C
arl Friedrich Gauss (được biết rộng rãi hơn với tên Carl Friedrich Gauss, sinh ngày 30 tháng 4, ở Braunschweig, thuộc Brunswick-Lüneburg (nay là Hạ Saxony, Đức), con trai duy nhất của một cặp vợ chồng thuộc tầng lớp thấp trong xã hội. Từ khi còn nhỏ, Gauss đã thể hiện là một thần đồng. Có giai thoại kể, Gauss đã học tính trước khi học nói. Hồi nhỏ Gauss đã biểu hiện một khả năng kì lạ về tính nhẩm. Khi vừa biết nói ông đã “làm phiền” những người xung quanh bằng những câu hỏi: Cái gì đây? Thế còn cái này là cái gì?...
Cha Gauss nhận thầu khoán công việc. Ông thường thanh toán tiền công vào chiều thứ bảy. Lần ấy khi vừa đọc xong bản thanh toán thì từ phía giường trẻ có tiếng Gauss:
- Cha ạ! Cha tính sai rồi, phải thế này mới đúng.
Mọi người không tin nhưng kiểm tra lại thì quả là người cha đã tính sai còn Gauss đã tính đúng. Bảy tuổi Gauss được đến trường học. Thầy giáo Biutnhe luôn cầm trong tay một chiếc roi ngựa và chiếc roi sẽ được quất xuống trên lưng những học sinh biếng nhác, đôi khi nó cũng được tặng cho Gauss vì lúc đầu cậu không có gì khác biệt so với các trò khác. Nhưng tình hình bắt đầu khác hẳn khi trong trường dạy môn số học. Ngay từ giờ đầu tiên Gauss đã vượt hẳn lên trước con mắt của người thầy nghiêm khắc. Một lần thầy giáo cho tìm tổng tất cả các số nguyên từ 1 đến 100. Khi thầy giáo vừa đọc xong đầu bài thì đã nghe giọng Gauss.
- Thưa thầy, em giải xong rồi.
Thầy giáo dạo quanh các bàn và không hề để ý đến Gauss, nói một cách chế nhạo:
- Kaclơ, chắc em sai rồi đấy. Không thể giải quá nhanh bài toán khó như vậy được đâu.
- Thầy tha lỗi cho em, em giải rất đúng.
- Nào chúng ta thử xem nó đúng đến mức nào. Nhưng nếu nó sai? - Thầy giáo đập đập chiếc roi một cách đe dọa.
Nhưng thầy giáo đã hết sức ngạc nhiên khi kiểm tra thấy Gauss giải bài toán một cách hoàn toàn đúng và cách giải lại hết sức độc đáo.
- Kaclơ! Hãy nói cho cả lớp nghe về cách giải của em đi! - Thầy giáo ân cần nói.
- Nếu chú ý một chút thì bài toán rất đơn giản. Em nhận thấy ở dãy số này các tổng hai số của từng cặp số đứng cách đều phía đầu và phía cuối đều bằng nhau. Sử dụng tính chất đó, em cộng từng cặp:
100 + 1,99 + 2,98 + 3, v v... Mỗi tổng đều là 101, có 50 tổng như vậy nên kết quả sẽ là: 101 x 50 = 5050
Còn có nhiều chuyện kể Gauss đã làm cha mẹ và thầy giáo kinh ngạc về khả năng tính toán. Theo lời Gauss kể lại mẹ ông không nhớ rõ ngày sinh của con mà chỉ biết là Gauss sinh ngày thứ tư, tám ngày trước lễ Thăng Thiên. Gausss nhân dịp này đã tìm ra công thức xác định ngày lễ Phục sinh cho bất cứ một năm nào đó mà đến nay vẫn còn sử dụng (tuy vậy do sai lệch của Nguyệt lịch - không phải Âm lịch - mà công thức của Gauss chỉ đúng đến năm 4200).
Năm 11 tuổi, vì hoàn cảnh gia đình rất khó khăn nên cha Gauss chỉ cố gắng cho cậu học tiếp ở Trung học Catharineum ở Braunschweig. May mắn là từ 1792 trở đi, công tước Karl Wilhelm von Braunschweig khi biết đến tài năng của Gauss đã trợ cấp cho cậu theo học Collegium Carolinum (nay là Đại học Kỹ Thuật Braunschweig). Trong ba năm học tại đây, Gauss vẫn đam mê số học, ngoài ra ông cũng rất giỏi về cổ ngữ và sinh ngữ. Thời gian này Gauss còn khám phá ra quy luật Bode (tỷ lệ gần đúng khoảng cách đến mặt trời của các hành tinh trong Thái dương hệ) một cách độc lập và mở rộng định lý nhị thức cho các số mũ hữu tỉ.
