự xác định và theo đúng hóa trị. Thứ tự kết hợp đó gọi là cấu tạo hóa học. Sự thay đổi thứ tự kết hợp của các nguyên tử trong phân tử (tức thay đổi cấu tạo hóa học) sẽ tạo ra phân tử hợp chất khác.
2 - Trong phân tử hợp chất hữu cơ, cacbon luôn có hóa trị 4. Các nguyên tử cacbon không những có thể liên kết với các nguyên tử nguyên tố khác mà còn có thể liên kết với nhau tạo thành những mạch cacbon khác nhau (mạch không nhánh, mạch có nhánh, mạch vòng,...).
3 - Tính chất của hợp chất hữu cơ phụ thuộc vào thành phần phân tử (bản chất, số lượng nguyên tử) và cấu tạo hóa học (thứ tự liên kết các nguyên tử). Các nguyên tử trong phân tử có ảnh hưởng qua lại lẫn nhau.
Thuyết cấu tạo hóa học của Butlerop cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa cấu tạo và tính chất của hợp chất hữu cơ, làm sáng tỏ hiện tượng đồng đẳng, đồng phân và biểu diễn chúng bằng công thức cấu tạo. Trên cơ sở của thuyết này, người ta tiên đoán và điều chế được rất nhiều hợp chất hữu cơ mới.
Năm 1864, Butlerop thông báo: trong năm trước, ông đã điều chế được rượu butylic bậc ba đầu tiên là trimetylcacbinol. Sau này, năm 1865, ông đã tổng hợp được những đồng đẳng của rượu này do ông tiên đoán trước trên cơ sở các luận điểm lý thuyết.
Tiếp tục phát triển các quan điểm về đồng phân, Butlerop đã tiên đoán sự tồn tại hiện tượng đồng phân đối với các hidrocacbon no là butan và pentan. Hai năm sau, ông đã điều chế được trong phòng thí nghiệm isobutan, một hidrocacbon no đầu tiên có mạch nhánh và tiếp đó, cả hidrocacbon đồng phân chưa no đầu tiên là isobutylen được đoán trước trên cơ sở lý thuyết cấu tạo hoá học.
Năm 1867, bằng cách tác dụng axit sunfuric lên rượu butylic bậc ba do chính ông tổng hợp, Butlerop đã thu được isobutylen và xác định khả năng trùng hợp của hợp chất này. Nhà bác học đã tiên đoán được tương lai rộng lớn của phản ứng trùng hợp, là “một trong những phản ứng tổng hợp đáng lưu ý nhất”.
Butlerop là người sáng lập ra trường phái hoá học hữu cơ Nga. Với những bài giảng phong phú, độc đáo, xuất phát từ thực nghiệm, ông đã đào tạo cả một thế hệ các nhà hoá học xuất sắc trong đó có những người nổi tiếng như: V. V. Markonikop, A. E. Phavorxki, V. E. Tisenko, I. A. Kablukop, D. P. Konovalop v. v…. Từ năm 1878, ông được bầu làm chủ tịch Hội Hoá học Nga.
Butlerop là con người làm việc miệt mài và căng thẳng, nhưng những lúc rảnh rỗi, ông lại đi xem hòa nhạc hoặc xem triển lãm. Ông rất thích đi dạo ở vùng quê. Trong cuộc đời, trừ những năm ở nước ngoài, hầu như năm nào ông cũng dành cả tháng về sống tại trang trại Butleropka. Ở đây Butlerop trồng hoa, xây dựng, làm ruộng, chữa bệnh và đi săn.
Dân quanh vùng rất biết ơn Butlerop vì ông đã xây dựng được những ống dẫn nước kì lạ bằng lực của dòng nước, nước từ sông băng qua bờ vào ruộng. Bà con nông dân thường tìm đến ông xin thuốc. Họ tin rằng “thứ bột” mà ông cho họ có một sức mạnh đặc biệt và có những tính chất lạ kì.
Butlerop rất thích nuôi ong. Suốt ngày ông tha thẩn bên những tổ ong. Ông có thể ngồi hàng giờ quan sát cảnh sinh hoạt của loài ong trong cái tổ bằng kính do ông tự tay thiết kế. Những năm cuối đời, Butlerop quan tâm nhiều đến nghề nông. Ông sắm cày bừa, máy gieo hạt và chính ông đã đưa máy ra đồng cho chạy thử. Ông yêu tha thiết Butleropka của ông, yêu cảnh đồng quê và những người nông dân bình dị.
Người ta còn giữ được bức thư do Butlerop viết cho cha vào lúc giao thừa khi ông còn là một cậu bé con. Bức thư có tên “Mong ước và hy vọng của con”. Trong bức thư, Xasa Butlerop viết: “Sau những chiến công khó nhọc vì lợi ích của Tổ quốc, con mong muốn cuối cùng sẽ được sống yên bình ở một nơi thanh vắng của tuổi ấu thơ, nơi lần đầu tiên con được nếm trải hương vị của cuộc đời với những người mà con hằng yêu mến… Cuối cùng con muốn đón nhận tuổi già và cái chết một cách yên bình bên những công việc ruộng vườn dân dã, lưu lại một kỉ niệm tốt lành và hữu ích về mình với những người xung quanh”.
Một ngày kia, đứng lên ghế với một quyển sách xếp trên giá, bất ngờ ông trượt chân ngã vật xuống và cảm thấy chân đau dữ dội. Rồi cảm giác đau nhanh chóng qua đi, ông nghĩ không có gì nghiêm trọng. Nhưng ông đã lầm, vẫn còn lại một khối u, chính khối u này đã gây viêm nghẽn mạch và dẫn tới tử vong.
Ngày 17 tháng 8 năm 1866, Butlerop qua đời tại trang trại Butleropka. Sau khi ông mất, đài tưởng niệm Butlerop được dựng trước tòa nhà khoa Hóa của trường Đại học Tổng hợp Matxcơva. Các công trình của ông đã được xuất bản, đó là thuyết cấu tạo hoá học mang tên Butlerop.