K
ant sinh ngày 22 tháng 4 năm 1724 tại thành phố Konigsberg trong một gia đình tiểu thị dân. Ông là một trong những nhà triết học nổi tiếng nhất, sáng lập ra chủ nghĩa duy tâm Đức hồi nửa sau thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX. Ông là người mở ra thời đại mới cho lịch sử triết học thế giới. Có người đã ví tư tưởng triết học của Kant như một hồ chứa nước. Tư tưởng của những người đi trước thì tích tụ vào đó, còn tư tưởng của người đời sau được sản sinh ra từ đó. Vì vậy, tư tưởng triết học của Kant chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong lịch sử triết học thế giới.
Gia cảnh nhà Kant vô cùng khó khăn, cha là một người thợ làm yên ngựa, mẹ là một tín đồ Cơ đốc giáo ngoan đạo. Chính vì ảnh hưởng của gia đình nên ngay từ nhỏ Kant cũng đã tiếp thu ít nhiều tư tưởng Cơ đốc giáo. Cha mẹ ông mong muốn ông trở thành một vị mục sư nên đã gửi ông theo học tại trường giáo hội của Chính phủ. Nhưng những nghi thức tôn giáo gò bó và không khí ảm đạm buồn tẻ của ngôi trường đã khiến Kant thay đổi tư tưởng. Cũng chính vì môi trường giáo dục đó đã khiến Kant nảy sinh tư tưởng hoài nghi đối với các quan niệm tôn giáo được hình thành trên cảm giác và cảm thụ.
Năm 16 tuổi, sau khi tốt nghiệp trung học, ông theo học khoa thần học tại Đại học Koenigbeg. Tại đây ông vừa học triết học vừa học vật lý, một môn học được xem như triết học của khoa học tự nhiên. Các trường đại học của Đức lúc này chịu ảnh hưởng chủ yếu của triết học duy lý.
Năm 1755, ông nhận bằng tiến sĩ và bắt đầu giảng dạy tại trường đại học ở Koenigbeg. Các bài giảng của ông đi từ vật lý học đến triết học, được sinh viên rất yêu thích. Tác phẩm đầu tiên của ông ra đời năm 1755 mang tên “Lịch sử tự nhiên tổng quát và lý thuyết về bầu trời”, đây là một cống hiến quan trọng cho việc nghiên cứu về khoa học tự nhiên. Trong tác phẩm này, ông đã đề xuất một giả thuyết táo bạo về nguồn gốc của hệ mặt trời.
Ông rất say mê triết học của Rousseau. Tương truyền, ông có thói quen dạo mát đúng giờ quy định đến nỗi các bà nội trợ trong vùng khi thấy ông đi dạo mát mới bắt đầu nấu bữa tối. Hôm ấy không thấy ông đi dạo, mọi người tưởng ông ốm, vội đến nhà thì thấy ông đang say sưa đọc cuốn Emily của Rousseau.
Năm 1871, ông viết tác phẩm Phê phán lý trí thuần tuý. Tác phẩm này đã gây nên một cuộc cách mạng trong giới triết học. Thông qua tác phẩm này, ông được coi là đã tỉnh dậy khỏi “giấc ngủ giáo điều”, không những mở ra một tư tưởng triết học mới mà còn sáng tạo ra một phương pháp mới để quan niệm và phân tích các vấn đề triết học.
Nhận xét về Kant, Lenin viết: “Tính chất cơ bản trong triết học của Kant là điều hòa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm; làm cho hai chủ nghĩa ấy thỏa hiệp với nhau, kết hợp thành một hệ thống duy nhất hai trào lưu triết học khác nhau và đối lập nhau”. Một mặt Kant thừa nhận sự tồn tại của một thế giới của những “vật tự nó”. Mặt khác, “vật tự nó” của Kant căn bản là cái không thể hiểu biết được và nằm ở bên kia nhận thức của ta. “Khi thừa nhận vật tự nó ở ngoài chúng ta, phù hợp với những biểu tượng của chúng ta, thì ông đứng về lập trường duy vật. Khi tuyên bố vật tự nó là không thể hiểu biết được, là siêu nghiệm, là nằm ở bên kia, thì Kant lại là nhà duy tâm”. Xuất phát từ tính bất khả tri của “vật tự nó”, Kant đã xây dựng nhận thức luận chủ quan duy tâm của ông. Do ảnh hưởng của “vật tự nó”, nên năng lực cảm giác của con người tạo ra một mớ tri giác hỗn loạn, những tri giác đó được chỉnh đốn lại là nhờ ở những hình thức chủ quan của trực quan - không gian và thời gian. Do đó, mà nảy ra hiện tượng hoặc đối tượng của cảm giác. Sau đó, đến lượt giác tính phát sinh tác dụng. Nhờ những phạm trù logic chủ quan mà nó vốn sẵn có, giác tính biến đối tượng của cảm giác (hiện tượng) thành khái niệm. Lĩnh vực cao nhất của nhận thức của người ta là ở lý tính, mà lý tính cũng do những quan niệm chủ quan chỉ đạo.