Từ năm 1792 đến 1795, Gauss được nhận học bổng của Karl Wilhelm Ferdinand (công tước trong vùng) để vào trường trung học Collegium Carolinum. Từ năm 1795 đến 1798, ông học Đại học Göttingen, tuy vẫn chưa dứt khoát sẽ học chuyên ngành toán học hay ngữ văn. Năm sau, chưa đầy 19 tuổi, Gauss đã khám phá ra cách dựng đa giác đều 17 cạnh bằng thước kẻ và com-pa và từ đó quyết tâm theo đuổi toán học. Trước đó, các nhà toán học từ thời Euclid đã bỏ ra nhiều công sức nghiên cứu cách dựng các đa giác đều chỉ bằng thước kẻ và compa. Họ tìm ra rất sớm cách dựng hình vuông, tam giác đều và ngũ giác đều, thêm vào đó là các đa giác đều có số cạnh gấp đôi các hình này, cũng như đa giác đều 15 cạnh (kết hợp ngũ giác đều và tam giác). Cả hơn 2000 năm sau mới có Gauss khám phá ra cách dựng một đa giác đều khác là hình 17 cạnh (sau này trong Disquisitiones Arithmeticae, 1801, Gauss chứng minh là có thể dựng được các đa giác đều có số cạnh là số nguyên tố Fermat mà 17 là một). Cũng năm này, Gauss còn tìm ra luật nghịch đảo bình phương, một kết quả cơ bản của lý thuyết số (đại số modula) và định lý phân bố các số nguyên tố.
Bước đột phá toán học đầu tiên khi Gauss chứng minh mọi đa giác đều với số cạnh bằng số nguyên tố Fermat (và, do đó, mọi đa giác đều với số cạnh bằng tích của các số nguyên tố Fermat khác nhau và lũy thừa của 2) đều có thể dựng được bằng compa và thước kẻ là một khám phá quan trọng trong ngành dựng hình, một bài toán đã làm đau đầu nhiều nhà toán học từ thời Hy Lạp cổ đại. Gauss đã thích thú với kết quả này đến nỗi ông đã yêu cầu khắc lên mộ mình sau này một hình đa giác đều 17 cạnh. Tuy nhiên người xây mộ đã từ chối, nói rằng khó khăn kỹ thuật sẽ làm cho hình với số cạnh nhiều như vậy trông giống một hình tròn.
Có thể nói, năm 1796 là năm chứng kiến nhiều phát kiến của Gauss nhất, chủ yếu cho ngành lý thuyết số. Ngày 30 tháng 3 năm đó, ông tìm thấy cách dựng hình thất thập giác. Ông đã tìm ra số học modula, một khám phá giúp cho việc giải toán trong lý thuyết số được đơn giản hóa đi nhiều. Công thức nghịch đảo toàn phương của ông được tìm thấy ngày 8 tháng 4. Định luật khá tổng quát này cho phép các nhà toán học xác định khả năng giải được các phương trình bậc hai trong số học modula. Định lý số nguyên tố được Gauss phát biểu ngày 31 tháng 5, giúp một cách hiểu thấu đáo về các số nguyên tố được phân bố trong dãy số nguyên. Ngày 10 tháng 7, Gauss đã chứng minh được bất cứ số nguyên nào cũng có thể được biểu diễn bằng tổng của tối đa là ba số tam giác. Phát hiện này khiến ông sung sướng viết trong sổ tay của mình “Heureka! num= Δ + Δ + Δ.”. Ngày 1 tháng 10, ông công bố kết quả về các nghiệm của các đa thức với hệ số trong trường vô hạn, một kết quả đã dẫn đến phát biểu của Weil 150 năm sau.
