• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Danh nhân hóa học
  3. Trang 15

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 14
  • 15
  • 16
  • More pages
  • 48
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 14
  • 15
  • 16
  • More pages
  • 48
  • Sau

Người khai sinh ra điện hóa phân tích

J

aroslav Heyrovsky sinh ngày 20 tháng 12 năm 1890. Cha mẹ của Heyrovsky đều là những người có học vấn, từ nhỏ Heyrovsky đã được giáo dục phải luôn tập trung tinh thần trong học tập. Sự tập trung nghiêm túc trong học tập đã khiến Heyrovsky nổi tiếng trong đám bạn học, mọi người đều nói, chẳng có lỗi sai nào thoát khỏi đôi mắt của Heyrovsky.

Một buổi chiều, mặt trời đã thu lại những ánh sáng cuối cùng, mọi người trong gia đình Heyrovsky ngồi trong phòng ăn chờ ăn cơm, chỉ có cậu con trai là chưa thấy đâu. Đúng lúc mọi người đang lo lắng thì Heyrovsky mặt mày ủ rũ quay về. Nhìn thấy gương mặt buồn bã của con, người mẹ vội vàng hỏi:

- Sao thế, sao con lại không vui như vậy?

Heyrovsky không trả lời, chỉ lặng lẽ ngồi vào bàn ăn nhưng vì rõ ràng là có chuyện buồn, không thể nuốt được nên đành để dao nĩa xuống, rồi quay sang mẹ nói.

- Hôm nay thầy giáo yêu cầu con lên bảng làm bài, con làm sai, sau đó thầy lại cho một bài tập như thế con lại làm sai, đến tận bây giờ con vẫn không tìm ra nguyên nhân.

Người cha ngồi bên cạnh nói:

- Bất luận thế nào, trước khi giải quyết vấn đề phải ăn cơm đã, không thể để việc không làm tốt ảnh hưởng tới khiến các việc khác cũng làm không tốt.

Heyrovsky nhìn cha rồi lại bắt đầu ăn, ăn hết một nửa suất ăn. Sau khi ăn xong, mẹ Heyrovsky đi tới phòng của con, rủ cậu cùng đi dạo với các anh chị em, muốn giúp cậu thoải mái một chút. Vừa ra khỏi cửa, trong khung cảnh đẹp đẽ, mọi người đang cười nói, hít thở không khí trong lành, cảm nhận cuộc sống vui vẻ, tâm trạng Heyrovsky cũng khá lên một chút, đầu óc cũng thoải mái hơn.

Sau khi đi dạo về, Heyvrosky lập tức về phòng khóa cửa, xem xét lại những gì mình đã làm sai. Lúc này đầu óc sáng suốt, suy nghĩ cũng mạch lạc hơn. Một rồi hai giờ trôi qua, trong phòng khách các anh chị em của Heyvrosky đang ăn hoa quả, chơi đùa, chờ mãi không thấy Heyvrosky xuống, họ lũ lượt kéo đến phòng cậu. Chỉ thấy Heyrovsky đang bò bên bàn tập trung suy nghĩ, xung quanh là một đống giấy viết đầy những con số. Anh trai Heyvrosky bước tới nói:

-Để anh tính giúp em, em ra ngoài chơi với mọi người đi, đừng ngồi ở đây, sẽ buồn đến chết mất.

Nói xong liền kéo Heyrovsky đi, nhưng Heyrovsky vẫn không ngẩng đầu lên nói:

- Mọi người đi chơi đi, em phải tự làm mới tìm ra chỗ sai, không lần sau lại sai tiếp.

Lại một giờ nữa trôi qua, rốt cuộc Heyrovsky cũng vui vẻ bước ra khỏi phòng, nói với cha:

- Con đã biết con sai ở đâu rồi.

Người cha vỗ vai cậu nói:

- Con trai, làm tốt lắm, con sẽ thành công.

Sau này, chính dựa vào sự kiên quyết đến cùng đó mà Heyrovsky đã bước lên đỉnh cao của môn hóa học.

Heyvrosky theo học tại trường trung học cho đến năm 1909 và bắt đầu học hóa học, vật lý, và toán học tại Đại học Charles ở Prague. Từ năm 1910 đến năm 1914 Heyvrosky tiếp tục học tại trường Đại học College London, dưới sự hướng dẫn của giáo sư William Ramsay, W. C. McC. Lewis, và F. G. Donnan. Ông đặc biệt thích cộng tác với Giáo sư Donnan trong lĩnh vực điện hóa.

