• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Danh nhân hóa học
  3. Trang 14

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 13
  • 14
  • 15
  • More pages
  • 48
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 13
  • 14
  • 15
  • More pages
  • 48
  • Sau

Người chinh phục nguyên tố chết

H

enri Moissan sinh tại Paris vào ngày 28 tháng 9 năm 1852 trong một gia đình công nhân xe lửa bình thường. Từ nhỏ Moissan đã rất thông minh lanh lợi, chăm chỉ học hành, song vì gia đình quá nghèo ông đành bỏ học ở nhà chạy khắp nơi làm việc vặt để kiếm tiền.

Một cơ hội bất ngờ đến với Moissan khi ông nghe hai sinh viên nói sẽ có một giáo sư nổi tiếng đến trường họ diễn thuyết. Moissan liền lén lút đi theo họ đến trường nghe trộm. Ông phát hiện ra ở ngoài giảng đường đó có một lùm cây lớn có thể ẩn mình.

Sáng sớm hôm sau, Moissan đã vội vàng đến, đứng trốn ở vị trí bí mật đó. Không lâu sau toàn thể sinh viên đứng dậy đón vị giáo bước vào, lúc đó là khoảng tháng 5 tháng 6 nên cửa sổ của giảng đường mở lớn, tiếng giảng bài rõ ràng của giáo sư truyền ra ngoài. Moissan vừa nghe vừa ghi chép lại, hôm đó giáo sư giảng những kiến thức về lịch sử, một tiết học trôi qua, cuốn vở ghi chép của Moissan đã ghi đầy. Trước khi giáo sư giảng tiết thứ hai, Moissan chui ra, mãn nguyện quay về nhà.

Từ đó trở đi, Moissan đã tìm được một chỗ tuyệt vời để học tập, lượng kiến thức mà ông có ngày càng nhiều, đầu tiên là bên ngoài các giảng đường của trường, sau đó là giảng đường của trường, tuy học như vậy có mệt nhọc, kiến thức thu được có phần lộn xộn nhưng có hiệu quả so với việc tự học của ông. Tuy nhiên, Moissan vẫn có cảm giác hành động của mình như là đi ăn trộm đồ của người khác, ngay cả lúc say mê nghe giảng, ông cũng thấy không an tâm. Quả nhiên, hành động của ông không lâu sau đã bị phát hiện.

Một lần, trong giảng đường của Viện Khoa học lịch sử tự nhiên tại Paris, các viện sĩ đang chăm chú lắng nghe một diễn giả có kiến thức uyên thâm giảng bài, Moissan ở ngoài giảng đường dỏng tai lên lắng nghe. Sau đó, ông cũng quên mất mình đang trốn, từ từ chui từ bụi cây ra, tiến gần đến cửa lớp học. Vị giáo sư đang giảng bài bỗng dừng bài giảng, đôi lông mày của ông nhíu lại, ông nghiêm khắc chỉ ra cửa và hỏi: “Ai đứng ở đó làm phiền người khác, ra chỗ khác đi”.

Nghe câu nói của vị giáo sư nọ, Moissan cảm thấy rất buồn, tự trách mình không cẩn thận, rồi vừa khóc, vừa rời khỏi đó. Khi ấy một viện sĩ hơn 50 tuổi nhẹ nhàng bước ra và nhìn thấy Moissan ngoài cửa, ông lập tức hiểu ra mọi chuyện. Ông đuổi theo, nhẹ nhàng vỗ vai an ủi Moissan. Sau khi hỏi chuyện, ông rất cảm động trước tinh thần hiếu học của Moissan. Biết Moissan rất thích hóa học, ông chủ động giới thiệu Moissan đến phòng thuốc làm phụ tá, Moissan vô cùng vui sướng, cảm ơn và vui vẻ đồng ý. Từ đó, Moissan vừa học vừa làm, bước vào con đường nghiên cứu khoa học.

Từ đó Moissan làm phụ tá trong phòng thí nghiệm của Fremy Edmond, nghe các bài giảng của Sainte Claire Deville và Henri Debray. Một năm sau, ông bỏ phòng thí nghiệm này và thành lập một phòng thí nghiệm nhỏ của riêng mình. Năm 1880, ông nhận được học vị tiến sĩ với luận án về chất xyanogien. Tiếp đó ông làm trợ giảng tại trường dược và năm 1866, ông nhận học hàm giáo sư. Năm 1899, ông là chủ tịch hội Hóa học vô cơ. Năm 1900, ông là giáo sư về hóa vô cơ tại đại học ở Paris.