Một năm sau khi trở về Braunschweig, 1799, Gauss trình luận án tiến sĩ tại đại học Helmstedt (thuộc Braunschweig), trong đó ông đưa ra chứng minh đầu tiên cho Định lý cơ bản của đại số học. Định lý này nói rằng bất cứ một đa thức trên trường số phức nào cũng đều có ít nhất một nghiệm. Các nhà toán học trước Gauss mới chỉ giả thiết rằng định lý đó là đúng. Gauss đã chứng minh sự đúng đắn của định lý này một cách chặt chẽ. Trong cuộc đời của mình, ông đã viết ra tới bốn cách chứng minh hoàn toàn khác nhau cho định lý trên, làm sáng tỏ ý nghĩa của số phức. Cũng nên nói thêm rằng chính công trình này của Gauss từ đó đã đưa các số phức và cách biểu diễn số phức (mặt phẳng Gauss) vào ứng dụng rộng rãi trong khoa học kỹ thuật.
Được công tước Karl Wilhelm tiếp tục giúp đỡ tài chính, Gauss nghiên cứu toán học ở Braunschweig một cách độc lập. Thời gian này Gauss hoàn thành bộ “Disquisitiones arithmeticae”, một công trình toán học sâu rộng nhất của thời bấy giờ trong đó ông trình bày tất cả các kết quả tìm được một cách có hệ thống và cô đọng, chứng minh và giải đáp các vấn đề then chốt, cùng lúc lại phác họa nhiều chiều hướng nghiên cứu mà đôi khi đến tận ngày nay vẫn còn là thử thách. Nhiều tên tuổi toán học như Jacobi và Abel chẳng hạn, thừa nhận đã phát triển lý thuyết hàm số elliptic của họ chỉ nhờ một lời gợi ý nhỏ trong Disquisitiones.
Năm 1801, Gauss tiếp tục có nhiều cống hiến trong lý thuyết số, tổng kết lại trong quyển “Disquisitiones Arithmeticae”, một công trình chứa đựng miêu tả gọn gàng về số học modula và cách chứng minh thứ nhất của công thức nghịch đảo toàn phương. Cùng năm này, nhà thiên văn Ý Giuseppe Piazzi tìm thấy thiên thể Ceres, nhưng chỉ kịp thấy nó trong vài tháng. Gauss đã tiên đoán chính xác vị trí mà thiên thể này sẽ được tìm lại, và tiên đoán này được khẳng định bởi quan sát của Franz Xaver von Zach ở thị trấn Gotha vào ngày 31 tháng 12 năm 1801, và bởi Heinrich Wilhelm Matthäus Olbers ở Bremen một ngày sau đó. Zach đã ghi lại “nếu không có công trình trí tuệ và tính toán của tiến sĩ Gauss chúng ta đã có thể không tìm lại Ceres được nữa.”
Thời gian này Gauss bắt đầu tìm việc trong ngành thiên văn học, và vào năm 1807, ông giữ cương vị giáo sư thiên văn và giám đốc đài Thiên văn ở đại học Göttingen. Ông đã đảm nhiệm cương vị này suốt phần còn lại của cuộc đời.
Sự khám phá ra Ceres của Giuseppe Piazzi ngày 1 tháng 1 năm 1801 đã giúp Gauss chuyển hướng nghiên cứu sang lý thuyết về chuyển động của các tiểu hành tinh, bị nhiễu loạn bởi các hành tinh lớn hơn. Các công trình của ông trong lĩnh vực này đã được xuất bản năm 1809 dưới tên “Lý thuyết về chuyển động của các thiên thể trong quỹ đạo mặt cắt hình nón quanh mặt trời”. Piazzi chỉ quan sát được Ceres trong vài tháng, khi thiên thể này di chuyển khoảng vài độ trên bầu trời. Sau đó thiên thể này chói lòa bởi ánh sáng mặt trời. Vài tháng sau, khi Ceres đã ló ra khỏi vùng ảnh hưởng của ánh sáng mặt trời, Piazzi đã không tìm thấy nó: các công cụ toán học thời đó không đủ chính xác để giúp ông tiên đoán trước vị trí thiên thể này từ các dữ liệu ít ỏi đã quan sát được - 1% của toàn bộ quỹ đạo.
Gauss, lúc đó ở tuổi 23, đã được nghe về bài toán này và lập tức giải quyết nó. Sau ba tháng làm việc miệt mài, ông đã tiên đoán vị trí của Ceres vào tháng 12 năm 1801 - khoảng 1 năm sau khi thiên thể này được nhìn thấy lần đầu - tính toán này đã được kiểm chứng lại cho thấy sai số nhỏ hơn nửa độ. Các công trình của ông đã trở thành công cụ tính toán quan trọng cho thiên văn học thời này. Ông đã giới thiệu hằng số hấp dẫn Gauss và hoàn chỉnh phương pháp bình phương tối thiểu, một phương pháp dùng cho hầu như mọi ngành khoa học ngày nay khi giảm thiểu sai số đo. Gauss đã chứng minh chặt chẽ giả định về sai số theo phân bố Gauss. Phương pháp này đã được Adrien-Marie Legendre dùng vào năm 1805, nhưng Gauss nói ông đã dùng nó từ năm 1795.
