T
ương truyền, thuở bé, Mullis là một đứa trẻ lười biếng, suốt ngày chỉ thích loay hoay bên những chiếc máy giặt, tủ lạnh, ti vi hỏng. Nhưng Mullis đã sớm tỏ ra là một người rất thông minh và ham mê tìm hiểu, khám phá. Suốt ngày ngồi bên đống đồ cũ nát, cậu loay hoay tháo ra rồi lại lắp vào những thứ đó để tự tìm ra nguyên tắc làm việc của chúng.
Mullis là con người toàn năng trong mọi lĩnh vực, chẳng có một ranh giới cho ngành chuyên môn hẹp nào mà ông không vượt qua. Đang làm nghiên cứu về sinh hóa học, ông công bố bài báo “Ý nghĩa vũ trụ của thời gian ngược” gây chấn động cả giới khoa học. Tiến sĩ sinh hóa Mullis tạo cho mọi người một hình ảnh rất trái nghịch, không hề giống phong cách điển hình của một nhà khoa học đoạt giải Nobel. Mullis thường lang thang trên phố với chiếc quần bò rách cắt cụt đến đầu gối. Ông dành phần lớn thời gian cho việc viết văn, leo núi và lướt ván trên sông. Nhìn ông, không ai nghĩ ông là một nhà khoa học đích thực. Ông gợi nên cho người khác cái nhìn về một tay ăn chơi và bất cần đời. Mullis thường ngủ triền miên mỗi khi ông muốn và thức triền miên trong phòng thí nghiệm mỗi khi nghĩ ra một ý tưởng nào đó.
Phát minh của nhà bác học dị thường này rất nhiều và đa dạng. Nhưng phát minh lớn nhất đem lại vinh quang cho ông là phản ứng dây chuyền nhờ polimeraza. Men polimeraza chiết từ vi khuẩn thermus aquaticus để nhân bản một mẩu ADN lên 200.000 lần. Đoạn ADN đặc trưng cho mỗi cá thể ấy được các nhà hình pháp học đặt tên là “Vân tay ADN”. Kary Mullis so sánh polimeraza với chiếc máy khuếch đại phân tử “có khả năng biến tiếng vỗ cánh của một con bướm nhởn nhơ bay lượn thành tiếng gầm rú của động cơ phản lực cực mạnh”.
Polimeraza là quá trình nhân đôi một ADN nhất định (gọi là mixen) và cứ thế liên tục nhân lên. Khi đun nóng mạnh ADN, mixen tách ra. Người ta đã thêm vào dung dịch oligonucleotit đặc hiệu, có khả năng liên kết với các nucleotit theo một trật tự xác định thành một mạch ADN - polimeraza chứa trong các tế bào đặc biệt khôi phục các phân tử của mixen ADN, nói chính xác hơn thành hai, bốn, tám, mười... đến vô tận.
Nhờ phát minh của Mullis, người ta có thể thu được một lượng ADN tuỳ ý. Phát minh này cũng được áp dụng trong rất nhiều lĩnh vực, đặc biệt hỗ trợ đắc lực cho những nhà hình sự học trong việc điều tra tội phạm. Chỉ cần một chút da, hay một sợi tóc của thủ phạm để lại trên hiện trường, người ta có thể phát hiện ngay ra thủ phạm một cách chính xác vì men polimeraza có thể nhân đôi được lên vô tận. Ngoài ra, nhờ polimeraza, người ta có thể tiến hành hàng loạt những thí nghiệm khác nhau. Các nhà sinh học phân tử và y học sử dụng polimeraza và vân tay ADN đã mở ra một triển vọng mới trong việc chữa bệnh di truyền. Họ dùng nó làm cơ sở cho phương pháp chữa bệnh mới. Phát minh của Mullis thực sự là một cuộc cách mạng trong sinh hóa học và góp phần quan trọng trong sự phát triển của y học.
Cũng chính Mullis đã khám phá và công bố phương pháp phục chế người chết bằng cách dùng móng tay và tóc của họ để xác định tổ hợp gen, thông qua đó, tái tạo một người mới giống y hệt như người đã chết. Ý tưởng của Mullis được Ian Wilmut thực hiện thông qua việc nhân bản vô tính chú cừu Dolly làm cả thế giới kinh ngạc, bàng hoàng. Hiện nay, người ta đang lo sợ những nguy cơ mới phát sinh từ nhân bản vô tính. Liệu thế giới sẽ ra sao nếu con người được nhân bản lên và giống hệt như nhau?
Dù phát minh của Mullis được vận dụng theo hướng tích cực hay tiêu cực, vẫn không thể phủ nhận tài năng kiệt xuất của ông. Năm 1993, Mullis được trao giải thưởng Nobel cho phát minh này và cách đây không lâu, ông vinh dự được Nhật Bản trao tặng giải thưởng Hoàng gia, trị giá 400.000 đôla. Mullis được cả thế giới ca tụng là “một trong những bộ óc lớn nhất của thế kỷ XX”.