Trong Thế chiến I, Heyrovsky làm việc trong một bệnh viện dã chiến như một nhà hóa học và nhà phóng xạ học, ông tiếp tục học và nhận bằng ở Praha năm 1918 và ở London năm 1921. Heyrovsky bắt đầu sự nghiệp nghiên cứu bằng cách làm trợ lý cho Giáo sư B. Brauner ở Học viện Hóa phân tích của Đại học Charles, Praha; ông được đề bạt làm Phó Giáo sư năm 1922 và năm 1926 ông trở thành giáo sư đầu tiên của Đại học khoa Hóa lý.

Phát minh của Heyrovsky cho phương pháp cực phổ bắt đầu từ năm 1922 sau đó ông tập trung toàn bộ nghiên cứu khoa học môn điện hóa mới. Ông thành lập một trường học về cực phổ ngay trong trường đại học, và là người đi đầu nghiên cứu cực phổ. Năm 1950 Heyrovsky được bổ nhiệm làm giám đốc Học viện Cực phổ mới được hình thành, sau viện này hợp nhất vào Viện Hàn lâm Khoa học Tiệp Khắc.

Năm 1926 Heyrovsky kết hôn với Marie Koranová, có hai con, bé gái là Judith, và bé trai Michael.

Jaroslav Heyrovsky mất ngày 23 tháng 7 năm 1967. Ông được an táng tại nghĩa trang Vyšehrad ở Praha.

Rất nhiều Đại học và trường học tưởng nhớ Heyrovsky. Ông được bầu làm hội viên của Đại học College London năm 1927, và nhận bằng Tiến sĩ Danh dự của Đại học Kỹ thuật Dresden năm 1955, Đại học Warsaw năm 1956, Đại học Aix-Marseille năm 1959, Đại học Paris năm 1960. Ông còn là thành viên danh dự của Học viện Mỹ thuật và Khoa học Hoa Kỳ năm 1933; Học viện Khoa học Hungary năm 1955; Học viện Khoa học Ấn Độ, Bengalure năm 1955; Học viện Khoa học Ba Lan, Warsaw năm 1962; hội viên của Học viện Khoa học Đức, Berlin, năm 1955; thành viên Viện Hàn lâm Khoa học Tự nhiên Đức, Leopoldina (Halle-Saale) năm 1956; thành viên ngoại quốc của Học viện Khoa học Hoàng gia Đan Mạch, Copenhagen năm 1962; Phó chủ tịch Liên minh Vật lý Quốc tế từ năm 1951 đến năm 1957; Chủ tịch và thành viên danh dự đầu tiên của hội cực phổ London; thành viên danh dự của Hội cực phổ Nhật Bản; thành viên danh dự Hội Hóa học Tiệp Khắc, Áo, Ba Lan, Anh và Ấn Độ. Bài thuyết trình về cực phổ của Heyrovsky được diễn thuyết tại Hoa Kỳ năm 1933, Liên Xô năm 1934, Anh năm 1946, Thụy Điển năm 1947, Trung Quốc năm 1958, và Ai Cập từ năm 1960 đến năm 1961.

Tại Tiệp Khắc, Heyrovsky được trao Giải thưởng Nhà nước hạng nhất năm 1951, Huân chương Cộng hòa Tiệp Khắc năm 1955. Sau khi ông mất, miệng núi lửa trên Mặt trăng được đặt là Hevrosky để tưởng nhớ ông.

Heyrovsky đã phát minh ra phương pháp cực phổ, cha đẻ của điện hóa phân tích. Ông là người sáng lập phương pháp nghiên cứu cực phổ và dành toàn bộ hoạt động khoa học của mình cho sự phát triển và hoàn thiện lĩnh vực này. Khi nghiên cứu (1922) điện phân trên điện cực giọt - thủy ngân - ông đã xác định sự phụ thuộc giữa thế khử và thế oxy hóa các chất với bản chất của chúng, cũng như sự phụ thuộc giữa đại lượng dòng khuếch tán với nồng độ chất trong chất điện li. Phát minh này là cơ sở để nghiên cứu các phương pháp cực phổ.

Năm 1925, ông phát triển phương pháp nghiên cứu cực phổ áp dụng cho điện cực giọt - thủy ngân. Cộng tác với Shikata thiết kế, ông chế tạo cực phổ ký - thiết bị tự động đầu tiên cho các phòng thí nghiệm phân tích. Ông đã thành lập các phương pháp cực phổ để xác định tất cả các nguyên tố, kể cả các nguyên tố đất hiếm họ Lantanoit và Actinit đặt nền móng cho phương pháp cực phổ dao động. Năm 1959, Heyrovsky được giải thưởng Nobel về hóa học.

Nói về những thành quả của mình Heyrovsky quan niệm: Tất cả các phát minh vĩ đại đều phải trải qua một thời gian dài lao động cực nhọc mà thành.