Cuối thập niên 1810, Gauss được mời thực hiện các nghiên cứu trắc địa cho bang Hannover để liên kết với mạng lưới Đan Mạch. Gauss vui lòng chấp nhận và tham gia, đo đạc vào ban ngày và xử lý kết quả vào ban đêm, sử dụng khả năng tính toán phi thường của ông. Ông thường viết cho Heinrich Christian Schumacher, Heinrich Wilhelm Matthäus Olbers và Friedrich Bessel, nói về tiến trình đo đạc và các vấn đề. Trong cuộc điều tra trắc địa này, Gauss đã phát minh máy heliotrope (?) sử dụng hệ thống gương để phản chiếu ánh sáng mặt trời vào kính viễn vọng phục vụ đo đạc chính xác.
Gauss cũng đã tuyên bố khám phá ra hình học phi Euclide nhưng ông chưa bao giờ xuất bản các công trình về vấn đề này. Khám phá này đã là một cuộc cách mạng trong tư duy toán học đương thời, giải phóng các nhà toán học khỏi giả thuyết rằng các tiên đề Euclide là cách duy nhất để xây dựng hình học không tự mâu thuẫn. Các nghiên cứu về hình học này, cùng với các ý tưởng khác, đã dẫn đến lý thuyết tương đối rộng của Albert Einstein, miêu tả vũ trụ trong hình học phi Euclide. Farkas Bolyai, một bạn của Gauss, người mà Gauss đã thề làm “anh em kết nghĩa” khi còn là sinh viên, đã thử chứng minh định đề song song từ các tiên đề Euclide mà không thành công. Con trai của Bolyai, Janos Bolyai, khám phá ra hình học phi Euclide năm 1829 và xuất bản công trình này năm 1832. Sau khi nhìn thấy công trình của Janos Bolyai được xuất bản, Gauss đã viết cho Farkas Bolyai: “Nếu khen công trình này thì tức là tự khen tôi. Toàn bộ nó... trùng hoàn toàn với những gì tôi nghĩ trong suốt ba mươi đến ba mươi lăm năm qua.” Câu nói khó kiểm chứng này đã gây căng thẳng trong quan hệ với Janos Bolyai (người đã nghĩ rằng Gauss đã “ăn cắp” ý tưởng của ông).
Cuộc thăm dò địa trắc ở Hannover đã dẫn Gauss đến khám phá ra phân bố Gaussian dùng trong miêu tả sai số phép đo. Nó cũng dẫn ông đến một lĩnh vực mới là hình học vi phân, một phân ngành toán học làm việc với các đường cong và bề mặt. Ông đã tìm thấy một định lý quan trọng cho ngành này, Theorema egregrium xây dựng một tính chất quan trọng cho khái niệm về độ cong. Theo ông, độ cong của một bề mặt có thể được đo hoàn toàn bởi góc và khoảng cách trên bề mặt đó; nghĩa là, độ cong hoàn toàn không phụ thuộc vào việc bề mặt trông như thế nào trong không gian (ba chiều) bao quanh.
Năm 1831 Gauss đã hợp tác hiệu quả với nhà vật lý học Wilhelm Weber; hai ông đã cho ra nhiều kết quả mới trong lĩnh vực từ học (trong đó có việc biểu diễn đơn vị từ học theo khối lượng, độ dài và thời gian) và sự khám phá ra định luật “Kirchhoff trong điện học”. Gauss và Weber đã lắp đặt được máy điện toán điện từ đầu tiên vào năm 1833, liên lạc thông tin từ đài thiên văn về viện vật lý ở Göttingen. Gauss đã cho xây một trạm quan sát từ học trong khu vườn của đài thiên văn và cùng Weber thành lập “câu lạc bộ từ học”, phục vụ việc đo đạc từ trường trái đất tại nhiều nơi trên thế giới. Ông đã sáng chế ra một phương pháp đo thành phần nằm ngang của từ trường, một phương pháp được tiếp tục ứng dụng sau đó cho đến tận nửa đầu thế kỷ XX, và tìm ra một lý thuyết toán học cho việc định vị các nguồn từ trường trong lòng trái đất (tách biệt nguồn do lõi và vỏ Trái đất với nguồn do từ quyển hành tinh này.