Theo Kant, không gian, thời gian, tính nhân quả, các quy luật của tự nhiên không phải là đặc tính của bản thân tự nhiên, mà là đặc tính của giác tính của người ta, là phạm trù “tiên thiên”, có trước kinh nghiệm, độc lập đối với kinh nghiệm, là điều kiện của mọi kinh nghiệm, là phạm trù “tiên nghiệm”. Do đó, Kant đặt cho triết học của ông là: “Chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm”, tức là một chủ nghĩa duy tâm cho rằng các hình thức tiên thiên của ý thức là có trước kinh nghiệm. Như vậy, nhận thức tách con người khỏi tự nhiên chứ không liên kết con người với tự nhiên.
Kant đã đưa ra nguyên lý duy tâm cho rằng giác tính định ra quy luật cho tự nhiên. Toàn bộ cảnh tượng tự nhiên đúng như người ta nhận thức được chỉ là một kết cấu chủ quan của trí tuệ. Theo Kant, tính thống nhất của tự nhiên không phải ở trong tính vật chất của nó, mà ở trong tính thống nhất của chủ thể nhận thức, của cái “Tôi”. Hết thảy mọi cố gắng của lý tính để vượt ra ngoài giới hạn của kinh nghiệm chủ quan tất nhiên đều đưa lý tính đến những mâu thuẫn không thể giải quyết được, người ta chỉ có được những cái tương phản, những mâu thuẫn biện chứng của giác tính với bản thân nó.
Ở đây xuất hiện một số nhân tố biện chứng quan trọng đặc biệt của triết học Kant, những nhân tố này có một tác dụng lớn đối với sự phát triển sau này của phép biện chứng trong triết học Đức. Nhưng Kant cho mâu thuẫn đó là một sai lầm, một ảo ảnh chứ không phải là sự phản ánh của những mâu thuẫn có thật của thế giới bên ngoài. Tất cả những quan điểm của Kant về tính chất mâu thuẫn của lý tính, về những cái tương phản đều đi đến chỗ bênh vực cho bất khả tri luận.
Cũng như toàn bộ triết học Kant, nhận thức luận của ông; chủ trương phục hồi chủ nghĩa duy tâm, khôi phục Thượng đế và tôn giáo đã bị lung lay dưới những đòn công kích của các nhà duy vật. Kant điều hòa nhận thức với tôn giáo. Nhận thức luận của ông tự định cho mình trách nhiệm là hạn chế quyền lực của lý tính, để dành lại cho Thượng đế một chỗ đứng ở ngoài nhận thức. Trong học thuyết luân lý của mình, Kant cho rằng muốn duy trì đạo đức, tất phải thừa nhận sự tồn tại của Thượng đế và sự bất tử của linh hồn.
Trong thời kỳ đầu, Kant đã nêu ra giả thiết về nguồn gốc của thái dương hệ, giả thiết này góp phần làm cho khoa học tự nhiên tiến bộ. Trong tác phẩm Lịch sử tự nhiên tổng quát và lý thuyết về bầu trời, Kant đã đề cập đến vấn đề đó theo quan điểm phát triển, điều này được Engels đánh giá rất cao. Engels vạch rõ, với học thuyết của mình, Kant đã mở một đột phá khẩu trong thế giới quan siêu hình phủ nhận sự phát triển.
Trong các lĩnh vực xã hội và chính trị, Kant là người bênh vực quyền tự do công dân và hòa bình vĩnh viễn nhưng theo ông, tất cả những cái đó không thể thực hiện được. Kant cho là cần có một số cải cách xã hội nào đó, phải có những cải cách đó và đúng về mặt đó mà nói, thì học thuyết của ông đã phản ánh lợi ích của sự phát triển của thị dân tiến bộ Đức. Nhưng, như Marx và Engels đã nói, đó chỉ là lý luận Đức về cách mạng Pháp, nghĩa là hệ tư tưởng nhu nhược, dao động.
Những tác phẩm chính của Kant là: Lịch sử tự nhiên tổng quát và lý thuyết về bầu trời (1755), Tự luận (1783), Phê phán lý trí thuần tuý (1788), Phê phán phán đoán (1790).
Năm 1789, cách mạng Pháp bùng nổ, ông đã vô cùng xúc động trước cuộc cách mạng này và cho ra đời hai tác phẩm “Một kế hoạch về hòa bình vĩnh viễn” (1795) và “Tôn giáo trong giới hạn của lý trí thuần tuý” (1793).
Kant mất ngày 12 tháng 2 năm 1804.