K
arl Popper sinh ngày 28 tháng 6 năm 1902 tại Vienna trong một gia đình luật sư giàu có. Mẹ ông là người gốc Do Thái cải đạo theo Tin Lành. Popper lớn lên trong một gia đình mà sách và âm nhạc luôn đóng vai trò quan trọng. Ngay từ khi còn trẻ Popper đã chú ý đến những câu hỏi về triết học. Năm 1918 Popper rời trường trung học đến nghe giảng tại trường Đại học Vienna các môn toán, lịch sử, tâm lý học, vật lý lý thuyết và triết học. Từ 1920 đến 1922 ông học tại Trường Âm nhạc Vienna, khoa nhạc nhà thờ, thế nhưng chẳng bao lâu sau ông lại bỏ ý định trở thành nhạc sĩ.
Khi Poper bắt đầu học đại học vào năm 1924, phái cánh tả chiếm ưu thế về chính trị. Thời gian này là giai đoạn cao trào của thời kỳ Vienna đỏ (1918 - 1934). Popper đã hoạt động tích cực trong phong trào thanh niên xã hội chủ nghĩa. Sau khi chứng kiến 8 người bị giết chết trong các xung đột đầy bạo lực giữa những người cộng sản và cảnh sát, ông rời bỏ chủ nghĩa Marx. Ông tốt nghiệp khóa đào tạo sư phạm vào năm 1924, nhưng do không có nơi dạy học nên ông làm việc trong một cơ sở xã hội giáo dục trẻ em. Năm 1925 ông theo học tại Viện Sư phạm. Năm 1928 ông bảo vệ luận án phó tiến sĩ tâm lý học và ngôn ngữ học. Thông qua những năm học tập này Popper đã làm quen với thuyết tâm lý học của Oswald Külpe và trường phái Würzburg, những điều này đã có ảnh hưởng quyết định đến quan điểm về sư phạm và sau này đến thuyết nhận thức của ông.
Năm 1930, Popper được nhận vào dạy tại một trường trung học ở Wien. Ông dạy tại trường này cho đến năm 1935 và cũng trong năm này ông kết hôn với Josefine Anna Henninger.
Khi bắt đầu tiếp xúc với Nhóm Wien chung quanh Moritz Schlick, Rudolf Carnap và Otto Neurath, Karl Popper bắt đầu đặt bút viết những dòng tư tưởng về triết học của ông. Sau này, Schlick đã tách ly khỏi Popper, phê phán quan điểm thực chứng logic và chỉ trích thái độ nóng nảy của ông. Vì thế Popper không còn được mời dự các cuộc họp của Nhóm Wien nữa.
Herbert Feigl đã động viên và ông tiếp tục viết sau một thời gian lưỡng lự. Trong khoảng thời gian ba năm ông viết một bản thảo mà ngày nay chỉ còn tồn tại một phần. Phần còn lại của bản thảo này được ấn hành năm 1934 dưới dạng rút ngắn với tựa đề Logik der Forschung (Logic của việc nghiên cứu) và mãi đến năm 1979 mới được xuất bản dưới tựa đề Die beiden Grundprobleme der Erkenntnistheorie (Hai vấn đề cơ bản của nhận thức luận). Thời gian này ông đã tiếp xúc với Werner Heisenberg và Alfred Tarski.
Tác phẩm chính về triết học của ông là “Logic nghiên cứu cuối cùng”, được phát hành trong các tập san của Nhóm Wien mặc dù trong đó Popper đã phê phán chủ nghĩa thực chứng của nhóm này. Tác phẩm của Popper đã được thành viên của Nhóm Viên đánh giá như là một tác phẩm thành hình từ các thảo luận của nhóm. Ngày nay, tính phản bác trình bày trong tác phẩm của Popper được xem như là cơ sở cho việc nghiên cứu khoa học hiện đại.
Từ 1935 đến 1936 Popper sang Anh một vài tháng, nơi ông gặp gỡ Erwin Schrödinger, Bertrand Russell và Ernst Gombich. Ông đã đàm thoại rất nhiều với Schrödinger và tiếp xúc với Friedrich von Hayek. Tình hình chính trị tại Áo thời gian này ngày càng trở nên căng thẳng, vì thế ông đã nhận lời mời giảng dạy tại Canterbury University College trong Christchurch ở New Zeeland. Năm 1937, Popper cùng vợ xin nghỉ dạy và di dân đến New Zeeland. Cho đến năm 1945, 16 người thân quyến của ông đã bị Đức Quốc Xã giết hại. Thời gian này tác phẩm The Poverty of Historicism (Sự khốn cùng của chủ nghĩa lịch sử) và The Open Society and Ist Enemies (Xã hội mở và những kẻ thù của nó) đã khiến ông nổi danh với tư cách một nhà chính trị học. Đặc trưng trong các tác phẩm triết học của ông là việc tìm kiếm một tiêu chuẩn đáng tin cậy cho tính duy lý khoa học.
Mùa đông 1944 đến năm 1945 nhờ sự giúp đỡ của Friedrich August von Hayek, Popper nhận được lời mời giảng dạy tại der London School of Economics (LSE) and Political Science. Đầu tháng 1 năm 1946 vợ chồng Popper đến London, nơi ông bắt đầu là giáo sư giảng dạy. Từ năm 1949 ông là giáo sư trường Đại học London, bộ môn “Logic và phương pháp khoa học”.
Năm 1965, Popper được Nữ hoàng Elisabeth II phong tước hiệp sĩ. Năm 1969, ông ngưng giảng dạy nhưng vẫn tiếp tục viết sách. Ông là thành viên của Mont Pelerin Society do Hayek thành lập, của Royal Society cũng như là của International Academy of Science.
Popper mất vào ngày 17 tháng 9 năm 1994 tại London. Ông là nhà triết học người Áo đã đề xuất các ý tưởng về một xã hội mở, một xã hội mà ở đó sự bất đồng chính kiến được chấp nhận và được xem như một tiền đề để tiến tới việc xây dựng một xã hội hoàn thiện. Ông cũng được xem là người sáng lập Chủ nghĩa Duy lý phê phán (Critical rationalism).
Những tác phẩm chính của ông là:
• Logic của khám phá khoa học (1934)
• Xã hội mở và những kẻ thù của nó (1945)
• Sự khốn cùng của chủ nghĩa lịch sử (1976)