Trong cuộc đời, Gauss đã bị ảnh hưởng tâm lý bởi cái chết của người vợ của ông, Johanna Osthoff mất năm 1809 và một thời gian sau đó là cái chết của Louis, con trai ông. Ít lâu sau, ông tái hôn với Friederica Wilhelmine Waldeck (thường gọi là Minna), một người bạn gái của vợ cũ, nhưng Minna lại mất vào năm 1831 sau một thời gian dài đau ốm. Từ đó người con gái Therese của ông phải chăm lo cho gia đình cho đến khi Gauss mất. Mẹ của Gauss cũng sống cùng ông từ năm 1812 cho đến khi bà mất vào năm 1839.
Gauss là người cuồng nhiệt theo chủ nghĩa hoàn hảo và một người lao động cần cù. Có chuyện kể rằng một lần, lúc Gauss đang giải một bài toán, có người đến báo với ông rằng vợ ông sắp mất. Ông nói “Bảo cô ấy đợi chút cho đến lúc tôi xong việc”. Ông không phải là người xuất bản nhiều tác phẩm khoa học, từ chối việc đăng các công trình của ông khi chúng chưa được ông cho là hoàn hảo hay còn nằm trong tranh luận. Khẩu hiệu của ông là (ít, nhưng chín chắn). Một nghiên cứu nhật ký của ông cho thấy ông đã khám phá ra nhiều khái niệm toán học quan trọng nhiều năm hoặc nhiều thập kỷ trước khi chúng được xuất bản bởi các đồng nghiệp đương thời. Một nhà viết lịch sử toán học, Eric Temple Bell, ước đoán rằng nếu Gauss xuất bản hết mọi công trình của ông, toán học đã có thể tiến nhanh hơn 50 năm.
Gauss không chỉ xứng đáng là ông hoàng của toán học như các nhà toán học đương thời và đời sau xưng tụng mà còn uyên bác và có những phát hiện đột phá trong nhiều ngành khoa học khác nữa - như Archimedes, Galilei và Newton trước ông. Ngoài toán học Gauss còn nghiên cứu về trắc địa, vật lý (điện từ, từ trường, địa từ), thiên văn và quang học. Hệ thống quang học mà Gauss áp dụng trong các kính viễn vọng thiên văn hay trắc địa chính là nguyên tắc của ống kính máy ảnh chúng ta vẫn dùng. Ông mở đường cho khoa trắc địa với nhiều đóng góp quan trọng và đã tự thực hiện công cuộc đo đạc vương quốc Hannover. Trong dịp này ông phát minh thiết bị heliotrope cho phép đo chính xác góc và một điểm ở xa, và đưa ra cách dùng tọa độ cong. Cùng với Wilhelm Weber, một nhà vật lý và là bạn đồng hành nghiên cứu về điện từ và từ trường trái đất trong nhiều năm, ông đã phát minh và thực hiện hệ thống điện tín đầu tiên trên thế giới. Hai người còn khám phá ra định luật Kirchhoff trong vật lý. Ngoài ra Gauss còn phát triển hệ thống đơn vị từ trường, mở rộng định luật hấp dẫn Newton cho các lực điện từ và đặt nền móng cho lý thuyết thế vị, mở đầu cho ngành vật lý toán.
Chính công cuộc trắc địa cho vương quốc Hannover đã dẫn dắt Gauss phát triển thêm phân bố Gauss và nhất là nghiên cứu về hình học vi phân trong toán học. Ông nghiên cứu các đường geodesics (đường ngắn nhất trên các bề mặt cong), đưa ra khái niệm độ cong của một bề mặt (độ cong Gauss) và chứng minh là độ cong này là một tính chất nội thể của bề mặt, không phụ thuộc vào cách lồng bề mặt ấy vào một không gian nào đó. Những năm cuối đời Gauss còn đặt nền móng cho ngành toán bảo hiểm mà lúc ấy còn phôi thai. Ông cũng theo dõi và nghiên cứu về tài chính, và khác với hầu hết các nhà khoa học đương thời, biết đầu tư rất khéo léo vào các dự án kinh tế thời bấy giờ.