Các nghiên cứu đầu tiên của ông liên quan đến việc trao đổi oxy và dioxit cacbon trong lá cây. Sau đó, ông rời khỏi lĩnh vực sinh học và nghiên cứu lĩnh vực hóa học vô cơ. Ông đã nghiên cứu các oxít sắt của kim loại, crom và muối chromous. Năm 1884 ông bắt đầu nghiên cứu về flo, một số phot pho hữu cơ và dẫn xuất của nguyên tố đó. Một năm sau ông đã thành công khi áp dụng các giải pháp để cô lập flo, nghiên cứu đầy đủ các đặc tính của khí và phản ứng của nó với các yếu tố khác.

Năm 1892, Moissan đưa ra lý thuyết kim cương có thể được tổng hợp bằng cách kết tinh cacbon. Ông đã thiết kế và phát triển các lò điện hồ quang, đạt được nhiệt độ lên đến 3.500 °C, để sản xuất kim cương nhân tạo. Ông sử dụng lò để bay hơi nhiều chất vốn được xem như không thể tan và tạo nhiều hợp chất mới, đặc biệt là cacbua, silicides và borides. Năm 1891 ông đã phát hiện ra cát kim cương dùng để mài. Nghiên cứu của ông về cacbua và phản ứng của nó với nước dẫn đến lý thuyết trong một số trường hợp, dầu khí có thể được hình thành bởi phản ứng giữa cacbua và nước.

Xung quanh việc tìm ra chất flo, có một giai thoại rất hay về ông. Năm 1878, khi Moissan đang là thực tập sinh ở phòng thí nghiệm của E. Fremy, có lần một người bạn cùng học cầm một bình hóa chất, nói với ông:

- Đây là kali florua. Cho tới bây giờ, trên thế giới vẫn chưa có một người nào có thể tách ra đơn chất flo cả!

- Lẽ nào giáo sư E. Fremy của chúng ta cũng không thể tách nó ra sao? Moissan ngạc nhiên hỏi.

- Đúng thế! Trước đấy cũng có rất nhiều người làm thí nghiệm nhưng đều thất bại. Nghe giáo sư E. Fremy nói, 60 năm trước đây (năm 1810), nhà điện hóa Anh H. Davy đã thử tách flo nhưng không thành công, lại bị trúng độc. Đến năm 1834, học trò của Davy là nhà vật lý M. Faraday cố gắng tìm cách giải quyết, tách flo bằng cách điện phân một số florua ở trạng thái nóng chảy, nhưng cũng thất bại. Năm 1836, hai anh em G. Knox và R.T. Knox người Ailen cũng thí nghiệm 5 năm liền việc điều chế flo nhưng kết quả người anh bị trúng độc chết, người em bị trúng độc nhẹ hơn đã phải điều dưỡng suốt một thời gian dài. Ngoài ra, một số nhà bác học khác cũng chia sẻ số phận thảm thương như anh em nhà Knox khi thí nghiệm điều chế flo đơn chất. Hãy nhớ đấy, Moissan. Flo là “nguyên tố chết”! Đừng chạm đến nó!

Người bạn rất xúc động nói một thôi một hồi như vậy. Moissan lặng lẽ nghe, rồi một lúc sau, nghiêm trang nói:

- Tôi không sợ! Tôi nhất định sẽ điều chế cho kì được đơn chất flo!

Người bạn rất ngạc nhiên, mở to mắt nhìn Moissan, cũng nói rất nghiêm túc:

- Nếu thế anh phải hết sức cẩn thận. Làm không khéo là phải đổi bằng tính mạng đấy!

Sau lần trò chuyện đó, việc chế flo đơn chất luôn luẩn quẩn trong đầu óc của Moissan: “flo đơn chất, nguyên tố chết! Làm thế nào để chế ra flo đơn chất đây?” Moissan cứ suy nghĩ mãi, trong mơ cũng chỉ nghĩ đến flo đơn chất!

Năm 1885, Moissan bắt đầu nghiên cứu phương pháp điều chế flo đơn chất. Ông suốt ngày vùi mình trong phòng thí nghiệm, tỉ mỉ tìm ra các tính chất của hợp chất flo. Ban đầu ông định dùng hợp chất flo tác dụng với photpho, trước tiên chế ra photpho florua, sau đó đem photpho florua đun nóng với oxy, hy vọng từ đó thu được flo đơn chất. Do bảng hệ thống tuần hoàn vào thời đó vẫn chưa đầy đủ, công thức hóa học của hợp chất flo và oxy còn chưa được hiểu rõ một cách cơ bản nên thí nghiệm của Moissan bắt đầu khá mò mẫm, và với thí nghiệm trên, đương nhiên là ông đã thất bại.