Gauss có khả năng làm việc có một không hai. Ngay cả trong những lúc khó khăn nhất như khi bà vợ đầu của ông (và đứa con thứ ba) mất năm 1809 hay những năm tháng đi đo đạc lãnh thổ Hannover, ông vẫn nghiên cứu và đăng tải hàng chục bài nghiên cứu và trao đổi với các khoa học gia khác. Tuy vậy ông rất thận trọng, chỉ công bố kết quả nghiên cứu khi đã thật sự chắc chắn, có khi cả chục năm sau khi bắt đầu tìm ra lời giải. Do đó, mà các nhà toán học đồng thời đôi khi cảm thấy ông có vẻ không hợp tác tích cực. Nhật ký và bản thảo làm việc của ông còn ghi lại vô số kết quả chưa ai biết đến. Tuy vậy, Gauss vẫn có ảnh hưởng rất lớn đến khắp các nhà toán học thời bấy giờ. Nhà toán học trẻ tuổi Galois, trước buổi đọ kiếm quyết định cuộc đời, đã khẩn khoản yêu cầu chuyển bản thảo công trình của mình cho Gauss.
Gauss thích cuộc sống trầm lặng, bình thường, không thích tham gia hội hè đình đám nhiều ở Göttingen, mà chỉ thích đi dạo và vào thư viện trường đọc sách. Thời bấy giờ tình hình chính trị khá bất ổn và kinh tế suy sụp nhưng ngược lại, khoa học lúc đó phát triển khá mạnh. Người ta mở rộng các trường đại học, việc trao đổi thảo luận với các nhà khoa học trong ngoài nước trở nên phổ biến, ngay cả ngành thiên văn cũng được dư luận chú ý tới. Gauss chăm sóc việc xây đài thiên văn mới ở ngoại thành Göttingen và từ năm 1816 trở đi ông sống và làm việc luôn ở đó (chuyện này cũng có lợi về vệ sinh, vì khi bùng nổ bệnh dịch tả, ông bảo là “đài thiên văn của tôi là nơi bảo đảm sức khỏe nhất ở Göttingen!”). Tuy suốt đời làm việc với khoa học, nhưng Gauss cũng thích văn chương, nhất là đọc các tác phẩm của Jean Paul, một nhà văn nổi tiếng đương thời mà ông rất hâm mộ. Gauss đọc nhiều và học nhiều, những năm cuối cuộc đời ông còn học thêm thành thạo tiếng Nga.
Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng Gauss không hỗ trợ các nhà toán học trẻ tiếp bước ông. Ông rất hiếm khi hợp tác với các nhà toán học khác và bị nhiều người cảm thấy ông có sự tách biệt và khắt khe. Mặc dù ông có một số học trò, Gauss có vẻ không thích dạy học (có người nói ông chỉ dự duy nhất một hội thảo khoa học, ở Berlin năm 1828). Tuy nhiên, một số học trò của ông sau này cũng trở thành các nhà toán học.
Gauss mất ở Göttingen, Hannover (nay thuộc Hạ Saxony của Đức) năm 1855. Ông được chôn tại nghĩa trang Albanifriedhof.
Do công lao của Gauss đối với toán học, từ 1989 đến 2001, hình của ông cùng với biểu đồ phân bố Gauss được in trên tờ tiền giấy 10 mark Đức. Đức cũng đã in 3 con tem kỷ niệm về Gauss. Con tem số 725, phát hành năm 1955 nhân kỷ niệm 100 năm ngày mất của Gauss; hai tem khác, số 1246 và 1811, được phát hành năm 1977, nhân kỷ niệm 200 năm ngày sinh của ông. Hố Gauss trên bề mặt mặt trăng và tiểu hành tinh 1001 Gaussia đều được đặt tên để ghi công ông. Thậm chí, cuộc thi toán hằng năm do Đại học Waterloo tổ chức cho các học sinh trung học tại Canada cũng được đặt tên theo Gauss. Ông là nhà toán học và nhà khoa học người Đức có nhiều đóng góp lớn cho các lĩnh vực khoa học, như lý thuyết số, giải tích, hình học vi phân, khoa trắc địa, từ học, thiên văn học và quang học. Ông có ảnh hưởng sâu sắc đối với sự phát triển của toán học và khoa học. Gauss được xếp ngang hàng cùng Leonhard Euler, Isaac Newton và Archimedes, những nhà khoa học vĩ đại nhất của lịch sử.