Nhưng Moissan là con người không ngừng cố gắng một khi chưa đạt được mục đích. Cứ phương án này thất bại, ông lại tìm ngay một phương án khác. Ông nghĩ: “Flo là nguyên tố hoạt động hóa học mạnh nên không thể chế ra nó ở nhiệt độ cao, do ở nhiệt độ cao nó càng hoạt động hóa học mạnh hơn, vì thế không dễ gì tách riêng flo đơn chất. Xem ra chỉ có cách điện phân! Davy đã từng dùng cách đó nhưng không thành công, mình thử lại xem sao!”

Sử dụng cách điện phân để chế flo đơn chất, trước tiên Moissan chế ra một hợp chất cực độc: asen florua. Ông cho vào asen florua một lượng nhỏ kali florua, xếp đặt cẩn thận trang bị điện phân rồi cho truyền điện tới.

Thoạt đầu, phản ứng xảy ra rất thuận lợi, nhưng chỉ sau mấy phút cực âm đã bị che phủ một lớp chất màu vàng nhạt, làm phản ứng dần dần ngừng lại. Khi đó, Moissan cảm thấy toàn thân rã rời, tim đập thình thịch, thở hổn hển, khó nhọc.

“Nguy rồi! Lẽ nào mình cũng giống như các nhà hóa học trong lịch sử, bị trúng độc mà chết? Tuyệt đối không thể thế được, cần phải mau chóng rời khỏi phòng thí nghiệm, càng nhanh càng tốt!”

Nghĩ vậy, ông vội bước ra ngoài, nhưng lúc đó đã không sao nhấc chân lên nổi. Ông vừa cố đứng dậy, nhưng lại lảo đảo, ngã ngồi xuống chiếc ghế. May thay, tâm trí ông vẫn còn tỉnh táo. Ông cố sức ghì cánh tay phải đề ngắt cầu dao điện, cắt đứt dòng điện truyền vào thiết bị điện phân, sau đó mới ngã lăn ra sàn.

Vài giờ trôi qua, khi Moissan tỉnh dậy, vợ ông đang phủ phục xuống bên ông nức nở, mặt đẫm nước mắt.Tuy nhiên Moissan vẫn không chịu đầu hàng và lại bắt tay vào một thử nghiệm mới. Ông hì hục suốt 4 ngày để làm một chiếc ống hình chữ U bằng graphit cứng chắc, sau đó đem kali florua hòa trộn với axit flohidric khan, cho vào ống hình chữ U, đậy nút xoáy ốc làm bằng graphit, bên ngoài bao lại cho thật kín, rồi tiến hành điện phân ở nhiệt độ thấp.

Thành công đã đến. Vào ngày 26 tháng 6 năm 1886, từ cực âm của trang bị điện phân cuối cùng đã bốc ra khí flo đơn chất. Khí đó sau khi gặp silic đã cháy và tạo thành silic florua. Moissan đã viết báo cáo gửi Viện khoa học về việc ông đã lần đầu tiên chinh phục được “nguyên tố chết ” – flo đơn chất (F2).

Trong cả cuộc đời nghiên cứu khoa học, Moissan đã viết hơn ba trăm ấn phẩm, những công trình đáng chú ý của ông là “Lò hồ quang điện”, “Flo và các hợp chất của nó”, “Hóa học vô cơ”.

Moissan, được tặng huân chương Bắc đẩu bội tinh, được bầu làm thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học. Năm 1887 ông được nhận giải Prix Lacaze; huân chương Davy năm 1896 và huân chương Hofmann năm 1903. Ông còn là thành viên danh dự của nhiều hội khoa học khác. Ông là người đầu tiên thu được đơn chất flo (F) từ dung dịch, sau đó phát minh ra lò điện nhiệt độ cao. Năm 1906, ông giành được giải Nobel hóa học.

Moissan quan niệm: Một con người nên tự đặt ra những mục đích cao quý để phấn đấu, chỉ có như vậy, họ mới cảm thấy mình thực sự là một con người, chỉ có như vậy, họ mới tiến lên phía trước.

Ngày 20 tháng 2 năm 1907, ngay sau khi trở về từ lễ trao giải tại Stockholm, ông đột ngột qua đời tại Paris.